Qua khỏi cổng luỹ Zemlianoi Val, đường phố lồi lõm gồ ghề chạy ngoằn ngoèo giữa những ngôi nhà gỗ hai tầng, cao và hẹp. Người ta vứt ra ngoài đường thôi thì đủ mọi thứ. Chỗ nào cũng thấy những đống tro, xác xúc vật, chai lọ vỡ, giẻ rách.
Alioska tay cầm cương ngựa, đi bên cạnh chiếc xe trượt tuyết có ba nông nô ngồi, đầu đội mũ quân đội bằng vải bông nhồi sợi gai thô vụn, mình mặc áo dài cổ cao bằng dạ trần, lụng thụng cứng đơ - những chiếc áo tigeleis. Họ là chiến binh của Vaxili Volkov. Không đủ tiền sắm áo giáp, Vaxili đã trang bị cho họ những chiếc áo tigeleis nhưng trong bụng vẫn nơm nớp lo khi duyệt binh, người ta sẽ làm nhục hắn, nhiếc móc hắn không đưa đến những vũ bị đã quy định và cho hắn là biển lận…
Vaxili và Mikhail ngồi trên chiếc xe do Digan dắt. Theo sau là mấy nông nô với hai con ngựa: ngựa của Vaxili thắng toàn đồ sang trọng, trên lưng mang một cái yên Ba Tư, còn con ngựa thiến của Mikhail đã thấm mệt thì yên cương xộc xệch.
Mikhail cau mày. Nhiều tay quý tộc và con nhà lãnh chúa đã vượt qua, miệng hò hét tay ra roi. Họ mặc những bộ áo giáp của ông cha để lại, hoặc mặc áo choàng mới may, áo nịt, áo nẹp kiểu Thổ Nhĩ Kỳ - mọi người trong quận đều đến quảng trường Lubianka, nơi duyệt binh để xin cấp đất mới hoặc chia đất cũ. Bất kỳ ai đi ngang qua, trông thấy con ngựa thiến của Mikhail cũng phá lên cười: "Nầy dẫn nó đến làm mồi cho quạ đấy à? Coi chừng đấy, ngữ nó đến toi mạng dọc đường thôi!". Khi vượt qua con ngựa thiến của Mikhail họ giơ roi quất vào mình nó, làm nó khuỵu chân xuống, giữa tiếng hò reo cười đùa, tiếng huýt sáo…
Cả bọn Mikhail vượt qua chiếc cầu bắc ngang sông Yauza trên bờ sông cao, hàng trăm chiếc cối xay gió cỡ nhỏ đang quay. Theo sau những xe trượt tuyết và những đoàn xe khác, họ cho ngựa phi nước kiệu vượt qua quảng trường, tiến dọc theo một bức tường trắng vừa trát đã tróc ra từng mảng; phía trên bức tường là những tháp canh xây vuông có đặt đại bác ở các lỗ châu mai. Trước cổng thấp phố Miaxnitskaia, tiếng quát tháo, chửi rủa ầm, người ta chen nhau đến chết bẹp: ai cũng muốn tranh đi trước; thế là xảy ra cảnh đấm đá nhau, kẻ mất mũ, người gẫy xe, ngựa lồng. Phía trên cổng có một ngọn đèn dong đêm thắp thường xuyên trước một bức tranh vẽ các thánh tối mờ mờ. Dưới làn mưa rơi. Alioska rơi mất mũ; không hiểu làm sao nó lại sống sót được? Cả bọn đã vào được phố Miaxnitskaia, Alioska đưa tay lên lau máu mũi chảy ròng ròng và đưa mắt nhìn từ phía; khiếp thật, đến thế là cùng!
Đám người đông đúc ùa vào đường phố chật hẹp ngập ngụa phân súc vật. Đứng trong những gian hàng dựng bằng ván, bọn lái buôn nhoài người qua quầy, lớn tiếng gọi, tay vươn ra níu lấy vạt áo những người qua đường, giật mũ lông của họ hoặc chào khách mua hàng. Phía bên dãy rào cao, người ta thấy những ngôi nhà gạch, những mái nhà dốc người, cái thì đỏ, cái thì thép bạc, những nóc nhà thờ hình củ hành màu sặc sỡ Nhà thờ thì có tới hàng nghìn. Loại nhà thờ lớn có năm nóc tròn và ở các ngã ba ngã tư là loại nhà thờ bé con con, bé đến mức một người phải chật vật mới lách qua được cửa, bên trong thì chỉ mươi người đứng là hết chỗ nhúc nhích. Nhìn qua cửa chính của nhà thờ bỏ ngỏ, người ta trông thấy ngọn lửa nhỏ sáng rực của những cây nến. Các bà lão đang quỳ cầu kinh ngủ thiếp luôn. Lũ ăn mày râu tóc xồm xoàm trông gớm chết, có cái thói giũ áo quần rách bươm và túm lấy chân những người qua lại, rồi lè nhè kể lể, phô ra cái thân thể đầy máu me hoặc chi chít mụn nhọt đang nung mủ. Có những cha cố mất giáo khu, mắt trợn trừng, gí một chiếc bánh kalats (1) vào mặt khách qua đường, miệng kêu "Nầy anh lái buôn, hãy cùng ta vào nhà thờ hát mừng một lễ - nếu không ta sẽ cắn chiếc bánh kalats nầy…". Bên trên các nhà thờ nhỏ, hàng đàn quạ khoang bay lượn…
Bọn Vaxili phải chật vật lắm mới chen được một lối đến quảng trương Lubianka, lúc nầy đã đông nghịt chiến binh cưỡi ngựa túm tụm lại thành từng nhóm.
