Vị vương hầu chấp chính, Người Bảo hộ thành Moskva, sống trong toà nhà rộng mênh mông của tổ tiên lão, ở phố Miaxniskaia gần quảng trường Lubianka.
Trong dinh cơ của lão có một ngôi nhà thờ với các tu sĩ để thờ phụng Chúa, xưởng dệt vải, xưởng thuộc da và lò rèn, chuồng ngựa, chuồng bò, chuồng cừu và chuồng gà cùng là nhiều hầm rượu, nhà kho đầy ắp, tất cả đều xây bằng những khúc gỗ tròn to tướng, bền chắc đến mãn đại. Tuy bộ mã toà nhà trông cũng không có vẻ gì sang trọng cho lắm với những khung cửa sổ nhỏ trổ ở tít trên cao và mái nhà cũ kỹ lợp bằng gỗ rêu phong, nhưng rường cột của nó rất vững chắc, không có những thứ trang trí diêm dúa ngớ ngẩn thiên hạ thường phô trương ở Moskva từ thời Sa hoàng Aleksey Mikhailovich. Tục lệ nơi đây cũng cổ. Song nếu có kẻ nào tâm hồn chất phác tự cho phép mình đến trình diện, ăn bận theo lối cổ với áo cầu dài tay, gấu áo chấm gót mà thêm vào đó lại để cả râu nữa thì một người khách như vậy - dù kẻ đó có thuộc dòng dõi vua Ruric đi chăng nữa - cũng sẽ sớm bước ra khỏi nhà giữa những lời nhạo báng của đám gia nhân: áo cầu của hắn sẽ bị cắt cụt đến đầu gối, má hắn chỉ còn lơ thơ vài túm râu, và bộ ria bị cắt thòi lòi ra khỏi túi áo, được đem về để sau nầy có thể đặt vào quan tài của hắn nếu hắn thấy hổ thẹn khi đứng trước Chúa… Khi vị vương hầu chấp chính thết đại tiệc, phần đông khách khứa đến dự mà lòng lo ngay ngáy vì không khí gò bó, vì những lời lẽ bỡn cợt thô lỗ và những trò hề sỗ sàng trong bữa tiệc. Chỉ riêng con gấu được huấn luyện thuần thục cũng đã gây ra lắm nỗi khốn khổ cho khách rồi; nó dùng hai chân bê một cái khay, lại gần một vị khách ương ngạnh và vừa mời khách một cốc tướng rượu mạnh ngâm hạt tiêu vừa gầm gừ để buộc ông nầy phải uống.
Nếu khách cưỡng lại, con gấu vứt khay, xông vào cào xé khách tơi bời. Vị vương hầu chấp chính chỉ cười, cười ngặt nghẽo đến nỗi cái bụng phệ làm rung cả bàn ăn trong khi tên hề của lão, một thằng chột tinh ma quỷ quái có cái mồm móm chỉ để lộ có độc một chiếc răng nanh, kêu lên om xòm: "Con gấu nó biết cần phải xé xác con vật nào đấy nhé!"
Dậy từ sớm tinh mơ, vị vương hầu chấp chính bận áo vải thô màu xanh sẫm, bụng thắt một dây lưng nhỏ có dệt Bài kinh cầu Chúa và đi ủng da mềm màu sặc sỡ đến dự buổi lễ ngắn cầu kinh sáng. Khi một tia mặt trời xuyên qua đám khói hương mù mịt, khi ánh nến và ánh đèn thờ mờ dấn và khi viên giáo sĩ bé nhỏ và nhút nhát run run niệm "Amen" thì vị vương hầu chấp chính phủ phục xuống thảm, rênn một cách khó nhọc, cúi rạp xuống cho kỳ trán chạm nền nhà gạch mới lau; rồi sau khi người ta đã đỡ lão dậy, lão hôn chất kim khí lạnh ngắt của cây thánh giá và đi về phòng ăn. Tại đây, ngồi thoải mái trên tấm ghế dài, lão viết bộ ria den, uống một cốc rượu mạnh ngâm hạt tiêu rượu mạnh đến nỗi người lạ uống vào sẽ phải há hốc mồm ra hồi lâu; rồi lão ăn một mẩu bánh mì đen rắc muối và bắt đầu ăn xúp lá củ cải để nguội, rau cam tùng hương thịt ướp muối đủ các kiểu, nhiều món mì ống thịt quay. Lão ăn thong thả theo kiểu nông dân.
