- Đau chỗ đó lắm phải không?
Có giọng nói nghe rất khẽ và lúng búng, bằng tiếng Việt, làm Joseph giật mình. Anh mở mắt, thấy một bé gái khoảng mười tuổi đang ngồi chồm hổm mé dưới chân mình. Con béù mặc áo cánh cổ kiềng màu xám, quần dài nâu may bằng vải rẻ tiềân, đi chân trần và đang hỉnh mũi, nhíu đôi lông mày dọ hỏi. Khi ấy, Joseph mới nhận ra mình vừa rên lên đau đớn lúc trở người trong lòng đò. Con đò đong đưa nhè nhẹ theo chuyển động của mặt nước sông Hương nhưng hai lớp chiếu cói lót dưới lưng chỉ làm bớt phần nào cảm giác khó chịu vì anh nằm ngửa, lưng đè sát mặt ván thô nhám sần sùi.
- Không, chỉ đau chút chút thôi.
Joseph vừa nói vừa há miệng hớp không khí, hít vào thở ra khò khè, nặng nhọc. Miếng băng cột xéo ở mé bên trên lồng ngực chỗ vàng khè, chỗ đỏ bầm, đầy máu khô, cứng trửng. Khó khăn lắm anh mới có thể nhấc lên cánh tay phải đang tê dại. Viên đạn trúng ngay chính giữa giữa hai chiếc xương sườn trên cùng, ngay phía dưới xương đòn gánh bên phải và phạm vào phổi. Nhưng qua vết thương dưới nách, anh đoán đầu đạn xuyên suốt người, bay thẳng ra ngoài. Lá phổi bên phải của Joseph bị phá rách. Và sau năm ngày đêm, lúc này anh đã quen dần với việc thở từng hơi ngắn thích ứng với khả năng của lá phổi còn lại.
- Có phải ông sắp chết không?
Joseph nhìn vào hai con mắt tròn xoe đầy thắc mắc ấy. Trong lúc con bé đưa mắt nhìn anh hóng câu trả lời, bộ mặt mười tuổi với vẻ thơ dại mộc mạc và nét đẹp chưa thành hình của nó bỗng đầy vẻ nghiêm trọng. Joseph chống một bên sườn, nhỏm người lên, nhăn mặt đau đớn:
- Không, ông thấy ông không chết. Mai mốt ông khoẻ lại. Đến lúc đó, ông sẽ đem cháu với mẹ của cháu với em của cháu tới một nơi không có chút giặc giã nào cả.
- Không có chút giặc giã nào cả?
Bộ mặt thiên thần màu hổ phách ấy cau lại vì hiểu không ra. Xa xa ngoài kia tiếng súng trường cắc bụp và tiếng súng liên thanh lắp bắp bắn liên tục. Thỉnh thoảng tiếng uỳnh uỵch nghe sâu hơn của đại bác 90 li gắn trên xe tăng và tiếng oành oành của đạn súng cối làm mặt đất rung chuyển, át tiếng nổ của các loại vũ khí nhẹ hơn, nhưng hiếm khi bặt hẳn tiếng nổ ròn rã của súng cá nhân.
Mười tiểu đoàn gồm bộ binh, pháo binh và đặc công Cộng Sản tràn vào thị xã Huế trong những giờ đầu ngày 31 tháng Giêng; chỉ nội một hai tiếng đồng hồ đã chiếm được Thành Nội, Gia Hội, khu vực phố xá quanh chợ Đông Ba và các vùng phụ cận dọc mạn nam sông Hương mà chỉ gặp đôi chút kháng cự. Tiểu đoàn I Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ ở Phú Bài, cũng chỉ nội một hai tiếng đồng hồ đã mở được đường tới cơ quan MACV — Military Assistance Command-Vietnam: Bộ Chỉ huy Hỗ trợ Quân sự tại Việt Nam, đóng trụ sở tại khách sạn Thuận Hóa, trong khu vực hữu ngạn sông Hương, đối diện với Kinh Thành. Vài ngày sau, lính Mỹ mới khởi sự đụng độ với Việt Cộng. Nhưng lúc ấy, mọi nỗ lực của lính Mỹï nhằm xông ra quét sạch bội đội Bắc Việt và cán binh Việt Cộng khỏi các khu vực khác ở mạn nam sông Hương đều gặp kháng cự trên từng bước một.
