Mùa đông đó, vợ chồng Volkov không đến được Riga. Con đường rộng phủ tuyết chạy từ Smolensk đến Krazburg qua Orsa. Qua biên giới Ba Lan rồi thì đường đi không còn như ở đất nước Nga nữa. Ở Nga, đi từ làng nầy sang làng khác phải mất hàng ngày đường, qua những cánh rừng rậm rạp, ở đây làng mạc san sát: trên đồi là một tu viện hoặc ngôi nhà thờ Thiên chúa giáo và cơ ngơi của lãnh chúa; đây đó sừng sững một toà lâu đài có tường đá và hào hố vây quanh. Ở ta, chỉ có những địa chủ nhỏ sống ngay tại đất đai của họ, hoặc một vị đại thần thất sủng, âu sầu sống như loài chồn cáo sau một lớp hàng rào cao. Còn đám quý tộc Ba Lan thì họ sống vui vẻ, phóng khoáng.
Alekxandra Ivanovna khao khát được rời khói đường cái để rẽ vào một trong những toà lâu đài tuyệt vời ấy mà người ta trông thấy mái lợp đá đen, nhọn hoắc và những khung cửa sổ lớn thấp thoáng sau hàng cây bồ đề cổ thụ. Volkov phát cáu:
- Chúng ta là sứ giả của Sa hoàng, mang công thư đi, buộc người ta phải đón tiếp mình là điều không nên, cô phải hiểu cái đó mới được chứ?
Họ không phải buộc ai tiếp rước. Một buổi tối, đã khá khuya, họ vào một làng lớn hình như không có người ở, thậm chí không nghe thấy cả tiếng chó sủa.
Họ dừng lại trước một quán ăn. Trong khi người chù quán, một người Do Thái cao lớn lưng gù, đội mũ lông cáo, khó khăn mới mở được cánh cống lớn thì Alekxandra Ivanovna từ trên xe bước xuống, đi lại trên tuyết cho đỡ tê chân. Nàng nhìn vầng trăng lưỡi liềm, ánh sáng thê lương không át nổi ánh sao. Xanka cảm thấy thẫn thờ, chẳng hiểu tại sao… Nàng chậm rãi đi theo đường phố… Hầu hết nhà cửa đều xiêu vẹo, nhiều cái không có mái; chỉ có những chiếc sào in những vạch đen lên bầu trời trăng suông, Nàng đi tới một cây liễu phủ sương giá dưới gốc cây có một ngôi đền nhỏ. Trước cánh cổng khoá trái, một người đàn bà mặc áo trắng, đang phủ phục, tay che kín mặt. Bà ta không quay đầu lại mặc dầu có tiếng chân lạo xạo trên tuyết. Xanka dừng lại đó một lát rồi thở dài bỏ đi. Hình như tai nàng lúc nào cũng nghe thấy có tiếng nhạc văng vẳng ở xa xa đâu đó.
Volkov lên tiếng gọi. Cả hai người bước vào quán ăn qua một phòng ngoài chạy dài, ngốn ngang những chậu con và thùng nhỏ. Chủ nhà cầm cây nến mỡ soi đường - bộ râu rậm vểnh lên dưới khuôn mặt choắc; bác ta có cặp mắt già nua, âm thầm: "Ở nhà tôi không có rệp đâu, các ngài tha hồ mà ngủ - bác nói bằng tiếng Bạch Nga - Chỉ mong sao đức ông Malasovski không có ý nghĩ mò tới đây, tới quán ăn nầy ôi, lạy Chúa, lạy Chúa!".
Trong quán nóng sực, phảng phất mùi chua chua. Sau một bức rèm rách, một em bé đang khóc trong nôi.
Xanka bỏ áo ngoài ngả mình lên những tấm đệm đem từ bên ngoài lạnh lẽo vào. - nàng cùng thấy muốn khóc. Mắt nhắm lại, nàng cảm thấy ở cách tim một chút, về phía bên phải - chỗ trú ngụ của linh hồn - một mối lo âu không sao chịu nổi… Có lẽ nàng động lòng thương xót ai chăng, có lẽ nàng muốn yêu chăng? Nàng chẳng thể biết được.
Cửa quán cứ đóng mở sầm sầm không lúc nào ngớt. Chủ quán và khách ra ra, vào vào. Đứa bé cứ oe oe khóc. "Đêm nay mình lại không ngủ được đây!". Chồng nàng gọi: "Xania, em có dậy ăn tối không?" Nàng giả vờ ngủ. Nàng lại hình dung thấy vầng trăng lưỡi liềm soi sáng lưng người đàn bà nông dân mặc áo trắng, trước ngôi đền… Nàng những muốn xua đuổi hình ảnh đó nhưng không được… Rồi những kỷ niệm cũ lại hiện lên: nàng lại nhìn thấy đôi mắt ghê rợn của mẹ chết trên giường… Ngọn nến cháy leo lét, mấy đứa em nhỏ mặc áo lót ướt nằm ở trên lò, thò đầu ra ngoài ổ, lắng nghe mẹ chúng rên rỉ; chúng nhìn bóng chiếc guồng sợi in trên vách gỗ, - trông như bóng một ông già với cái cổ gầy ngẳng và bộ râu dê… "Xania Xania, - mẹ nàng thều thào gọi - Xania, mẹ thương chúng nó…".
Volkov ung dưng đang ngồi ăn món súp mì ống. Cửa lại mở rồi đóng sập lại; một người nào đó bước vào và khẽ thở dài. Xanka nuốt nước mắt: "Ta sẽ để hạnh phúc lọt đi mất như thế đấy". Chồng nàng lại lên tiếng:
- Xania, uống ít sữa vậy!
Có tiếng đàn bà ở ngưỡng cửa:
- Cầu Chúa phù hộ cho đức ông được mạnh khỏe. Ba ngày nay, chúng con chưa được một miếng gì vào bụng. Đức ông làm phúc cho chúng con xin ít bánh.
Như có cái gì đâm nhói vào lòng. Xanka nhổm dậy ngồi lên chiếc ghế dài. Gần ngưỡng cửa, một người đàn bà đang quỳ; giữa hai vạt áo khoác trắng hé mở, lộ ra khuôn mặt thám hại trông nghiêng của một đứa bé. Xanka chồm dậy vớ lấy một đĩa thịt ngỗng.
- Đây, cầm lấy! - Nàng chìa chiếc đĩa và bất giác, lắc lắc đầu như kiểu phụ nữ nông thôn - Thôi đi đi thôi đi đi.
Người đàn bà đi ra. Xanka ngồi vào bàn ăn; tim nàng đập mạnh đến nỗi sữa nàng cũng không nuốt nổi.
Volkov hỏi người chủ quán Do Thái.
- Có chuyện gì vậy? Các ông mất mùa à?
- Không ạ, chúng tôi chưa đến nông nỗi ấy, Chúa không muốn vậy. Nhưng đức ông Malasovski đã tịch thu vụ thu hoạch rất tốt của chúng tôi đem đi bán ở Koenigsberg.
- Ông nói thật chứ, - Volkov ngạc nhiên đặt thìa xuống bàn. - Ra người ta đem lúa mì đi bán ở Koenigsberg. Thế bán được giá hời chứ?
- Ô giá cả! giá cả! - người chủ quán đằng hắng, lắc lư bộ râu mềm. Bác đặt giá nến lên ghế dài nhưng không dám ngồi xuống, - Hiện nay, bọn nhà buôn ở Koenigsberg biết rõ rằng chỉ có thể bán được lúa mì cho họ thôi. Không ai đem bán ở Riga đâu, ai mà chịu đóng thuế quan cho người Thuỵ Điển? Thế là chúng trả một florin.
- Một florin, một pud? - Volkov không tin, cặp mắt xanh mở to tròn xoe - Nhưng có lẽ ông nói dối?
- Tôi xin thề là tôi không nói dối. Tôi nói dối đức ông làm gì? Thời tôi còn trẻ, người ta đem bán lúa mì ở Riga, giá một florin rưỡi, có khi hai florin một pud. Đức ông cho phép tôi ngồi chứ? Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa. Tất cả những chuyện đó đều là những thú đoạn độc ác của lãnh chúa Malasovski đối với chúng tôi… Ngài Malasovski đã chém chết bác Do Thái Ante tại làng của lãnh chúa Badovski. Mà lãnh chúa Badovski thì chỉ cần mất một con gà ranh cũng huy động hết thảy giới quý tộc của phe mình. Ante trước kia làm thư ký cho lãnh chúa Badovski. Thế là lãnh chúa Badovski dẫn đầu các vị quý tộc của phe mình. Đến đánh lãnh chúa Malasovski. Súng bắn như pháo ran! Ôi! lạy Chúa! Lạy Chúa… Rồi thì lãnh chúa Malasovski với phe quý tộc của mình lại tấn công lãnh chúa Badovski. Họ phung phí không biết bao nhiêu thuốc súng, tất cả chỉ vì một anh Do Thái chết… Rồi hai bên lại giảng hoà với nhau và đã uống hết năm mươi thùng bia. Các vị quý tộc phe lãnh chúa Malasovski ào ào kéo đến đây; họ đã bắt tôi, bắt năm người Do Thái nữa, ném tất cả lên xe ngựa, rồi lấy sào chẹn chúng tôi tựa hồ chúng tôi là những bó lúa và dẫn chúng tôi đến nhà lãnh chúa Badovski… Lãnh chúa Malasovski ôm bụng cười: "Nầy, lãnh chúa Badovski, ông mất một thằng Do Thái thì ta trả lại cho sáu đứa đây" Khi nằm ở trên xe. Yanken Kagan đã bị gãy một xương sườn, Moxey Levit thì bị vỡ gan, còn tôi thì hai chân bị teo từ ngày đó
Volkov vừa rót sữa vào cái đĩa sành vừa nói:
- Vậy nếu ông không nói dối thì tại sao làng nầy khổ cực đến như thế?
- Thưa đức ông, đám mugic ăn gì cho béo được?
- Ăn cho béo? Không. Béo để làm gì? Không nên để cho nông dán béo quá… Nhưng dù sao, ít ra cũng phải lợp mái nhà chứ! Là vì, chuyện đã xảy ra? Ta đã trông thấy nhà cửa ở đây: súc vật ở còn sung sướng hơn. Vậy ra ở đây không có nông dân phải nộp thuế à?
- Ở đây tất cả nông dân đều phải đi sâu.
- Thế phải đi bao nhiêu ngày?
- Họ làm cho lãnh chúa mỗi tuần sáu ngày.
Volkov lại sửng sốt…
- Ở nước ta, Ngân khố của Sa hoàng sẽ không cho phép làm thế. Một tên nông dân như lão nầy thì dù chỉ là một nữa kopeik thuế cũng không thu được! Vậy ở nước ông, ai đóng thuế cho Ngân khố? Các lãnh chúa à?
- Không, các lãnh chúa không đóng thuế. Chính chúng tôi nộp cho các lãnh chúa!
- Quốc gia gì mà lạ vậy - Volkov lắc đầu cười.
- Xania, em xem đấy: đám lãnh chúa Ba Lan thật tự do phóng túng.
Nhưng Xanka nào có chú ý nghe. Mắt nàng mở to, nhìn trân trân. Nàng quay về phía cửa sổ, áp hắn mặt vào cửa kính ướt. Bên ngoài, tiếng đàn địch mỗi lúc một to hơn, nghe có tiếng nhạc ngựa, tiếng người. Chủ quán lo lắng cầm giá nến, và lê chân lom khom bước ra phía cửa.
- Tôi đã bảo mà, lãnh chúa Malasovski sẽ không để đức ông và phu nhân ngủ yên đâu
Chừng mười chiếc xe trượt tuyết dừng lại trước quán. Một bọn Do Thái cò cưa những cây vĩ cầm, thổi những chiếc kèn rè. Những gã quý tộc Ba Lan, nằm lăn lóc thành đống trên những tấm thảm, giơ chân lên, cười sằng sặc, la hét cổ vũ đám nhạc công. Một trong số những tên mới đến, một gã có ria mặc áo bông ngắn, nhay múa trên tuyết đã bị dẫm nát; khi thì oai vệ đi từng bước, xoăn xoăn bộ ria, khi thì hắn quay tít, thanh gươm của hắn bay theo sau. Một đám kỵ sĩ cầm đuốc phi ngựa tới và nhảy xuống. Trong khoảng tối tăm mù mịt, bốn con ngựa cao lớn xuất hiện, đầu cắm lông công nghểnh cao: trong xe trượt tuyết mui trần có một số phụ nữ.
Xanka dán mặt vào cửa kính, giương to mắt nhìn những người đàn bà nước ngoài ấy: họ đều mặc áo kép chẽn ngắn bằng nhung, cổ áo viền lông thú, mũ nhỏ đội lệch sang một bên mang tai. Họ cười vang, các ngọn đuốc soi sáng họ.
Một lãnh chúa béo lùn, từ sau xe bước xuống, loạng choạng đi về phía quán ăn. Hắn trông thấy khuôn mặt Xanka sau cửa kính mờ và ra hiệu cho bọn quý tộc:
- Vào đi!
Hắn và theo sau hắn là những gã quý tộc, đứa thì mặc áo lông cừu thường, đứa thì quần áo rách rưới, nhưng tất cả đều mang kiếm và súng ngắn xộc vào quán ăn. Tên lãnh chúa, mặt đỏ như gấc chín, đứng giạng chân, đưa tay lên vuốt ria, bộ ria dài đến nỗi bàn tay che không kín. Áo ngoài của hắn lót lông chồn ánh bạc, phủ đầy tuyết, rõ ràng hắn đã từ sau xe ngã xuống đất nhiều lần. Hắn gõ kiếm kêu loảng xoảng, mắt long lên sòng sọc nhìn Xanka, rồi với những lời lẽ vãn hoa, hắn nói một cách khó khăn, giọng nói của một người say rượu:
- Kính thưa quận chúa kiều diễm, quận chúa đến mà tên chủ quán khốn nạn báo cho tôi biết quá chậm. Sao! Một vị phu nhân xinh đẹp, cao quý nhường nầy mà lại phải ngủ đêm tại một quán trọ ghê tởm như thế nầy ư! Chúng tôi không thể để như thế được. Nầy các vị hãy quỳ xuống kính mời quận chúa về lâu đài!
Bọn quý tộc trong đó có nhiều tên đầu tóc đã hoa râm, mặt đầy sẹo, hơi thở làm quán ăn nồng nặc mùi rượu mạnh, quỳ một gối xuống đất trước Xanka, trật mũ ra và một tay đấm ngực nói:
- Kính thưa quận chúa kiều diễm, tôi xin thề sẽ chết ngay nếu tôi đứng dậy không quỳ mãi trước đôi chân xinh xắn tuyệt vời của quận chúa! Kính mời quận chúa tới viếng thăm nhà lãnh chúa Malasovski.
Alekxandra Ivanovna, từ sau bàn đứng phắt dậy, chiếc khăn quàng đi đường trên vai tụt xuống, nàng đứng như vậy, mặt tái nhợt, lông mày nhướn cao, cánh mũi phập phồng, trước bọn quý tộc Ba Lan đang quỳ gối.
Chử quán giơ thật cao cái giá nến. Nhìn thấy nàng đẹp lộng lẫy, lãnh chúa Malasovski xô mạnh một tên quý tộc rồi gạt một tên khác ra và bước tới gần, nặng nề quỳ xuống một gối xuống:
- Xin kính mời quận chúa!
Xanka nhanh trí đưa mắt ra hiệu cho chồng. Vaxili hoảng sợ hết hồn, run rẩy cởi khuy cổ áo sơ mi để lấy ở bên trong ngực ra chiếc túi đựng công thư chứng nhận tư cách bất khả xâm phạm của mình. Xanka ngập ngừng một phút rồi cất giọng thánh thót lên tiếng:
- Tôi rất sung sướng biết ngài!
Hơn một tuần nay, lãnh chúa Malasovski chè chén ăn chơi làm huyên náo toàn trấn Orsa. Vợ lãnh chúa, Augusta phu nhân thích khiêu vũ và các trò giải trí, đến nỗi mụ bắt các bạn nhảy khiêu vũ đến mệt cả người. Có kẻ kiệt sức phải trốn vào một xó - người ta đánh thức y dậy, lôi y ra phòng lớn - mặt mũi y phờ phạc vì ngái ngủ; ngoài hành lang, các nhạc công gầy nhom mặc áo dài vá đụp đánh đàn, thổi kèn đến rã tay, hết hơi. Dưới trần nhà vẽ vời rất tráng lệ, từ những ngọn đèn chùm sản xuất ở Vơnidơ, sáp nến nhỏ giọt xuống những bộ tóc giả đẫm mồ hôi và những tấm xiêm đang tung bay; tại những phòng bên, đám quý tộc nốc rượu ừng ực và hò hét.
Giữa đêm khuya, Augusta phu nhân, một người đàn bà nhỏ bé, tóc quấn thành búp, má lúm đồng tiền, bỗng nghĩ ra một trò chơi mới và vỗ tay lên tiếng:
- Nào, ta lên đường!
Dưới ánh đuốc, mọi người chồng chất lên xe trượt tuyết, cho ngựa phóng nước đại đến nhà một ông hàng xóm: tới đó lại có rượu vang Hungary từng thùng, cừu quay nguyên cả con dành cho loại khách quý, còn đám quý tộc khác thì ăn lòng nấu tỏi đựng trong những âu lớn. Mọi người chạm cốc chúc sức khỏe các vị phu nhân kiều diễm, chúc mừng thanh danh nước Ba Lan và nền tự do vĩ đại của giới quý tộc Ba Lan.
Hoặc có khi Augusta phu nhân nghĩ ra trò cải trang khách khứa thành người Thổ Nhĩ Kỳ: người Hy Lạp hoặc người Ấn Độ; mụ lấy bồ hóng bôi mặt bọn quý tộc nghèo hơn, chơi đùa suốt đêm rồi đến tảng sáng, họ vẫn để nguyên quần áo cải trang, kéo tới tu viện gần đó, có tiếng chuông đang bính boong trên một ngọn đồi, sau đám cây trụi lá. Họ vào dự lễ, rồi trong phòng ăn trắng toát, lò sưởi đốt củi cả cây cháy rừng rực, mọi người uống rượu mật ong để đã hàng trăm năm, cười đùa với các tu sĩ phong nhã mặc áo thụng thơm nức, và có khi mang cả giầy có đinh thúc ngựa.
Xanka lao vào các cuộc vui chơi đó với tất cả tâm hồn nồng cháy của mình. Nàng chỉ bận mỗi việc thay hết áo ngoài đến áo trong ướt đẫm, lấy vodka thơm xoa người, rồi người gầy đi, dáng thanh thoát hơn, say sưa tiếng nhạc, nàng kiêu hãnh cúi chào nhảy điệu vũ nhịp ba hoặc quay tít với điệu polka.
Lúc đầu, Vaxili còn chịu đựng được. Nhưng về sau, người ta để hai gã nghiện rượu, ăn uống thô tục, to lớn như hộ pháp mà toàn cõi Ba Lan đều biết tiếng, kèm hắn kè kè: lãnh chúa Sotkovski và lãnh chúa Domoracki. Hai gã nầy có thể tu cạn một bình rượu bia khoảng tám lít, ăn hết cả một con ngỗng nấu mận, rồi một bát lớn bánh bao nhắm với năm chai rượu vang Hungary.
Vaxili và hai gã cứ hôn nhau suốt ngày suốt đêm. Trong những giờ phút tỉnh táo, Vaxili lo ngại, can vợ:
- Xaneska, con bồ câu của anh, vui chơi thế đủ rồi, ta đi thôi!
Xanka chẳng thèm ngoảnh đầu lại. Lãnh chúa Sotkovski ôm chặt lấy vai Vaxili, rồi chuếnh choáng, loạng choạng, họ lại tiếp tục chè chén.
Vaxili càu nhàu, vùi đầu vào gối. Có người nắm vai hắn lay mạnh, hắn để nguyên quần áo nằm ngủ, chỉ bỏ có áo ngoài và thanh kiếm. Đầu hắn nặng trĩu như chì, không nhấc lên nổi. Người nào đó vẫn cứ cố lay hắn, hắn thấy móng tay cắm vào da thịt mình… "Ồ, lại còn cái gì nữa thế nầy?".
- Ra nhảy với em. Ra đi, ra đi nào, - Xanka hớt hải nhắc đi nhắc lại, giọng nói nghe kỳ lạ khiến Vaxili phải chống khuỷu tay nhỏm dậy. Đứng bên cạnh giường, Xanka hất cái đầu rắc phấn làm hiệu cho chồng. Mắt nàng hốt hoảng như thể trong nhà đang cháy hoặc xảy ra một tai hoạ nào khác
- Anh không muốn nhảy với em sao?
- Em điên rồi, em yêu quý ạ!
Ngoài trời đã sáng… Rạng đông lóe lên sau cửa kính lớn trong suốt, nhuốm xanh bộ mặt phờ phạc và đôi vai trần của Xanka… "Chỉ tại cô ta mà bây giờ nên nông nỗi ấy: mặt cắt không còn hột máu".
- Đi ngủ đi, như thế tốt hơn.
- Anh không muốn, anh không muốn phải không? Anh Vaxili?
Nàng vội vã ngồi phịch xuống một chiếc ghế có tựa cao, buông thõng hai cánh tay để trần. Người nàng thoang thoảng mùi nước hoa Pháp, thơm như xạ, một thứ nước hoa xa lạ. Nàng nhìn chồng không chớp: một nỗi uất ức nghẹn ngào trong cổ.
- Vaxia, anh có yêu em không?
Nào nàng có đặt câu hỏi đó một cách bình thường, dịu dàng cho cam, không, nàng hỏi chồng với một giọng nghe như đe doạ. Vaxili bực bội, đấm mạnh vào gối:
- Ít ra cô cũng nên để cho tôi sống yên ổn.
Nàng nuốt giận:
- Anh nói đi, anh yêu em như thế nào?
Biết trả lời gì đây? Thật là chuyện ngớ ngẩn đàn bà! Nếu Vaxili không nhức đầu như búa bổ sau một đêm rượu say, chắc chắn là hắn đã không nhịn được chửi rủa. Nhưng hắn chẳng còn sức đâu mà cũng chẳng muốn vậy. Hắn nín lặng, ngắm nhìn vợ, với một nụ cười trách móc. Xanka lặng lẽ chắp bàn tay lại:
- Anh không biết giữ em… Anh không tốt!
Nàng đứng dậy, lấy chân hất gấu váy dài bỏ đi.
- Đóng cửa, đóng cửa lại, Xania!
Vaxili không ngủ được; hắn thở dài, trằn trọc, lắng nghe tiếng nhạc văng vẳng đang vang lên ở bên dưới, tại các phòng khách. Dù không muốn, hắn cũng phải suy nghĩ: "Hỏng, hỏng. - Hắn ngồi dậy, hai tay ôm đầu - Sống thế nầy, không còn ra cái gì nữa?". Hắn mặc quần áo vào, đi qua cửa sau, xuống nhà ngang để xem chiếc xe hòm của hắn đã sẵn sàng chưa. Hắn mừng rỡ trông thấy ở gần nhà xe một người của hắn, gã xà ích Antip. - hắn đã mua Antip sáu mươi rúp ở trấn Smolensk, để thay người xà ích bị giết chết ở gần Viazma.
- Nầy, Antip, ngày mai ta sẽ lên đường.
- A, Vaxili Vaxilievich, như thế thì tốt quá. Ở đây buồn chết được.
- Tối nay, ngươi chạy đi tìm chủ quán, chuẩn bị ngựa.
Vaxili thong thả trở về qua vườn hoa. Gió thổi bay những bông tuyết trắng tinh: cây cối đầy tổ quạ, xào xạc. Một đám đông nam nữ nông dân làm việc ở hồ, - rõ ràng người ta đã lùa cả làng ra để dọn tuyết và cắm những cây sào treo cờ bay phần phật trước gió. "Họ chỉ tìm cách vui đùa với những trò ngu xuẩn". Bỗng Vaxili đứng sững lại như có người nắm chặt lấy vai; hắn đau đớn nhăn mặt. Tim hắn đập rất mạnh, hắn đã đoán ra rồi: đúng thằng cha ấy! Biết bao lần qua những cơn say tuý luý, hắn đã trông thấy tên lãnh chúa Vladislav Tyklinski nầy, một gã đẹp trai cao lớn, mặc áo nhung màu da cam may ở Paris. Alekxandra lúc nào cũng đi với gã: nàng nhảy với gã điệu vũ nhịp ba, điệu vũ đối diện, điệu mazurka, lúc nào cũng nhảy với gã.
Vaxili đứng đó nhìn xuống đất. Tuyết dính vào má hắn, lọt xuống cổ. Nhưng giả định nóng bỏng đó vừa thoáng qua đầu óc thì hơi men chuếnh choáng đã làm mờ đi tất cả. Hắn không quyết định gì hết. Người ta tìm hắn mời đi ăn sáng. Đó là tục lệ ở đây: sau một đêm vui chơi là một bữa ăn sáng rồi mọi người ngủ cho đến bữa trưa. Các ông bạn Sotkovski và Domoraki, hắn đã thấy chúng khả ố quá, thật là những tên khoác lác những tên bụng phệ dối trá, nắm lấy cánh tay hắn, cười rộ lên: "A, lãnh chúa Vaxili, cái món bigox chúng tớ chén ngon phải biết nhé!".
Alekxandra không thấy có mặt ở bàn ăn, cả tên kia cũng vậy… Vaxili nốc cạn một cốc rượu mạnh mà không thấy say.
Hắn rời bàn ăn, qua phòng khiêu vũ: ở đây vắng tanh. Ngoài hành lang, một gã Do Thái xương xẩu, dài thườn thượt, nằm sóng sượt ngủ gục bên một cái trống lớn. Vaxili thận trọng hé mở chiếc cửa hai cánh thông sang phòng gương: trên sàn xi, bừa bãi giấy màu, lãnh chúa Vladislav ngông nghênh lấy mũi kiếm nâng cao đuôi áo da cam đang cùng với Alekxandra dạo bước dọc bên các cửa sổ. Gã đang say sưa nói và kiêu căng lắc lắc bộ tóc giả. Alekxandra cúi đầu nghe gã. Cổ nàng cúi xuống có một cái gì yếu đuối, trinh khiết: người ta đã đưa con bé ngu ngốc non nớt nầy ra nước ngoài rồi bỏ mặc nó chơ vơ một mình, người ta có thể làm hại nó: rồi thì tha hồ mà nuốt nước mắt.
Lẽ ra Vaxili phải hành động mạnh mẽ, đòi tên Ba Lan kiêu ngạo kia phải tạ tội bằng vũ khí; nhưng lòng thương hại day dứt hắn, hắn chỉ đứng nhìn qua khe cửa… "Ôi! Vaxili, mi thật là kém cỏi!" Trong lúc đó, lãnh chúa Vladislav lịch sự, giơ tay chỉ một cánh cửa bên: xương bả vai của Xanka hơi nhô lên, nàng khẽ lắc đầu: Hai người quay lại cùng bước về phía vườn mùa đông. Bất giác, Vaxili định sắn tay áo… Nhưng tay áo không có: chỉ toàn là những đăng ten? Và kiếm thì lại để trên gác… A, bực thật!
Hắn thở mạnh một bên cửa nhưng Sotkovski và Domoraki, hai tên bụng phệ om sòm nầy, đã từ phía sau nhảy bổ tới…
Và Vaxili lại ngồi vào bàn ăn, đầu óc rối bời. Hắn cảm thấy nhục nhã và cơn giận làm hắn nghẹt thở. Rõ ràng đây là một âm mưu. Bọn phàm ăn nầy được giao nhiệm vụ làm cho hắn say đây… Chạy đi lấy kiếm đánh nhau chăng? Hừ? Vị sứ giả của Sa hoàng mới tài giỏi làm sao: đi đánh lộn vì đàn bà, y hệt một gã mugic trong quán rượu… A, nhưng dù sao cũng mặc? Phải chấm dứt cái trò nầy thôi?
Hắn gạt cốc rượu người ta mời và vội vã rời khỏi phòng ăn. Trên gác, hắn nghiến răng tìm thanh kiếm. Cuối cùng hắn tìm thấy kiếm dưới đống xiêm của Xanka.
Hắn thắt chặt đai vào ngang lưng rồi chạy xuống cầu thang đá, nhảy bốn bậc một. Trong lâu đài, mọi người đã đi nằm ngủ trưa. Hắn chạy quanh một vòng vườn hoa mùa đông - không một bóng người. Hắn gặp một cô hầu phòng trẻ tuổi. Cô gái cúi rạp xuống chào hắn và nhỏ nhẻ nói:
- Quận chúa, Malasovska phu nhân và lãnh chúa Tyklinski đã đi chơi bằng xe trượt tuyết và có hẹn là chiều tối mới về!
Vaxili quay lên phòng mình và ngồi trước cửa sổ, nhìn xuống đường cho tới khi hoàng hôn đổ xuống. Thậm chí hắn còn nảy ra ý nghĩ viết một bức thư cho Sa hoàng để thú nhận những lầm lỗi của mình. Nhưng hắn không tìm thấy giấy bút.
Rồi người ta bảo cho hắn biết là Xanka đã về từ lâu và đang nằm nghỉ tại phòng ngủ của Augusta phu nhân. Sau bữa ăn tối sẽ có hội hoá trang và đốt pháo hoa ở hồ. Vaxili xuống nhà xe, ra lệnh cho Antip bí mật chuẩn bị ngựa và đem hành lý để vào chiếc xe hòm. Hắn lầm lì trở về lâu đài. Dọc các gờ tường đều thắp đèn lồng, gió lướt trên những ngọn lửa nhỏ. Gió đã xua tan những đám mây nặng trĩu tuyết. Đêm xanh lam, vầng trăng chỉ có một nửa.
Bên cạnh một toà nhà được trang trí bằng những bức tượng phụ nữ lấm tấm tuyết phủ, Volkov bỗng nghe thấy những tiếng kêu khàn khàn, những tiếng thở hổn hển, tiếng gươm khua loảng xoảng. Hắn đã định bước qua: chẳng có gì đáng quan tâm. Nhưng sau một góc toà nhà, dưới chân tượng Cupidon(l) tay cầm một mũi tên, có một phụ nữ đứng tựa vào tường tay giữ cố chiếc áo ngoài khoác trên vai, đầu đội bộ tóc giả trắng.
Volkov chăm chú nhìn: Alekxandra. Hắn chạy lại. Ngay ở đấy dưới ánh trăng hai lãnh chúa Vladislav và Malasovski đang đấu kiếm. Họ nhảy chồm chồm, hai chân giạng ra, đâm nhau, dậm gót, hung hăng khạc nhổ, kiếm va nhau loảng xoảng.
Xanka lao về phía Vaxili, quàng tay ôm chặt lấy chồng, đầu ngả về đằng sau, mắt nhắm nghiền, thì thào nói:
- Đưa em đi, đưa em đi…!
Trông thấy Volkov, gã Malasovski rậm ria kêu lên một tiếng. Lãnh chúa Vladislav xông tại chỗ Vaxili.
- Nàng không phải là của ngươi, chúng ta đây không chp phép!
Trong vườn, bọn quý tộc, gươm tuốt trần, vội chạy ùa lại để can các vị lãnh chúa.
Khi đã đi khỏi địa hạt của lãnh chúa Malasovski được năm mươi dặm, Vaxili mới yên tâm. Hắn không trách móc Xanka một lời, cũng chẳng hỏi gì hết nhưng tỏ ra rất nghiêm khắc. Nàng ngồi trong xe, mắt nhắm nghiền, lặng thinh. Họ tránh những dinh cơ giàu có.
Một hôm, người dẫn đường, ngồi bên người xà ích, ngón tay cóng đút vào ống tay áo hẹp của chiếc áo lông cừu, bỗng nhớn nhác, từ trên đỉnh đồi chỉ xuống mái ngói của một ngôi nhà thờ sừng sững bên đường. Antip thò đầu vào trong xe nói:
- Vaxili Vaxilievich. Chúng ta sẽ buộc phải dừng lại ở đây. Họ được biết là ngôi nhà thờ nầy thờ thánh Jhon Nepomuc, do lãnh chúa Boreiko lừng danh xây dựng.
Thân hình phì nộn, tính tham ăn phàm uống và cái đức hiếu khách của Boreiko đã trở thành ngạn ngữ. Chỗ ở của ông ta xa đường cái, bên kia một khu rừng âm u. Để mời các bạn rượu cho được dễ dàng, ông ta đã cho xây ngôi nhà thờ nầy ngay bên đường: một toà nhà trong có bếp và một hầm rượu, một toà nhà khác có phòng ăn. Một thầy tu, dòng thánh Françoise, bụng phệ và vui tính ở liền tại đó. Lão làm lễ; những giờ nhàn rỗi, lão đánh bài với lãnh chúa; cả hai cùng rình đợi khách qua đường.
Dù là ai đi nữa, một lãnh chúa quan trọng, một vị quý tộc vô tư lự đã bán đến chiếc mũ cuối cùng để uống rượu, hoặc một gã lái buôn của một thị trấn nhỏ, gia nhân của lãnh chúa Boreiko cũng chăng dây thừng chặn đường. Lãnh chúa Boreiko, lạch bạch như con vịt, hơi thở khò khè, mời khách qua đường một cốc rượu, trong lúc đó bọn gia nhân đã vội vã tháo ngựa; ông khách sợ sệt bị lôi vào nhà thờ, lão thấy tu tụng bài kinh trước bữa ăn, và thế là tiệc tùng bắt đầu. Lãnh chúa Boreiko chẳng làm gì hại khách nhưng không để cho ai ra đi đói bụng: có người bất tỉnh nhân sự phải khiêng ra xe; có người không hồi tỉnh lại được, đã trút linh hồn trong khi lão thầy tu tụng kinh làm lễ xá tội
- Làm thế nào bây giờ, Vaxili Vaxilievich? - Antip hỏi.
- Rời khỏi đường cái và cho ngựa phóng băng qua đồng.
Rõ ràng là các lãnh chúa Ba Lan chỉ có một ý nghĩa trong đầu: ăn chơi. Tưởng chừng như tất cả giới quý tộc Ba Lan chỉ có chè chén không phải lo nghĩ gì.
Tại các làng xã và các thị trấn, bất cứ nhà nào hơi bề thế một chút đều để ngỏ rộng cửa; trên thềm, một số quý tộc say khướt ca hát om xòm. Trái lại, tại các thành phố, đường xá sạch sẽ, có nhiều cửa hiệu, quầy hàng đẹp đẽ. Bên trên các cửa hàng và các hiệu cắt tóc, bên trên các xưởng thợ thủ công, có những bảng hiệu tô màu rực rỡ treo ngang đường: khi thì là một bà mặc áo ngắn, khi thì là một hiệp sĩ cưỡi ngựa, hoặc một cái chậu cạo râu bằng đồng. Trên ngưỡng cửa, một người Đức đon đả tươi cười, miệng ngậm tẩu bằng sứ, hoặc một người Do Thái mặc áo bông lành lặn, nhũn nhặn mời khách quá bộ vào cửa hàng, ngó qua một chút. Không như ở Moskva, bọn lái buôn thường túm vạt áo khách lôi vào một cửa hiệu tồi tàn, chỉ có những hàng hoá hư hỏng mà giá thì đắt vô chừng; ở đây vào bất cứ cửa hiệu nào, khách cũng phải choáng mắt. Nếu khách không có tiền, chủ hiệu sẽ bán chịu.
Càng tới gần biên giới Livoni thì các thị trấn càng nhiều. Cối xay gió quay cánh trên các ngọn đồi. Trong làng, người ta đã chở phân ra đồng. Bầu trời xám báo hiệu xuân đến. Mắt Xanka lại long lanh. Đã tới gần Krazburg. Nhưng một sự kiện không ngờ xảy ra.
Tại quán ăn, viên dapife Piotr Andreevich Tolstoy đang nằm nghỉ sau vách. Hắn từ nước ngoài trở về Moskva. Nghe thấy có người nói tiếng Nga, hắn bước ra, áo lông cừu khoác trên vai, khăn lụa quấn quanh cái đầy hỏi.
- Hãy tha thứ cho già nầy, - hắn vừa nói vừa lễ phép chào Alekxandra Ivanovna. - Tôi rất sung sướng được gặp các vị ở đây.
Dưới cặp lông mày đen nhánh như đuôi hắc điêu thử, nhìn chằm chằm nhìn như ve vuốt Xanka đang cởi bộ áo ngoài. Hắn xấp xỉ năm mươi tuổi, người gầy và nhỏ bé nhưng rắn rỏi. Tại Moskva chẳng ai ưa hắn, Sa hoàng không thể tha thứ cho quá khứ của hắn, hắn đã cùng Khovanski xúi giục bọn xtreletz nổi dậy ủng hộ Sofia. Nhưng Tolstoy là người biết chờ đợi. Hắn đảm đương nhiều nhiệm vụ khó khăn tại nước ngoài và hoàn thành những việc đó tốt đẹp. Hắn biết nhiều thứ tiếng, am hiểu văn học, biết mua một bức hoạ cho lâu đài Melsikov, một cuốn sách có ích với giá phải chăng, biết dùng một người có tài. Hắn không tìm cách tự đề cao mình. Nhiều người bắt đầu kiềng hắn.
- Có phải phu nhân định đến Riga không? - hắn hỏi Alekxandra Ivanovna trong lúc người hầu gái người Kalmys tháo đôi ủng dạ xinh xắn của nàng. Xanka lãnh đạm trả lời:
- Chúng tôi vội đi Paris.
Tolstoy lục trong túi, rút ra hộp thuốc lá bằng đồi mồi gõ ngón tay giữa lên nắp và gí cái mũi to vào hộp thuốc.
- Phu nhân sẽ gặp phải nhiều chuyện phiền nhiễu đấy Phu nhân nên đi đường Warsawa thì hơn.
Volkov vừa xoa mặt bị sạm gió vừa hỏi:
- Tại sao?
- Ở Livoni đang có chiến tranh, Vaxili Vaxilievich ạ. Riga đang bị bao vậy.
Xanka đưa hai tay lên ôm má. Volkov hốt hoảng, chớp chớp mắt:
- Chiến tranh đã bắt đầu rồi à? Thế là thế nào? Vậy ra một mình vua Auguste…?
Và hắn nghẹn lại không nói được: Piotr Andreevich lạnh lùng soi mói nhìn hắn, khiến hắn phải giữ mồm giữ miệng. Tolstoy ngẩng đầu lên, mũi lem luốc vì thuốc lá và hắt hơi; góc chiếc khăn quấn đầu dựng lên như những cái tia.
- Vaxili Vaxilievich ạ, tôi xin khuyên ngài nên rẽ ngay sang Mito. Vua Auguste hiện đang có mặt tại đó. Nhà vua sẽ lấy làm sung sướng được gặp ngài và nhất là phu nhân đây, duyên dáng và đáng yêu biết bao.
Tolstoy cho biết vài tin tức về cuộc chiến tranh đã bắt đầu. Ngay từ mùa thu, các tiểu đoàn xứ Xăc của vua Auguste đã tập trung tại biên giới Livoni, ở Janski và Mito. Danber, thống đốc thành Riga, ba năm trước đã tỏ ra vô lễ với đoàn sứ thần Moskovi, trong đó có cả vua Piotr, không thèm để ý hoặc giả cũng có thể là khinh thường cái trò thanh đông kích tây ấy. Khi đó có thể chỉ một trận là hạ ngay được thành Riga. Nhưng những cuộc truy hoan thờ thần Vệ nữ và một sự nhẹ dạ điên rồ đã làm mất đi một thời gian quý báu; Fleming, viên tướng trẻ người xứ Xăc, tổng chỉ huy, đã say mê người cháu gái lãnh chúa Xapieha: hắn đã bỏ cả mùa đông vào những cuộc vui chơi yến tiệc tại lâu đài của Xapieha. Binh lính thì uống rượu say khướt, cướp phá các làng ở Kurlan, nông dân bắt đầu chạy trốn sang Livoni, và tại Riga, cuối cùng người ta đã hồi tâm lại. Viên thống đốc ra sức củng cố thành.
- Trong quân đội, khi tướng Carlovit đến thì, nhờ Chúa, các cuộc hành binh cũng đã bắt đầu. Nhưng chao ôi, thần Vệ nữ và thần rượu Baccus chẳng ưa tiếng đạn réo: tướng Fleming đi tìm những cuộc giao chiến nồng cháy hơn. Đáng lẽ đi tấn công quân Thuỵ Điển thì ngài lại anh dũng bao vây cô nàng Ba Lan xinh đẹp, và đã đưa cô ta đến Dresden rồi, chẳng bao lâu nữa, sẽ làm lễ cưới.
Qua câu chuyện đó, Volkov hiểu ngay là công việc của vua Auguste chẳng tốt đẹp gì. Hắn lý luận như sau: để tránh một sự thất thố, và để về sau không phải chịu trách nhiệm trước vua Piotr, cần rẽ sang Mito.
- Các hiệp sĩ của ông đâu? Một vạn quân giáp kỵ của ông đâu? Lời thề của ông đâu? Ông đã nói dối vua rồi?
Vua Auguste đặt mạnh giá nến đang cháy trước gương, giữa những núm bông xoa phấn, găng tay, lọ nước hoa; một cây nến rớt xuống và tắt ngấm. Nhà vua đi đi lại lại trên tấm thảm lóng lánh như bạc trong buồng ngủ. Bắp chân cường tráng của nhà vua, nịt chặt trong tất run lên vì giận dữ. Johan Patkun đứng trước nhà vua, mặt tái nhợt, ủ rũ, bóp chặt chiếc mũ trong tay.
Johan Patkun đã làm tất cả những gì con người có thể làm được; suốt mùa đông, y đã thảo những bức thư khuyến khích bí mật gửi cho các hiệp sĩ ở các lãnh địa tại Livoni và Riga. Cải trang làm lái buôn, coi thường những sự đe doạ của pháp luật Thuỵ Điển, y đã được qua biên giới và tới thăm các lâu đài của phon Benkenborf, Von Xieve và Von Palen. Các hiệp sĩ đọc thư y oà lên khóc, nhớ tới uy quyền của cũ của đẳng cấp mình; họ kêu ca về thuế lúa mì và những người theo đạo luật giảm trừ đã mất một phần đất đai, đều thề sẽ không tiếc gì tính mạng. Nhưng rốt cuộc khi quân đội xứ Xăc tràn vào Livoni đem theo những lời hiệu triệu của vua Auguste kêu gọi các hiệp sĩ lật đổ nền đô hộ Thuỵ Điển thì không một người nào dám lên ngựa, và tệ hơn nữa, nhiều người đã đi theo đám thị vệ để củng cố và bảo vệ thành Riga chống lại đội quân đánh thuê của nhà vua đang lăm le cướp bóc thành phố.
Patkun đem những tin buồn đó về Mito. Nhà vua ngừng bữa ăn, vớ cây giá nến đặt trên bàn, và nắm lấy tay Patkun lôi y vào phòng ngủ:
- Chính ông đã đẩy ra vào cuộc chiến tranh nầy, chính ông? Ta đã rút gươm ra, tin vào những lời hứa hẹn, thề bồi của ông. Thế mà ông dám tuyên bố là các hiệp sĩ Livoni, cái bọn say rượu chuyên ăn xúc xích chay ấy, còn do dự.
Vua Auguste, cao lớn và lộng lẫy, mặc quân phục trắng, hai tay nắm chặt, tiến lại phía Patkun: nhà vua giận dữ vung cánh tay áo viền đăng-ten và trong cơn tức giận thét lên những lời thật là thừa.
- Thế đạo quân hỗ trợ của Đan Mạch đâu? Ông đã hứa với ta là sẽ có đội quân đó. Thế năm mươi trung đoàn của Sa hoàng Piotr đâu? Hai mươi vạn đồng duca của ông đâu? Quân Ba Lan đang đợi số tiền ấy đấy! Quân Ba Lan đang đợi ta chiến thắng để rút gươm ra hoặc đợi ta thất bại để mở đầu một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn chưa từng thấy.
Nhà vua sùi bọt mép trên đôi môi dày rõ nét, khuôn mặt đỏm đáng run rẩy… Patkun nhìn ra chỗ khác; cố nén cơn giận đang sôi sục lên tận cổ, y trả lời:
- Tâu bệ hạ, các hiệp sĩ muốn được đảm bảo là sau khi lật đổ nền đô hộ Thuỵ Điển, họ sẽ không bị bọn man rợ xứ Moskvi xâm lược. Thần nghĩ đó chính là điều khiến họ do dự!
- Nói bậy! Lo hão… Sa hoàng Piotr đã thề trước thánh giá là sẽ không đi quá Hamburg. Người Nga chỉ cần miền Ingri và miền Careli. Ngay cả Narva họ cũng sẽ không đụng đến.
- Tâu bệ hạ, thần e có một sự phản trắc. Thần biết là có gián điệp từ Moskva tới Narva và Revan hoạt dộng, ngoài mặt nói là đến mua hàng; chúng được lệnh vẽ lại sơ đồ các pháo đài ấy.
Vua Auguste lùi lại. Bàn tay có móng tay nhuộm đỏ nắm lấy đốc kiếm; nhà vua kiêu kỳ vênh cái cằm tròn trĩnh:
- Ông Von Patkun: ta lấy lời bậc vương giả mà hứa với ông là cả Narva lẫn Revan, và cố nhiên cả Riga nữa, sẽ không thấy bóng người Nga. Dù thế nào đi chăng nữa, nhất định ta sẽ giật những thành phố đó ra khỏi nanh vuốt của Sa hoàng Piotr.
Nhà vua hết sức buồn chán tại Mito trong lâu đài của quận công địa phương. Sự có mặt của nhà vua bên cạnh quân đội cũng không thúc đẩy được tình hình. Họ chỉ chiếm được pháo đài Kobersanz nhỏ bé, đã bắn phá Riga hai lần nhưng không có kết quả. Đám hiệp sĩ Livoni vẫn do dự chưa lên ngựa. Bọn lãnh chúa Ba Lan được báo tin, vẫn đợi chờ; rõ ràng họ dự định tới kỳ hội nghị sau sẽ chất vấn nhà vua vì mục đích gì đã lôi kéo nước Ba Lan vào cuộc chiến tranh nguy hiểm nầy.
Thời tiết tại Mito rất xấu. Tiền thì thiếu. Bọn lãnh chúa ở Kurlan thì thô lỗ; phụ nữ ở đây trông giống những con bò chửa hơn là thuộc phái đẹp. Fridric Winhem, vị quận công trẻ tuổi xứ Kurlan, hay rượu chè và kiêu căng, đến đâu gây buồn chán đến đấy, không ai chịu nổi. Nếu không có sự sốt sắng của Atalia Demon, bạn tình mới của vua Auguste đã rời bỏ Warsawa vui tươi để đi theo nhà vua thì với tính tình nồng nàn của mình, vua Auguste đã sầu muộn ủ rũ rồi.
Atalia Demon tổ chức các cuộc khiêu vũ và săn bắn, cho gọi các diễn viên Ý từ Warsawa đến, vung tiền không tiếc tay đến nỗi bản thân vua Auguste khi ra lệnh cho vị thượng thư của triều đình lấy cho nữ bá tước từng nấy đồng tiền vàng, đôi khi cũng phải thở hắt ra.
Khí hậu giá lạnh ở đây làm các diễn viên Ý hắt hơi và ho. Tại những buổi vũ hội sang trọng, đám quý tộc địa phương vốn không hề biết những thú vui lọc lõi, chỉ tròn xoe mắt trước sự sa hoa nầy: họ nhẩm tính tất cả những cái đó tơn kém cho nhà vua bao nhiêu.
Một hôm, trong bữa ăn trưa, nhà vua ngồi ăn một mình như thường lệ, trước chiếc bàn nhỏ, lưng quay về phía lửa trong lò sưởi. Các vị phu nhân thì ngồi theo hình cánh cung trước mặt nhà vua trên những chiếc ghế nhỏ thếp vàng. Nhà vua đội một bộ tóc giả ngắn, lịch sự mặc áo mỏng thêu hoa; những đường viền đăng-ten của chiếc sơ-mi bằng thứ vải mịn rủ xuống tận bụng dưới. Quan bồi tửu, một ông già mặt như da trống, với bộ ria nhuộm, rót rượu đã hâm nóng. Ngày hôm đó sáu bà nam tước địa phương, má đỏ chót, tham dự buổi chiêu đãi; sáu vị nam tước to béo, dáng điệu cứng nhắc đứng sau những bộ tóc giả của vợ rắc bột mì lấm tấm. Hai chỗ ngồi bỏ trống.
Vua Auguste nhai paté thỏ thỉnh thoảng lại đưa mắt buồn bã nhìn các vị phu nhân. Củi nổ lép bép. Các vị nam tước và vợ không dám nhúc nhích, rõ ràng là sợ phát ra những tiếng động thô lỗ, như khịt mũi chẳng hạn: Sự im lặng đã kéo quá dài. Vua Auguste chống khuỷu tay lên bàn, chùi môi và buông chiếc khăn ăn xuống.
- Thưa các vị, quả nhân không ngại nhắc đi nhắc lại mãi rằng quả nhân hết sức hài lòng được là khách của thành phố mỹ lệ của các vị. - Nhà vua khẽ hất tay để nhấn mạnh thêm những lời nói đó - Cần phải nêu gương những đức tính cao quý của giới quý tộc Kurlan là những người biết kết hợp khéo léo nếp suy nghĩ cao thượng với tinh thần thực tế rất lành mạnh.
Các vị nam tước trang nghiêm cúi các bộ tóc giả làm bằng sợi gai; các bà nam tước, không hiểu rõ tiếng Pháp, sau một phút do dự, nhấc bộ mông phì nộn lên và kính cẩn cúi chào.
- Than ôi, thưa các vị, ở thời đại thực tế chúng ta đang sống đây, ngay các bậc vua chúa thường lo lắng bảo đảm hạnh phúc tối đa cho thần dân của mình, đôi khi cũng buộc phải hạ mình xuống đất. Tiếc thay, không phải ai cũng hiểu chân lý đó. - Nhà vua thở dài và trợn mắt - Sự phung phí ngông cuồng và hão huyền của một vị quý tộc kiêu ngạo, vung vãi hàng nắm vàng cho những bữa tiệc và những cuộc săn bắn, để nuôi bọn say rượu và bọn lười biếng, trong khi đó thì vua của họ, như một người lính thường, tay cầm gươm, xung phong tiến đánh một pháo đài địch. - thứ hỏi sự phung phí đó sẽ gây ra kết quả gì, nếu không phải là một sự cay đắng ngậm ngùi.
Vua Auguste uống một ngụm rượu. Các vị nam tước chăm chú lắng nghe.
- Không ai được phép chất vấn vua. Nhưng chỉ nhìn vào mắt của thần dân bậc vương giả cũng hiểu thấu được những nỗi lo âu xáo động tâm hồn họ. Thưa các vị, quả nhân đã độc lực mở cuộc chiến tranh nầy với một vạn quân của đội vệ binh. Thưa các vị, quả nhân đã mở cuộc chiến tranh nầy vì một nguyên lý vĩ đại. Những cuộc nội chiến đã xâu xé đất nước Ba Lan. Tuyển hầu xứ Brandeburg, con chó sói tham tàn ấy, đang gặm ruột gan ta. Quân Thuỵ Điển làm bá chủ biển Baltic, vua Charles không còn là một đứa trẻ nữa, y rất táo tợn. Nếu quả nhân không phải là người đầu tiên tiến vào Livoni thì ngày mai quân Thuỵ Điển sẽ tới đây Chúng sẽ đánh thuế lúa mì Kurlan gấp năm lần và mở rộng luật giảm trừ tới đất đai của các vị.
Đôi mắt trong sáng của nhà vua mở to thêm. Các vị nam tước bắt đầu thở mạnh, các vị phu nhân rụt cổ lại.
- Chúa đã trao cho quả nhân một sứ mạng: thiết lập nền hoà bình và sự thịnh vượng trên một cường quốc lớn thống nhất, từ sông Elb đến sông Dniepr, từ xứ Pomerani đến bờ biển Phần Lan. Sẽ có người được ăn món súp nấu sẵn ấy. Bọn thương gia Thuỵ Điển, bọn thương gia ở Brandeburg và Amsterdam đang thò thìa ra định múc súp. Quả nhân là một nhà quý tộc thưa các vị. Quả nhân muốn chính các vị sẽ là người yên ổn ăn món súp đó… - Nhà vua người mắt nhìn lên trần, như để lường xem phải tự hạ mình xuống bao nhiêu - Hôm qua, quả nhân đã cho treo cổ hai tên kỵ binh, chúng ăn cướp nhiều trại ấp trong lãnh địa của nam tước Ixkun… Nhưng thưa các vị… Quân lính của quả nhân đổ máu chỉ cần có vinh quang đền bù lại. Nhưng ngựa thì cần có thóc, có cỏ, chứ gì nữa! Quả nhân buộc phải kêu gọi sự sáng suốt của những người vì họ mà quân đội của quả nhân đang đổ máu.
Các vị nam tước đỏ bừng mặt, bây giờ họ đã hiểu ý nhà vua muốn gì. Sự im lặng của họ làm vua Auguste càng bực bội thêm. Bài diễn thuyết của nhà vua bắt đầu pha trộn những lời lẽ tục tĩu của bọn lính tráng.
Atalia Demon bước vào. Đôi mắt lim dim của nàng làm gương mặt mịn đượm một vẻ say đắm. Với một vẻ ung dựng lịch sự, nàng cúi chào nhà vua, phe phẩy chiếc quạt xà cừ. (Các bà nam tước liếc nhìn cái vật mới lạ nầy của Paris) và vừa chào vừa nói:
- Tâu bệ hạ, cho phép thần thiếp được hân hạnh trình diện với bệ hạ thần Vệ nữ của Moskva
Quét lê trên sàn cái đuôi váy dài lê thê, nàng đi ra cửa và cầm tay Alekxandra Ivanovna đưa vào: quả thật là trong tất cả những trò nàng đã nghĩ ra để nhà vua tiêu khiển, cái trò mới mẻ nầy có lẽ là ý nhị nhất.
Atalia, người đầu tiên được tin vợ chồng Volkov đến đây đã tới gặp họ tại quán trọ; nhận thấy những ưu điểm của Alekxandra, Atalia đã đưa nàng về lâu đài của mình; sau khi xem xét quần áo tư trang của Alekxandra, Atalia cấm nàng nhất thiết không được dùng một thứ gì của Moskva:
- Cô bạn của tôi ơi, đây là quần áo của dân Eskimo(2)! (Và đấy là những bộ quần áo đẹp nhất của Alekxandra, mua một trăm duca một chiếc). Lại còn những bộ tóc giả nầy nữa! Thế kỷ trước người ta mới đội! Sau buổi hội nữ thần tại Vecxay(3), không ai đội tóc giả nữa, cô em ạ!
Atalia ra lệnh cho người hầu gái của mình vứt tất cả những bộ tóc giả đó vào lò sưởi đang cháy. Xanka rất e sợ, chớp chớp mắt và bảo gì cũng gật. Atalia mở những hòm quần áo của mình, mặc cho Alekxandra như một vị "phu nhân sang trọng trong bộ áo dạ hội".
Vua Auguste ngây người nhìn nàng Vệ nữ Moskva - mái tóc màu vàng nho uốn thành hai làn sóng trên cái đầu nghiêng nghiêng, một búp buông lơi xuống ngực để hở rất thấp vài bông hoa cài ở tóc và trên áo kiểu áo rất giản dị, không chít nếp ở ngang hông, trông tựa một chiếc áo Hy Lạp, và khoác trên vai là một chiếc áo choàng bằng gấm vàng đuôi dài kéo lê trên thảm.
Vua Auguste đỡ lấy đầu ngón tay của Xanka, cúi xuống hôn. Nàng chỉ thoáng trông thấy khuôn mặt đỏ bừng bừng của các bà nam tước. Cái giờ phút xiết bao mong đợi đã tới rồi đây. Nhà vua không khác gì một nhà vua trong truyện thần tiên, trông như vừa bước từ một bộ bài lá ra: cao lớn, lịch sự, niềm nở, môi đỏ, lông mày cao, đem như lông hắc điêu thử. Xanka ngây ngất nhìn cặp mắt sáng long lanh. bình tĩnh của nhà vua. Nàng nghĩ thầm: "Ta nguy mất rồi".
Vaxili chờ đợi hoài ở quán trọ đã gần một tuần. Người ta đã đưa Xanka đi, còn hắn thì họ đã quên khuấy mất. Hắn tới lâu đài hỏi dò tin tức; viên sĩ quan trợ tá của nhà vua lần nào cũng vồn vã quả quyết rằng thế nào ngày hôm sau nhà vua cũng sẽ tiếp hắn. Buồn chán, Vaxili lang thang suốt ngày trong thành phố qua những đường ngõ quanh co khúc khuỷu. Nhà cửa ở đây nhỏ hẹp, tối tăm, mái trổ nhiều cửa sổ tròn, cổng bằng sắt im lìm như chết, hoạ hoằn mới thấy tít trên cao, trong khuôn cửa sổ nhỏ, một bộ mặt lầm lì, đội mũ trùm đầu bằng vải bông, dán mũi vào kính. Ở các khu chợ, phần lớn các cửa hiệu đều đóng cửa. Thỉnh thoảng những cỗ pháo do bốn con ngựa gầy còm kéo, ầm ầm lăn trên đường phố lát đá tảng. Bọn kỵ binh, vẻ mặt ủ rũ, thu lu trong áo choàng len để chóng lại cơn gió buốt thấu xương. Chỉ có những kẻ ăn mầy, - những nông dân, đàn ông và đàn bà, mặt mầy rầu rĩ, những trẻ em rách rưới, - đi lang thang từng lũ trong thành phố; họ bỏ mũ và để đầu không người nhìn lên các cửa sổ
Chiều tối, sau bữa ăn, Vaxili ngồi lại ở bàn, một tay chống má, dưới ánh sáng một ngọn nến. Hắn nghĩ đến vợ, đến Moskva, nghĩ đến cái công việc gian truân của mình. Cứ theo những bài học của cha ông để lại - phải ngoan ngoãn, sợ Chúa kính trọng các bậc đàn anh, thì ngày nay chẳng đi đến đâu. Muốn leo lên thì phải có sừng có mỏ. Alekxandr Melsikov, cái tên trơ tráo, táo tợn ấy - cách đây chưa bao lâu chẳng phải hắn mới chí là một tên lính hầu bình thường đấy ư, thế mà nay đã là tổng trấn, hiệp sĩ; hắn chỉ đợi một thời cơ nào đó để vượt hẳn tất cả mọi người khác.
Alioska Brovkin, chỉ vì mộ được người cho quân đội, đã được phong là đại uý cận vệ binh: hắn đã ngang nhiên túm bộ tóc giả của các tổng trấn. Vaska Brovkin, tên mugic lỗ mãng, xấu bụng và thô bạo ấy, bây giờ chỉ huy một chiếc tàu… Xanka, a, Xanka, lạy Chúa, lạy Chúa! Giá phải một người chồng khác thì cô ta đã ăn roi lằn lưng lên rồi. Như vậy là còn phải hiểu biết một số điều khác nữa. Ngày nay, những người im lặng giữ mồm giữ miệng không còn được coi trọng ở trong triều. Dù muốn hay không cũng cứ phải leo lên. Hắn buồn bã nhìn ngọn lửa nhỏ của cây nến… Hắn ước ao nghe gió bão ầm ầm gào thét trên mái nhà phủ tuyết… Cái lò với những con dế, rồi những ý nghĩ chậm rãi, dễ chịu. Hay là bắt đầu đọc cuốn "Sử ký" của Pufendorf. Buôn bán như Alekxandr Melsikov hay như Safirov? Khó quá, có ai dạy mình đâu? Hãy mau mau nổ ra chiến tranh đi thôi… Dòng họ Volkov vốn lành nhưng một khi họ đã lên ngựa, thì rồi xem bọn Vaska và Alioska Brovkin có ở hàng đầu hay không?
Một buổi chiều tối, hắn đang nghĩ ngợi lan man như vậy thì sĩ quan trợ tá của nhà vua tới quán ăn; với thái độ niềm nở, lịch sự, hắn xin lỗi và đề nghị Volkov đến trình diện tức khắc tại lâu đài. Vaxili, rất đỗi cảm động, vội vã mặc quần áo. Một chiếc xe ngựa đợi hai người. Nhà vua tiếp Vaxili trọng phòng ngủ, giơ tay ra không để hắn quỳ gối rồi ôm hôn hắn, đặt hắn ngồi bên cạnh:
- Trẫm chẳng hiểu gì cả, ông bạn trẻ ạ. Chi còn có cách xin lỗi về sự lộn xộn trong triều đình của trẫm.
Mãi đến bữa ăn trưa hôm nay trẫm mới được tin ông đến… Nữ bá tước Atalia là người đàn bà đãng trí nhất trên đời, bà ta say mê quý phu nhân, đã lôi nàng rời khỏi tay chồng và một tuần nay, giữ rịt lấy nàng để hưởng một mình mối tình thân đó!
Volkov chưa kịp đáp lại lời chào, định đứng dậy nhưng vua Auguste đã đặt bàn tay lên vai hắn ấn xuống. Nhà vua nói oang oang, vừa nói vừa cười. Nhưng rồi nhà vua không cười nữa:
- Ông đi Paris, trẫm biết thế. Ông bạn của trẫm, trẫm muốn đề nghị với ông đưa những bức thư bí mật cho ông anh Piotr của trẫm, Alekxandra Ivanovna sẽ đợi ông hoàn toàn yên ổn tại nhà nữ bá tước Atalia. Ông biết những tin tức cuối cùng rồi chứ?
Tựa hồ như có ai vừa xua đuổi tiếng cườì bay khỏi gương mặt nhà vua, những nếp nhăn xấu hiện lên trên khóe mép
- Tại Riga, tình hình không tốt, bọn hiệp sĩ Livoni đã phản trẫm. Carlovit, viên tướng tài giỏi nhất của trẫm, đã hy sinh như một người anh hùng, cách đây ba ngày
Nhà vua lấy bàn tay che mặt, mặc niệm một phút để tưởng nhớ đến tướng Carlovit xấu số.
- Ngày mai, ta đi Warsawa, đến Nghị hội, để ngăn chặn một sự xao xuyến khủng khiếp… Tại Warsawa; ta sẽ trao cho ông thư và giấy tờ… Ông không nên tiếc sức hãy cố gắng chứng minh rằng sự can thiệp tức thì của quân đội Nga là cần thiết
Nửa đêm, Atalia đánh thức người hầu phòng gái của mình, thắp nến, đốt lửa trong lò sưởi, khiêng ra một chiếc bàn tròn chất đầy hoa quả, paté, thịt thú và rượu. Atalia và Xanka từ trên chiếc giường rộng bước xuống, mặt áo lót và mũ ngủ viền đăng ten, ngồi vào bàn ăn. Xanka buồn ngủ vô kể - vì cớ gì thì cũng dễ hiểu - suốt ngày không được lấy một phút nghỉ ngơi, người ta nói năng không đơn giản, không một lời nào mà lại không ngụ ý ngầm, luôn luôn phải cảnh giác, nhưng sau khi dụi đôi mắt sưng húp, nàng mạnh dạn uống rượu trong chiếc cốc lấp lánh ngũ sắc như bong bóng xà phòng và nhếch miệng mỉm cười. Nàng ra nước ngoài không phải để ngủ mà để học những cung cách "lọc lõi". Những cung cách đó - như Atalia đã giảng giải cho nàng - thì ngay ở triều đình các vua chúa chẳng phải ai cũng hiểu cả đâu; thậm chí ở Vecxay, vẫn còn thấy nhiều thái độ thô lỗ và những hành vi bỉ ổi.
- Em hãy tưởng tượng mà xem, cô em yêu quý của chị, vào những buổi chiều ẩm ướt, mà cũng không mở được các cửa sổ vì mùi hôi thối từ các bụi cây xung quanh lâu đài và ngay ở các bao lơn xông lên nồng nặc… Bọn triều thần ăn ở chật chội, bạ đâu ngủ đấy, tròng sự nhớp nhúa, họ tưới nước hoa vào người để át cái mùi hôi hám từ quần áo bẩn thỉu của họ xông ra. A, chị em ta phải sang Ý mới được… Một giấc mơ kỳ diệu… Nơi đấy là tổ quốc của tất cả cái gì lịch sự thanh tao… Ở đó sẽ được nếm đủ mùi; thơ ca, âm nhạc, tình yêu say đắm, những thú vui tế nhị của tinh thần.
Atalia cầm con dao bạc nhỏ gọt táo. Chân nọ vắt lên chân kia, mắt lim dim, nàng vừa đung đưa chiếc giầy vải nhỏ vừa nhấm nháp rượu:
- Những con người lọc lõi mới là những ông vua thực sự của cuộc đời… Em nghe người ta nói đây nầy: "Người nông dân tốt thì theo sau cái cày của mình, người thợ thủ công chắm chỉ ngồi dệt ở khung cửi của mình, người lái buôn dũng cảm dong buồm ra khơi dù có nguy nan đến tính mệnh". Họ làm như vậy để làm gì? Thần thánh chẳng chết cả rồi sao? Không giữa những áng mây hồng, chị thấy những vị thần khác trên Olimp.
Xanka ngồi nghe không khác một con thỏ bị thôi miên. Những nếp nhăn nhỏ in trên trán Atalia. Nàng đưa cốc không cho Xanka, bảo: "Rót cho chị", rồi tiếp tục:
- Em ạ, thực chị cũng chẳng hiểu tại sao em lại e ngại không dám nhận mối tình của vua Auguste, hoàng thượng đau khổ đấy… Đức hạnh chỉ là biểu hiện của sự thiếu thông minh. Người phụ nữ lấy đức hạnh để che đậy sự xấu xa về tinh thần của mình, chắc khác gì nữ hoàng Tây Ban Nha giấu đôi vú nhẽo dưới tấm áo cổ cao kín ngực. Nhưng em thì em thông minh, tài trí… Em yêu chồng em. Chẳng ai cấm đoán em thổ lộ mối tình tha thiết của em với chồng, nhưng em nên làm chỗ kín đáo. Đừng tỏ ra lố lăng, cô bạn của tôi ạ. Gã trưởng giả dạo chơi với vợ ngàỷ chủ nhật, ôm ngang lưng vợ dưới thắt lưng, để chẳng ai dám chiếm đoạt vật quý đó của hắn… Nhưng chúng ta là những phụ nữ lịch sự tinh tế, và điều đó ràng buộc ta.
Sau diềm đãng-ten của chiếc mũ ngủ, người ta không trông thấy khuôn mặt cúi xuống của Xanka. Nàng phải làm gì bây giờ? Nàng có thể khiêu vũ liền hai mươi bốn giờ đồng hồ, không hề ngồi nghỉ, nàng có thể đóng tất cả các vai nữ thần Hy Lạp, đọc một cuốn sách trong đêm, học thuộc lòng những câu thơ. Nhưng có những điều nàng không thể vượt qua được: nàng sẽ bị đau khổ giầy vò, nàng sẽ chết vì hổ thẹn nếu Atalia dỗ dành được nàng siêu lòng chiều ý nhà vua theo kiểu các bà… "Tất cả những cái đó tất nhiên rồi sẽ đến, nhưng không phải bây giờ" - Làm thế nào để giải thích được điều đó? Chẳng lẽ nàng lại đi thú thật rằng mình không sinh ra ở miền núi Parnax(4), mà xưa kia đi chăn bò, rằng nàng sẵn sàng hy sinh đức hạnh của mình nhưng trong lòng nàng còn có cái gì đó mà nàng chưa dứt được, tựa như đôi mắt ghê rợn của bà mẹ vẫn đang chăm chú gìn giữ một cái gì đó quý báu vô cùng, trụ cột của tất cả
Atalia không nài thêm chỉ véo má Xanka rồi nói sang chuyện khác.
- Ước mơ của chị là được gặp Sa hoàng Piotr. Chà, lúc đó chị sẽ kính cẩn hôn cái bàn tay biết cầm búa và cầm gươm. Sa hoàng Piotr làm chị nhớ đến Hecquyn và mười hai kỳ công của ông ta, - đánh chết mãng xà vương, dọn sạch chuồng ngựa Ogiax, ghé vai đỡ bổng quả địa cầu… Trong có vài năm, Sa hoàng Piotr đã xây dựng được một hạm đội hùng mạnh và một đội quân bách chiến bách thắng, đó chẳng phải là câu chuyện thần thoại đó sao, hở em? Chị muốn biết tên tất cả các tướng soái. Đức hoàng thượng của em quả là đối thủ xứng đáng của Charles châu Âu chờ đợi cái giờ phút cuối cùng con phượng hoàng Moskva sẽ cắm vuốt vào bờm con sư tử Thuỵ Điển. Em phải làm thoả mãn cho được tính tò mò của chị đấy?
Lần nào Atalia cũng xoay sang chuyện Moskva. Xanka biết sao trả lời vậy. Nàng không hiểu tại sao giọng nói của cô bạn làm ra mơn trớn, lại trở nên khó nghe như vậy? Sau đấy, nằm trong giường, kéo chăn lên tới mũi, nàng cứ trằn trọc mãi không ngủ được, tâm trí bối rối vì những câu chuyện đêm hôm. Chà, cái lối sống "lịch sự tinh tế" nầy quả thực không phải là dễ!
Chú thích:
(1) Thần ái tình.
(2) Dân tộc thiểu số ở Bắc cực.
(3) Cung điện vua Pháp
(4) Theo thần thoại lly Lạp nơi ở của các nữ thần thơ ca.