Cả nhà và ngay cá bà vương hầu Anataxia Fedorovna, là em họ công chúa Praxkovia, ngồi ăn cũng phải giữ im lặng, đặt thìa xuống không có tiếng động và nhón ngón tay nhẹ nhàng lấy thức ăn trong đĩa. Trong các lồng chim treo nơi cửa sổ, chim cưn cút và chim sẻ đá biết nói bắt đầu líu lo, có một con nói được rõ ràng: "Chú ơi, cho uống vodka…"
Sau khi đã uống một môi kvas, vị vương hầu chấp chính còn ngồi nán lại một lát rồi mới đứng lên, đi sang phòng ngoài, gỗ lát sàn kêu cót két; ở phòng ngoài, người hầu đưa lão cái áo nẹp dạ rộng thùng thình, gậy chống và mũ lông. Khi bóng lão hiện qua những ô kính mờ mờ của thềm nhà có mái che, thong thả xuống các bậc thang gác thì mọi người ở quanh trong sân, gần nhà, bỏ chạy tán loạn. Lão đi một mình qua sân, theo một con đường nhỏ lát gạch. Cổ lão to, khó ngoái lại được nhưng từ khóe mắt lồi, lão nhìn thấy hết: tên nầy đã chạy về phía nào, trốn vào đâu, lão nhận ra bất kỳ một sơ xuất nhỏ nào và ghi tất cả lại trong trí nhớ.
Nhưng hàng đống công việc khẩn cấp, công việc quốc gia đang đòi hỏi lão, cho nên nhiều khi lão cũng không có thì giờ dừng lại những chuyện vặt vãnh đó. Lão đi qua cái cổng sắt nhỏ trổ trong hàng rào, sang sân bên cạnh là sân Bộ Preobrazenski. Nơi đó, trong bóng tranh tối tranh sáng của các dãy hành lang dài, bọn thơ lại vội vã bỏ mũ im thin thít khi lão đi qua và quân lính ngay người đứng nghiêm.
Prokho Sitserin, viên thư ký của Bộ Preobrazenski đón lão ở cửa phòng Quốc ấn; vị vương hầu chấp chính vừa ngồi vào bàn trước cửa sổ dưới vòm trần long lở, viên thư ký liền theo thứ tự trình bày công việc thường ngày; hôm qua đã nhận được bốn khẩu đại bác bằng đồng đen từ Tula đến; cũng từ Tula đưa đến: bốn khẩu bằng gang, đúc rất khéo. Có phải gửi đi ngay không và gửi đi đâu: gửi đi Narva hay đi Yuriev? Hôm qua cũng vừa trang bị xong cho đại đội một của trung đoàn mới thành lập; chỉ còn thiếu giầy. Giầy không có khoá sẽ nộp vào tuần sau. Tại Hội đồng xã trường, Xovliakov và Xmurov, thương nhân ở Chợ giầy, sẵn sàng thề trên cây thánh giá rằng họ sẽ thực hiện đúng giao kèo.