Phía bờ bên kia, ở khu vực tả ngạn, những binh lính Sư đoàn 1 còn ở lại đơn vị khi Cộng Sản tấn công và đại đội Hắc Báo thiện chiến lúc này cũng ra sức phản công nhưng chưa vượt quá khu vực quanh bộ tư lệnh. Và Cộng Sản đang chiếm Hoàng Thành Đại Nội, dùng các cung điện trong đó làm nơi đặt bộ chỉ huy. Thủy quân Lục chiến Mỹ thận trọng tiến quân trên đường phố, lom khom bước đằng sau xe tăng theo kiểu đánh thời Thế Chiến Hai. Nhưng dù áp dụng chiến thuật đó, xem ra cũng ít có hiệu quả vì nó lạ lẫm với các binh sĩ đã ngày càng quen thuộc lối chiến đấu trong vùng rừng núi và nông thôn Việt Nam. Vì thế, phải mất hơn bốn ngày, lính Mỹ và lính nhảy dù của QLVNCH mới quét sạch địch ở khu vực Hữu Ngạn.
Súng phóng hoả tiễn B-40 rất chính xác gây thiệt hại cho xe tăng. Đối phương vốn quen lẩn lút nơi rừng núi nay chứng tỏ tinh thần quyết tử đáng kinh ngạc với trận thế cận chiến từ nhà này sang nhà nọ trong thành phố. Mây thấp và mưa lất phất khiến không thể cung ứng được những phi vụ yểm trợ chiến thuật bay thật sát. Chung quanh vạn đò lúc nhúc bên bờ bắc của sông Hương, nơi buông neo con đò có Joseph đang nằm, cuộc đụng độ giành giật khu vực Tả Ngạn đang diễn ra ác liệt và chứng tỏ là một trận đánh gây tổn thất đắt giá cho cả đôi bên.
Joseph nói, giọng rất trầm:
- Ở chỗ này của cháu, kể từ ngày mẹ cháu sinh cháu ra cho tới lúc này, người ta cứ bắn nhau hoài bắn nhau miết. Nhưng ở các chỗ khác thì không chỗ nào giống như chỗ này. Ở các chỗ khác, mấy đứa con nít ngang tuổi của cháu và của em cháu chơi trò chơi cả ngày. Chúng nó đi bơi. Chúng nó đi chỗ này chỗ khác. Cháu có thích chơi trò chơi, thích đi bơi đi chơi không?
Ngó Joseph với vẻ tần ngần, con bé tì chiếc cằm thanh và nhỏ lên hai nắm tay nhỏ xíu, không trả lời. Suốt năm ngày vừa qua, một đôi lần anh thấy nó rụt rè ngó ra, mặt lấp ló bên mép chiếc chiếu cói treo ngăn đôi khoang đò, dưới mui đò lợp bằng lá gồi mỏng mảnh. Thông thường, ngày nào nó cũng theo Tuyết và đứa em trai tên Chương rời đò lúc sáng sớm, cho tới khi trời chạng vạng tối ba mẹ con mới trở về. Tuy vậy, ít nhất có một lần, con bé ở lại nơi ngăn khoang đầu lái đò ở mé gần bờ sông. Và anh nghĩ rằng nó đã leo qua ngồi bên anh khi anh đang nằm ngủ ở ngăn khoang đầu mũi đò nhìn ra giữa sông.
Bộ mặt nhỏ nhắn của con béù thêm lần nữa cau lại, ngỡ ngàng:
- Có thiệt ông là cha của mẹ con...
- Thiệt, thiệt đó.
- Nhưng ông là đế quốc Mỹ... sao mà có thể thiệt được?
- Được chớ. Để mai mốt ông khỏe ông nói thật rõ cho cháu nghe.