Xa xa, trước cửa ô Nikokskie, người ta trông thấy chiếc mũ lông chồn đen, cao ngất nghểu như ống khói của một vị đại thần, những chiếc mũ lông của bọn thơ lại và những chiếc áo dài sẫm màu của một số người cao sang. Một người gày gò, cao ngẳng, có bộ râu dài đứng ở đó miệng hô to, tay vung vẩy một tờ giấy. Mỗi lần hắn hô lại có một gã quý tộc vũ trang sơ sài hoặc rất đầy đủ, đi một mình hoặc có chiến binh đi theo - phi ngựa lại gần chỗ cái bàn để trình diện. Đến nơi, gã xuống ngựa, kính cẩn cúi chào vị đại thần và bọn thơ lại. Bọn nầy xem xét kỹ càng từ vũ khí cho đến ngựa, rồi đọc bản danh biểu để kiểm soát lại số đất trước đây đã cấp cho gã quý tộc đó. Tiếp đấy là cuộc tranh luận. Có tên quý tộc đấm ngực thùm thụp, miệng thề sống thề chết; có tên thì lạy van, khóc lóc, kêu ca đất đai cằn cỗi cấp cho họ đã làm cho họ lụn bại, lâm vào cảnh chết đói chết rét.
Cứ như thế, hàng năm, trước khi mở những chiến dịch mùa xuân, theo một tục lệ rất lâu đời, người ta duyệt lại các chiến binh, đoàn vệ binh quý tộc phục vụ Sa hoàng.
Vaxili và Mikhail lên mình ngựa. Ngựa của Digan và của Alioska được tháo ra khỏi xe để cho hai nông nô của Volkov cưỡi không yên. Tên nông nô thứ ba được lệnh phải nói rằng ngựa của nó đã bị thương ở chân trên đường đi. Còn hai chiếc xe thì họ bỏ lại.
Digan níu chặt lấy chiếc bàn đạp: "Đem ngựa của tôi đi đâu thế nầy? Thưa lãnh Chúa! Xin lãnh chúa hãy rủ lòng thương!…" Vaxili giơ roi chỉ vào mặt Digan đe doạ: "Mầy có câm ngay mồm đi không!…". Khi Vaxili đã đi khỏi, Digan nguyền rủa không tiếc lời, quẳng vòng cổ ngựa và vai ngựa lên xe, rồi hậm hực chui vào đống rơm nằm.
Người ta quên khuấy mất Alioska. Thu dọn xong bộ yên cương để vào trong xe, Alioska đứng đợi, đầu trần, mình khoác một tấm da cừu đã thủng lỗ chỗ, chẳng bao lâu nó rét cóng. Nhưng số phận của nông dân là thế: phải kiên nhẫn chịu đựng. Bỗng mũi nó ngửi thấy một mùi vị ngon lành. Một bác bán hàng rong đi qua, béo tròn trùng trục, mắt ti hí, đầu đội mũ lông thỏ rừng, đeo ở bụng một cái mẹt đựng nhiều bánh chả nhỏ nóng hổi, trên phủ một mảnh vải cũ nát. Bác bán hàng tinh quái liếc nhìn về phía Alioska, lật một góc mảnh vải che, nói: "Bánh chả nóng sốt vàng ngậy đây!". Mùi bánh thơm lôi cuốn Alioska. Nó bước theo người bán bánh hỏi:
- Bao nhiêu tiền một cái thế bác?
- Nửa kopeik một đôi. Ngon chết đi được!
Alioska ngậm trong mồm, áp vào bên trong má, đồng nửa kopeik của mẹ cho trước kia để dỗ nó khi đem bán nó cho lãnh chúa làm nông nô. Nó tiếc không muốn mất tiền nhưng lại đói đau cả bụng.
- Thôi, cho một đôi, - Alioska xẵng giọng nói.