Cần có những biện pháp gì? Chiểu theo lệnh nhận được, người ta đã gửi đi Narva thuốc súng, mồi, đạn đựng trong túi và đá lửa đựng trong bao. Còn thủ pháo thì đã không gửi đi được vì viên thủ kho Eroska Maximov đã hai ngày nay không tỉnh rượu và không chịu giao chìa khoá cho ai cả. Người ta đã tìm cách giằng lấy chìa khoá trong tay hắn nhưng hắn cấm con dao thái bắp cải đe doạ mọi người. Phải làm gì? Sitserin còn trình bày nhiều báo cáo khác cũng tương tự như vậy. Cuối cùng, hắn lại gần cửa sổ dưới vòm nhỏ, lấy những cuộn hồ sơ mật (biên bản các cuộc hỏi cung có dùng hoặc không dùng nhục hình) và bắt đầu đọc. Khó mà nói được là vị vương hầu chấp chính, bàn tay nặng nề đặt trên bàn, đang nghe hay đang ngủ và ngủ gật, nhưng Sitserin biết rằng dù sao lão cũng nắm được điều cốt yếu:
"Trong nhà tắm hơi nóng bỏ hoang, nơi tên giáo sĩ phá giới Griska ẩn náu trong sân nhà hai công chúa Catherine Alekseyevna và Mari Alekseyevna, đã tìm thấy dưới ván lát sàn một cuốn vở khổ giấy xếp bốn dày bằng một nửa ngón tay. - Sitserin đọc giọng đều đều, tựa hồ y thả những hạt đỗ khô xuống đầu người nghe - Trên trang đầu cuốn vở đó viết: "Kho báu của mọi hiểu biết". Bên dưới, cũng trên trang ấy: "Nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Thánh Thần… có một giống cỏ gọi là Zelezka. Rất lớn là tính năng của nó. Nó mọc trong khe núi, và ở những khoảng rừng đã bị đốt; nó mảnh cây, có chín lá mọc xung quanh và ba bông hoa ở ngọn màu đỏ son, đỏ tía và xanh. Phải hái nó vào độ trăng lưỡi liềm, đem giã nhỏ, nấu lên và uống ba lần. Khi ấy ngươi sẽ thấy xuất hiện các quỷ thần của nước và không trung… Hãy niệm câu thần chú "Nxtđttsnđxi" và ngươi sẽ được như nguyện.
Vị vương hầu chấp chính thở dài một cái và người đôi mi mắt lim dim lên:
- Ngươi hãy nhắc lại tiếng đó một lần nữa xem nào, cho rõ vào.
Sitserin gãi trán, nhăn mặt và cáu kỉnh, gắng gượng nói: "Nxtđttsnđxi". Y liếc nhìn vương hầu chấp chính.
Lão gật đầu. Viên thư ký lại tiếp tục đọc:
"Ôi các đấng vương tôn, ôi các bậc đại nhân trên thế gian, ôi nước mắt và tiếng thở dài? Chúng ta muốn gì đây? Chúng ta muốn chế ngự hiện tại cùng cơn cuồng nộ của nó, để thời buổi bình thường trở lại"
- Đây rồi! - Vương hầu chấp chính cựa quậy trên ghế, một ánh thông hiểu tinh ranh lóe lên rồi tắt ngay trong cặp mắt lồi của lão - Cỏ zelezka, ta biết là cái gì rồi đó. Nhưng tên phá giới Griska có nhận đó là cuốn vở của nó không?
- Hôm nay, sau hai giờ tra tấn. Griska đã nhận đó là cuốn vở của nó. Nó nói đã mua cuốn vở ấy của một người lạ ở phố Kixlovka, mất bốn kopeik. Bị thúc ép trả lời tại sao nó lại giấu cuốn vở trong nhà tắm hơi nóng dưới một miếng ván lát sàn, nó nói là vì ngu dốt.
- Thế ngươi có hỏi nó phải hiểu như thế nào câu "để thời buổi bình thường trở lại" không?
- Thưa có ạ. Sau khi quất nó năm roi knút(1), nó đã trả lời là nó mua cuốn vở đó để lấy giấy đốt nấu bánh thánh. Còn ở trong đó viết những gì thì nó bảo nó không biết, nó không đọc.
- Chà, thằng khốn kiếp, thằng khốn khiếp!
Vương hầu chấp chính thong thả nhấp nước bọt vào ngón tay và lật những trang giấy quăn mép của cuốn vở. Lão đọc lầm rầm một vài đoạn: "Cỏ "vakharia" có hoa màu vàng sẫm. Hãy cho người ăn phải của độc uống và tức khắc ngươi sẽ thấy hắn miệng nôn trôn tháo tống độc ra ngoài…" - Một thứ cỏ quả là có ích, - vương hầu chấp chính nói. Rồi lão tiếp tục đọc, lấy móng tay dò theo hàng chữ: "Trong sách thánh Xirin có viết: một kẻ dụ hoặc rồi sẽ đến, đẩy các ngươi vào vòng cám dỗ. Một trong những điềm báo hiệu hắn đến là cỏ nicotian tục gọi là thuốc lá, các ngươi sẽ bị buộc phải đốt cháy và nuốt khói của thứ cỏ ấy, phải tán nhỏ nó ra thành bột mà hít; và đáng lẽ phải hát các bài thánh kinh thì các ngươi lại phải luôn luôn hít thứ bột đó làm các ngươi hắt hơi. Một điềm khác báo hiệu hắn đến là việc cạo râu".
Vương hầu chấp chính gấp vở lại.
- Nầy… thư ký! Ta đi hỏi cung nó một chút: hãy cố tìm hiểu xem ai là kẻ ước mong chế ngự thời buổi chúng ta đang sống. Tên giáo sĩ nầy là một con cáo tinh khôn đây. Cuốn vở nầy, không phải hôm nay ta mới biết, nó đã đưa cho một nửa thành phố đọc rồi.
Trong khi họ đi xuống cầu thang gạch nhỏ hẹp, ầm ướt dẫn xuống táng hầm, đến phòng tra tấn, Sitserin nói với cái giọng rầu rĩ thường ngày của y:
- Thưa vương hầu, khí ẩm nầy từ mặt đất bốc lên, gạch đã mục nát cả, mỗi lần đi là có thể ngã gãy cổ, cần phải cho xây cầu thang mới?
- Ừ, nên lắm, - lão vương hầu chấp chính trả lời.
Một viên lục sự đi trước họ, tay cầm cây nến. Cũng như viên thư ký, hắn mặc một bộ quần áo cắt theo kiểu ngoại quốc nhưng vải đã sờn trơ sợi, cổ hắn deo một cái tráp bằng đồng đen đựng đồ dùng để viết, một cuộn giấy thò ra ở cái túi áo rách đã gần đứt hẳn. Trong căn hầm trần thấp lè tè, hắn đặt cây nến lên cái bàn bằng gỗ sồi, và tức thì mấy con chuột vụt chạy như những cái bóng biến vào hang của chúng ở các xó xỉnh.
- Thưa vương hầu, chuột thì bây giờ ở trong nầy đầy dẫy. - Viên thư ký nói - Lâu nay, tôi đã định mua bả chuột.
- Ừ, nên lắm!
Hai gã hộ pháp, mặt mầy hung hãn, cúi đầu dưới vòm trần, lôi xềnh xệch tên Griska vào hầm: tên giáo sĩ phá giới mặt xám ngắt, mắt trợn người, môi trễ xuống, bộ râu cằm bết lại như len. Thế nhưng có thật là chân nó đứng không vững nữa không? Khi người ta đặt nó dưới cái móc buộc lòng thòng sợi dây thừng của cột điếu hình, nó nhủn người nằm phục xuống, co quắp như chết. Viên thư ký thì thầm: "Thưa vương hầu, tôi đã tra nó mà không hề làm gãy tứ chi nó, và nó đã tự đi được về nơi giam đấy ạ!".
Vương hầu chấp chính nhìn cái mảng sọ hói lộ ra dưới mái tóc bù xù của tên Griskas, rồi lão nói, giọng ề à như buồn ngủ:
- Chúng tao biết là năm kia ở Zvenigorod mi đã bóc các đồ trang trí bằng bạc của các tranh thánh ở nhà thờ thánh tiên tri Eli, và mi đã bẻ khoá ống tiền dành cho kẻ nghèo ở nhà thờ Ngự cáo, và mi lại còn ăn cắp cả áo cầu và ủng dạ của giáo sĩ để ở trong điện thờ. Các thứ đó, mi đã đem bán đi lấy tiền uống rượu hết sạch. Bị bỏ tù, mi đã tẩu thoát và trốn trong nhà nhiều người quý tộc ở Moskva và sau đó mi đã trốn ở nhà các bà công chúa, trong một căn nhà tắm hơi nóng bỏ hoang… Mi thú nhận chứ? Mi có trả lời không nào? Không à? Được! Tất cả những việc đó mới chỉ là tội nhỏ thôi.
Lão ngừng nói. Sau lưng những tên hộ pháp mặt mầy hung dữ, lặng lẽ xuất hiện một người vẻ chững chạc, mặt hốc hác, xanh rớt, có cái miệng rộng nom như một vệt đỏ ở giữa bộ ria mượt và bộ râu cằm ngắn loăn xoăn. Đó là người tra tấn, tên đao phủ.
- Chúng tao biết, - vương hầu chấp chính nói tiếp, - là mi đã nhiều lần đến xloboda Đức, tới nhà mụ Uliana, một mụ vãi, trao thư từ và tiền của những người nào đó cho nó… Mụ Uliana đem những thư đó đến tu viện Novodevichi giao cho người mà mi biết đấy. Rồi mụ nhận của người ấy thư từ, gói bọc đem về đưa mi trao lại cho những người mà ta đã nói lúc nãy… Mi có làm việc ấy chứ? Mi có nhận không?
Viên thư ký nhoài người qua bàn thì thào vào tai vương hầu chấp chính, vừa đưa mắt chỉ tên Griska:
- Thưa vương hầu, đúng là nó đang nghe đấy. Cứ nhìn tai nó là tôi biết.
- Mi không muốn thú nhận hả? Được rồi… Mi gan hả? Mi lầm đấy… Thái độ của mi sẽ gây cho chúng tao thêm một số phiền phức nữa, còn mi thì sẽ phải chịu thêm những đau đớn vô ích về thể xác… Nhưng thôi… Bây giờ, đây là điều mi hãy nói cho tao hay.
- Nói cho chính xác mi hay lui tới những nhà nào? Mi đã đọc đích xác cho những ai nghe những điều trong cuốn vở nầy nói về ước muốn chế ngự thời buổi hiện đại cùng cơn cuồng nộ của nó để cho thời buổi bình thường trở lại?
Vương hầu chấp chính dường như sực tỉnh, nhướn cặp lông mày, phồng má lên. Tên đao phủ với dáng đi lanh lẹn lại gần Griska đang nằm sóng xoài, mặt úp xuống đất; hắn sờ nắn tên tù nhân và lắc đầu:
- Thưa vương hầu Fedor Yurievich, hôm nay nó sẽ không nói đâu. Có tra nó cũng vô ích, chịu điếu hình và năm roi knut nó như mụ mẫm đi rồi… Phải để lại ngày mai thôi.
Vương hầu chấp chính lấy ngón tay gõ gõ lên bàn.
Nhưng Xilanti, tên đao phủ không thể nào lầm được: nếu kẻ bị cực hình đã "mụ mẫm" thì có chặt đôi người nó ra cũng không moi được gì. Mà việc nầy lại tối quan trọng: bắt được tên giáo sĩ phá giới Griska, vương hầu chấp chính đã lần ra được dấu vết, nếu không phải của một vụ âm mưu thực sự thì ít nhất cũng là của một sự chống đối và những lời thì thào hằn học trong một số người tai mắt ở Moskva vẫn còn luyến tiếc những đặc quyền mà bọn quý tộc được hưởng dưới thời công chúa Sofia hiện bị giam ở tu viện Novodevich và đang mòn mỏi dưới tấm khăn đen tu sĩ. Nhưng đành vậy thôi, Vương hầu chấp chính đứng dậy và trở lên cái cầu thang mục nát. Sitserin ở lại và loay hoay quanh tên Griska.