Joseph co rúm người và nhắm mắt lại. Một chút rán sức thôi cũng đủ làm anh mệt lã. Hễ hơi nhúc nhích người là anh cảm thấy chóng mặt vì vết thương gây choáng váng và mất nhiều máu. Suốt năm ngày đầu tiên, gần như Joseph chỉ ngủ chập chờn, hôn mê và đong đưa lui tới trong trạng thái nửa tỉnh táo nửa mụ mẫm. Anh chỉ nghe loáng thoáng những tiếng động chiến trận đang diễn ra bên ngoài. Đôi khi anh chợt tỉnh, thấy Tuyết đang quì một bên săn sóc chỗ bị thương của anh. Và qua lớp băng vải nặng mùi hôi, anh đoán vết thương bắt đầu làm độc.
Mỗi ngày, Tuyết mất nửa giờ tháo băng, rửa vết thương bằng mấy ấm nước đun sôi trên chiếc bếp cồn nhỏ đằng sau khoang đò. Nhưng dù cử chỉ lúc nào cũng nhẹ nhàng chu đáo, vẻ mặt Tuyết lạnh lẽo như một chiếc mặt nạ vô cảm và cố tình né tránh ánh mắt của cha. Mỗi khi Joseph cố mở miệng gợi chuyện, nàng ra hiệu cho anh im lặng hoặc không chịu trả lời.
Joseph chỉ nhớ lờ mờ bằng cách nào hai cha con tới được con đò này. Dù bị thương nặng, anh cũng đi trầm trầy trầm trật ra khỏi khu phố nhớp nháp ấy nhờ Tuyết đỡ một bên và cả hai ra tới mé sông mà không bị phát hiện. Họ thấy thêm nhiều bộ đội Bắc Việt vượt sông bằng xuồng nhưng lúc ấy, Joseph cảm thấy kiệt sức và chóng mặt. Hai cha con núp một hồi lâu nơi mé sông rồi sau đó Tuyết dìu cha đi tới một con đò nào đó nhưng lúc ấy anh hoàn toàn bất tĩnh. Anh tỉnh lại, thấy Tuyết đang tuyệt vọng vả tới tấp lên mặt anh. Rồi với sự nâng dắt của con gái, anh leo lên chiếc đò mui che kín mít này. Nằm lơ mơ, anh ngó ra sau thấy Tuyết chống sào, rồi chèo đò thật chậm, đi thật xa, hình như là ra sông Hương. Joseph nhớ lại sau đêm đầu tiên, trong ánh sáng sớm mai, anh mở mắt và thấy Tuyết đang đút cháo gạo nấu thật nhuyển vào miệng cha.
Khi trí óc đủ tỉnh táo để nhận ra rằng hai cha con đang ở dưới mé nước Phú Văn Lâu, trong khu vực thành phố bị đối phương chiếm đóng, Joseph hỏi Tuyết:
- Liệu người của con có sẽ tìm thấy cha ở đây không? Có phải chúng ta vẫn còn bị nguy hiểm?
Tuyết trả lời cộc lốc:
- Con đò này có thẻ miễn khám xét của tư lệnh Lực lượng Võ trang Giải phóng Nhân dân cấp. Người ta biết rất rõ rằng con sống nơi vạn đò này suốt cả năm nay, kể từ ngày được điều ra Huế.
Trong khi Tuyết nói, Joseph nhìn chăm chú con gái. Mặc dù Tuyết tỏ thái độ bất cần, anh vẫn cảm thấy con gái đang e ngại chiếc đò có thể bị bất thần khám xét. Anh nói dịu dàng:
- Tuyết ạ, cha rất ân hận. Cha tới tìm con là để cảnh báo cho con — chứ không phải để làm con bị lâm vào một hoàn cảnh nguy hiểm lớn lao hơn.
Lúc đó, Tuyết đột ngột quay lưng lại với anh, chăm chú nhìn miếng băng vải mới thay và chẳng tỏ vẻ có để ý hay không tới lời xin lỗi của cha.
Khi Joseph mở mắt ra lại, con bé vẫn còn đứng yên lặng bên anh và đang ngó anh với hai con mắt tò mò lẫn nghi hoặc. Anh nhìn đồng hồ, kinh ngạc thấy ra mình lại vừa ngủ hơn hai giờ. Qua mui đò te tưa mỏng mảnh, anh có thể thấy bên ngoài trời đã về chiều và hình như lần đầu tiên lắng tiếng đụng độ. Con bé hỏi, giọng nôn nóng, như thể nó chờ đặt câu hỏi đó suốt hai giờ nay:
- Ông tên gì vậy?
- Joseph Sherman.
Con bé lặp lại thành tiếng lơ lớ vài lần cái tên đó với giọng Việt Nam nhỏ nhẹ nghe như hát. Rồi đột nhiên nó ngừng lại:
- Nếu ông là cha của mẹ con thì tức là ông là ông ngoại của con.
Mặt nó trầm trọng như thể đã mất một thời gian suy nghĩ cân nhắc trong đầu óc mình cái triển vọng dễ sợ đó, và Joseph cảm thấy ứa nước mắt. Khi mở nổi miệng, anh dịu dàng gật đầu và cười với nó. Không cười lại, con bé tiếp tục nhìn anh chằm chặp với tia mắt bứt rứt:
- Nhưng làm chi có chuyện đó— ông là giặc Mỹ mà?
Joseph tiếp tục cười với nó:
- Cắt nghĩa cho cháu hiểu hết chuyện đó thì thiệt là khó. Tên của cháu là gì?
Nó im lặng xem xét bộ mặt của Joseph một hồi lâu, như thể nghi ngại rằng chẳng biết mình có nên tin cậy người Mỹ hay không. Rồi nó hít vào một hơi thở bực bội để tỏ ra cực chẳng đã phải tiết lộ. Nó nói nghiêm trang:
- Con tên là Trinh. Triệu Hồng Trinh.
- Tên của cháu đẹp lắm — nó có nghĩa là “trong sạch lắm và đạo đức lắm”, phải không? Ông dám đánh cá rằng cháu là một thiên thần tí hon đang giả dạng làm người, đúng không?
Trinh bật cười khúc khích và đưa tay lên che miệng nhưng vẫn tiếp tục nhìn Joseph chằm chặp. Bên trên các đầu ngón tay, hai mắt con bé long lanh vẻ hớn hở. Rồi nó chúi mình tới trước, giật giật mấy sợi lông mọc trên bắp tay ông ngoại:
- Tại sao tên đế quốc Mỹ nào cũng lông mọc đầy người như mấy con khỉ?
Vẻ mặt tò mò thơ ngây của con bé làm Joseph bật cười. Và anh chợt nhớ, thật sinh động, tới Lan lúc mười tuổi với con khỉ nhỏ trong hoa viên dinh thống đốc Nam kỳ. Anh thấy sâu trong đôi mắt của Trinh loé lên nét di truyền hao hao. Cảm thấy cổ họng mình se lại, Joseph vẫy tay ra dấu cho con bé tới gần hơn. Nhưng ngay lúc ấy, con đò tròng trành lắc mạnh hết bên này tới bên kia dưới sức nặng của một người nào đó đang từ trên bờ bước xuống. Trên bộ mặt của Trinh nụ cười tắt ngúm.
Nó chưa kịp rút ra đằng sau, manh chiếu đã bị vén lên một bên và Tuyết xuất hiện. Mặt Tuyết sa sầm khi thấy hai ông cháu với nhau. Nàng cao giọng nói với Trinh bằng tiếng Việt, líu lo và liến thoắngï tới độ Joseph không thể nghe ra nàng trách mắng cái gì. Con bé giật nảy mình, lập tức bò ra khỏi ngăn khoang của ông ngoại. Anh nghe Tuyết tiếp tục mắng mỏ con đằng sau manh chiếu ngăn đôi.
Một giờ sau, khi Tuyết mang sang cho Joseph chén cháo buổi tối và cá khô, mặt Tuyết vẫn nặng chình chịch, đầy vẻ khó chịu. Không nói một lời, nàng đặt thức ăn xuống trước mặt cha rồi sấp lưng dợm trở lui ngăn khoang của mình, không xem xét miếng vải băng vết thương như thường lệ. Joseph nghe xa xa tiếng súng lại rộ lên lốp bốp như đang bắt đầu một cuộc đụng độ khác.
Anh nói trầm giọng:
- Tuyết ạ, con chịu khó ở lại nói chuyện với cha một phút thôi. Cha muốn biết những gì đang diễn ra trong thành phố này.
- Bọn lính đế quốc của cha và bọn ngụy quân tay sai của chúng đang ra sức đập tan quyền làm chủ của nhân dân — nhưng chắc chắn bọn chúng sẽ không thành công. Cuộc cách mạng tại Huế thế nào cũng tiến đến toàn thắng.
Tuyết nói, vẫn đưa lưng về phía cha. Nhưng Joseph để ý thấy trong lời lẽ của con gái không còn sự tự tin tuyệt đối như trước nữa. Và hai vai Tuyết có vẻ đang chùng xuống vì lo lắng.
- Tuyết ạ, cha có thể hỏi là hằng ngày con đi đâu vậy không?
- Để giúp cách mạng tiến tới. Có nhiều công tác phải thực hiện. Tại các khu vực giải phóng trong thành phố, cán bộ phải đi khắp các đường phố kêu gọi bọn viên chức thối nát của ngụy quyền Thiệu Kỳ ra đầu thú. Chúng tôi thành lập nhiều trung tâm cải tạo...
Joseph cố tình ngắt lời con, anh nói:
- Cha thấy hai đứa con của con quanh quẩn thui thủi với nhau. Hôm nay, cha thấy chúng nó có vẻ sợ khi bị con bỏ lại trên đò. Con đừng có quở trách Trinh mà tội nghiệp. Cháu nó chỉ qua đây nói chuyện với ông ngoại để hai ông cháu đỡ buồn thôi..
Tuyết bò thật lẹ dọc theo con đò về phía Joseph, mắt rực lửa, giận dữ:
- Đi lên bờ hay ở dưới đò, cái gì tốt hơn nào? Đi hoạt động cho cách mạng như người ta đang trông chờ nơi tôi? Hoặc ở yên một chỗ để người ta phải tới con đò này tìm tôi? Rồi lúc đó người ta phát hiện có cha đang ở đây!
Sự căng thẳng và mệt mỏi trên mặt Tuyết trông rõ từng nét, và Joseph sửng sốt khi thấy con gái sắp trào nước mắt. Anh chợt nhận ra và lần đầu tiên anh hiểu tình thế nghiêm trọng tới lui đều cực khó đang vật vã con gái:
- Tuyết, cha xin lỗi, cha mù mờ quá. Lúc này cha thấy ra là mình làm cho mọi sự hóa ra khó khăn biết mấy. Cha ở lại chỗ này thì rất nguy hiểm cho cha, cho con và cho các con của con.
Nói tới đây, anh đau đớn trở mình, cố nhịn đau rán ngồi dậy:
- Cha nghĩ lúc này cha đủ sức rời đò rồi. Tối nay, trong bóng đêm, cha sẽ tìm đường tới phòng tuyến của phe bên kia, chung quanh trụ sở MACV.
- Cha nhắm bơi nổi qua sông không? Có qua được, cha cũng không đi nổi quá vài bước! Với một lá phổi bị liệt, cha chỉ có thể mò từng bước rất chậm. Cha quá yếu vì mất máu — đi chưa tới trăm thước là bị người ta bắt rồi! Cũng không thể dùng thuyền để vượt sông, qua tới khách sạn Thuận Hóa. Quân hai bên đang giữ chặt hai đầu cầu Tràng Tiền, sẵn sàng bắn vào bất cứ thuyền đò nào dám sang sông. Có cắm lá cờ bên nào cũng chết.
Joseph lật chiếc mền đang đắp trên hai chân qua một bên và bóp bóp hai đầu gối:
- Thà như vậy vẫn tốt hơn bị tìm thấy ở đây. Bị người ta bắt thì cũng phải có ngày trao trả tù binh. Cha đi rồi thì con và hai cháu sẽ an toàn trở lại.
Tuyết chụp mền đắp lại lên mình cha rồi bỗng cứng người vì đột nhiên có tiếng nói ở trên bờ. Hai cha con nghe giọng như chim hót của Trinh đang trả lời các câu hỏi của ai đó đang cật vấn với âm thanh léo nhéo trong cổ họng của người Miền Bắc. Qua câu đối đáp của Trinh, thấy rõ là con bé đang run lