- Cậu cứ khai với nó là cậu phụ việc trong lò rèn của tớ… Cậu cứ thề và hôn cây thánh giá đi…
- Làm thế có bỏ công không?
- Có chứ… Ta sẽ sống được… Đây là một dịp may.
- Tớ chán lắm rồi. Kuzma ạ. Thà chết quách đi cho nó rảnh…
- Đừng hòng? Họ sẽ xẻo mũi cậu, đánh cho róc da lòi xương rồi đày sang Siberi…
- Quả cậu nói có đúng… Mình sắp bị thế đấy.
- Thằng quản lý của lão Lev Kirilovich được cấp giấy đi Moskva để đến các nhà giam tìm những người cần thiết đưa về xưởng. Vì đúng cái môn của tớ, nên tớ mới nói chuyện… Chúng còn nhớ tớ… Nầy ông bạn ạ, chúng quên cái thằng Kuzma Zemov nầy sao được. Chúng cho tớ chén súp bắp cải nấu thịt… Và chúng không đánh đập đâu… Nhưng chúng bắt phải vào khuôn vào phép… Nếu chúng có gọi tên thì cậu cứ trả lời như tớ đã dặn: cậu là chân quai búa của tớ…
Digan ngẫm nghĩ rồi lại hỏi:
- Súp bắp cải nấu thịt à?
Digan và Zemov chuyện trò trong nhà tù ở Tula, trong ngục tối. Hai gã bị bắt giam đã gần một tháng nay. Cho đến giờ, họ mới bị đánh có một trận, khi bị bắt ở chợ cùng với những của ăn cắp. (Yuda chạy thoát). Họ đang chờ cuộc điều tra và hỏi cung. Nhưng chính viên tổng trấn Tula cùng với bọn lục sự và thơ lại của hắn cũng đang bị điều tra. Người ta quên bẵng mất hai gã tù. Sáng sáng, lính gác xích họ lại, điệu ra chợ cho đi ăn xin. Họ kiếm cái ăn cho họ và cho tên lính gác bằng cách đó. Đáng lẽ đem họ đày đi Siberi thì nay bỗng nhiên người ta đưa họ đến xưởng chế tạo khí giới của Lev Kirilovich. Ít ra họ vẫn giữ được cái mũi nguyên vẹn.
Digan khai như Zemov dặn. Người ta xích hai gã giải từ nhà giam ra khỏi thành phố đi về phía sông Upa trên bờ có nhiều nhà gạch không cao mấy, chung quanh vây rào; bánh xe guồng nước cho máy xay rít lên trong một con mương khơi từ sông vào. Trời rét, trên không mây từ phương Bắc kéo về lờ lững trôi. Trên bờ sông đất sét, một đám đông phạm nhân bốc củi, gang và quặng chở trên các thuyền buồm tới. Xung quanh chỉ thấy toàn gốc cây, bụi rậm trơ trụi, đồng ruộng xơ xác. Gió thu thối. Con mắt độc nhất của Digan tràn đầy buồn bã khi hai gã tới gần cái cổng đánh đai sắt có lính cầm kích đứng canh… Vậy ra chúng đánh người ta túi bụi, lùng bắt người ta như loài dã thú, làm tình làm tội người ta chưa đủ, - chúng cho thế chưa đủ. Lại còn phải nai lưng ra làm cho chúng… Sao chúng chẳng để người ta chết quách đi cho rảnh…
Hai gã bị đưa vào một cái sân đen sì, ngổn ngang những sắt vụn. Nơi đây lúc nào cũng ầm ầm thật khủng khiếp, tiếng cưa rít xoàn xoạt, tiếng búa nện chan chát.
Qua một khuôn cửa ám khói, hai gã trông thấy những tia lửa từ một cái lò bắn ra trung tóe; chỗ nầy, những người trần trùng trục đang lần lượt quai búa để rèn một thanh kim loại; chỗ kia, một chiếc búa máy rất nặng chạy bằng bánh xe guồng nện xuống một thỏi gang, những mảnh vụn kim loại lỏng bắn vào các tạp dề da, đằng xa là những thợ làm nguội cặm cụi bên các bàn đồ nghề… Từ phía cổng cái, có những người đẩy xe cút kít chở than trên nền ván dốc đến tận một cái lò to bè bè; chiếc lò cao khạc lửa và khói đen. Zemov lấy khuỷu tay huých Digan:
- Chúng nó sẽ biết tay Kuzma Zemov…
Trong một ngôi nhà gạch đỏ xinh xắn, cách biệt khu lò rèn, có một bộ mặt nhẵn nhụi, đỏ hồng như vừa mới tắm xong, đội một chiếc mũ bông, nhìn qua cửa sổ.
Đó là Klaixte, viên quản lý của xưởng, người Đức. Y gõ tẩu vào kính cửa. Tên lính gác vội vã dẫn Zemov và Digan đến trước mặt y và trình bày cho y biết hai gã là ai và ở đâu tới. Klaixte nâng cửa sổ lên, thò đầu ra, môi mím lại. Quả tua mũ lủng lẳng trước bộ mặt phì nộn của y, Digan đưa con mắt ác cảm và hãi hùng nhìn quả tua mũ… "Úi chà? Thằng nầy hẳn là một con quỷ hút máu!" gã tự nghĩ.
Sau Klaixte là một chiếc bàn sạch sẽ trên để một miếng thịt quay, mấy chiếc bánh mì vàng óng và một tách cà phê. Làn khói thơm thơm của chiếc tẩu toả ra ngoài cửa sổ. Cặp mắt Klaixte lạnh như băng soi mói vào tâm hồn người Nga. Y ngắm nghía chán chê hai gã tù rồi mới chậm rãi nói:
- Nói dối sẽ không xong đâu. Họ đưa lại đây cho tao những thằng nông dân, toàn là đồ lợn đẻ. Chúng nó chẳng biết làm cái gì hết, đồ chó chết. Mầy khai mầy làm thợ rèn giỏi - tốt lắm… Nhưng mầy mà nó dối thì tao có thể đem treo cổ lên… - Y gõ tẩu vào gỗ cửa sổ - Đúng, tao có thể cho đem hai thằng khốn nạn nầy đi giam cổ lại.
Dọc đường, tên lính gác ra vẻ dạy đời, bảo hai gã:
- Nghe tao bảo, hai chú mầy, phải coi chừng ông ấy! Chỉ phạm một lỗi nhỏ thôi, trây lười hoặc ngủ gật bỏ công việc thì ông ấy ác lắm.
- Bọn tôi đến đây không phải để nghênh trời, nghênh đất, - Zemov nói. - Có thể chính bọn tôi sẽ dạy cho ông người Đức của thày quyền vài bài học đấy…
- Thế chúng mầy là ai? Tao nghe nói trước đây chúng mầy đi ăn cướp. Vậy thế tại sao chúng mầy bị bắt?
- Thày quyền tốt bụng quá, tôi cùng với lão chột nầy tìm đến các tín đồ razkonic. Nhưng quỷ sứ đã cám dỗ bọn tôi.
- À thế thì lại là chuyện khác, - tên lính gác vừa đáp vừa mở khoá một cánh cửa thấp. - Ở đây, phép tắc như thế nầy… Vào đi, tao đi thắp nến.
Họ đi xuống tầng hầm. Những tia sáng lọt qua các lỗ của một cái đèn rèn bằng sắt, chiếu sáng những tấm phản, những bàn bằng ván ghép, một cái lò ám khói, mấy cái quần áo rách vắt trên dây.
- Phép tắc ở đây là thế nầy… Bốn giờ sáng tao đánh trống cầu kinh… Tao sẽ đi làm. Bảy giờ đánh trống ăn sáng, - nửa tiếng… Tao có đồng hồ, biết chưa? - Hắn rút ở trong túi ra một cái đồng hồ bằng đồng, to bằng củ xu hào. - Rồi lại đi làm… Đến trưa ăn, sau đó được ngủ một tiếng đồng hồ. Đến bảy giờ ăn tối, nửa tiếng, và mười giờ nghỉ tay…
- Thế mà không ai chết à? - Digan hỏi.
- Có chứ, cái đó thì nhất định rồi. Nhưng đây là nhà tù, người anh em ạ; nếu mầy không ăn cắp thì mầy đã ở nhà, nằm trên bếp lò rồi… Ở đây có mười lăm người tự do, mộ vào làm; bọn họ nghỉ lúc bảy giờ và ngủ riêng một nơi. Ngày lễ họ về nhà.
Digan ngồi trên phản hỏi, giọng càng khàn khàn hơn:
- Vậy thế đối với bọn tôi, cứ như thế mãi à?
Zemov đang nhìn vào các lỗ sáng của chiếc đèn tròn bỗng bị một cơn ho. Tên lính gác càu nhàu trong bộ râu và cầm lấy đèn đi ra.