Nó mua bánh rồi ăn ngay; quả thật, từ trước đến nay nó chưa bao giờ được ăn thức gì ngon như vậy! Nhưng khi nó trở lại chỗ xe thì chẳng thấy roi lẫn vòng cổ ngựa, đai da buộc ngựa vào xe đâu nữa - có kẻ đã lấy cắp mất rồi. Nó chạy vội đến chỗ Digan hỏi, bác ta nằm lì trong đống rơm chửi rủa. Alioska hoảng sợ, bủn rủn chân tay, đầu óc choáng váng. Nó ngồi xuống thành xe khóc rồi lại nhổm dậy, chạy xổ ra đón những người qua lại hỏi: "Các bác có trông thấy đứa lấy trộm những thứ của tôi không?". Mọi người cười rộ. Biết làm thế nào bây giờ đây? Alioska chạy vụt qua quảng trường đi tìm lãnh chúa.
Volkov ngồi trên ngựa, một tay chống nẹ, đầu đội mũ đồng; bộ giáp sắt che kín ngựa và bụng, phủ một lớp sương giá. Thật không tài nào nhận ra Volkov nữa: trông hắn không khác một con chim ưng! Đứng sau Volkov là hai nông nô cũng cưỡi ngựa, mặc áo dạ dài, béo tròn như những cái chum, vai vác gậy. Quả là chiến sĩ hiên ngang! Trông chúng thật lố bịch, ngốc nghếch. Bản thân chúng cũng nhận thấy thế nên chúng cười hềnh hệch.
Alioska vừa lau nước mắt vừa kể lại tai hoạ của mình, giọng lè nhè thảm hại.
- Chỉ tại mầy thôi? - Vaxili mắng. - Bố mầy sẽ quật cho mầy một trận. Nếu bố mầy không mua đền bộ đồ thắng ngựa khác tao sẽ cho đánh róc xác bố mầy ra. Xéo ngay, đừng có luẩn quẩn trước ngựa tao nữa!
Vừa lúc đó, gã thơ lại cà khẳng cà kheo, tay vung vẩy tờ giấy, gọi đến Vaxili. Volkov lập tức phi nước đại mấy nông nô thúc gót ủng gai vào bụng ngựa theo sau, cả bọn lao về phía cửa ô Nikolskie, tới chỗ vị vương hầu khét tiếng oai nghiêm Fedor Yurievich Romodanovski đang ngồi bên bàn, đầu đội mũ lông cao ngất nghểu, mình khoác hai chiếc áo choàng: một chiếc bằng nhung mặc ở trong và choàng ra ngoài là một chiếc bằng da cừu, mặt có lông quay vào trong.
"Làm thế nào bây giờ đây? Mũ đã mất mà bộ đồ thắng ngựa cũng chẳng còn" - Alioska ti tỉ khóc thầm, đi lang thang khắp quảng trường. Mikhail Tyktov lên tiếng gọi nó. Từ trên mình ngựa cao chót vót, Mikhail cúi xuống, nắm lấy vai Alioska:
- Nầy Alioska! - Mikhail nói, mắt đẫm lệ, môi run run. - Hãy vì Chúa, chạy ngay đến cửa ô Tverkie, hỏi thăm đến nhà giám mã Danila Melsikov. Vào được rồi mầy hãy sụp xuống chân ông ra, lậy ba lậy. Mầy sẽ nói thế nầy: ông Mikhail xin ông ra ơn cho một việc… Ngựa của ông ta bị thương… thật là một sự nhục nhã… Ông ta khẩn khoản xin ông cho mượn một con ngựa trong một ngày để ông ta có thể cưỡi đi trình diện. Mầy không quên đấy chứ? Bảo ông ấy rằng ta sẽ đền ơn. Nếu cần phải giết một người để có ngựa ta cũng làm. Mầy cứ khóc lóc, van lạy nhiều vào…
- Con sẽ van lạy ông ta như đức ông bảo nhưng nếu ông ấy chối từ thì làm thế nào? - Alioska hỏi.
- Thế thì tao sẽ chôn sống mầy đến tận cổ! - Mikhail trợn mắt phồng mũi nói.
Sợ cuống cả người, Alioska cắm đầu cắm cổ chạy đi làm cho xong việc Mikhail sai bảo.
Suốt cả ngày, Mikhail chưa hề ăn tí gì, nên rét cóng trên mình ngựa… Mặt trời lặn dần trong đám sương mù lạnh lẽo. Tuyết ngả màu phơn phớt xanh. Tiếng vó ngựa nghe càng giòn giã hơn.
Hoàng hôn đã xuống; từ các gác chuông và tháp nhà thờ khắp Moskva, tiếng chuông báo giờ cầu kinh chiều vang lên. Vaxili vẻ mặt ủ rũ, đầu cúi gằm, cho ngựa đi thủng thẳng bước một, qua chỗ Mikhail mãi không thấy Alioska về. Nó không trở lại nữa.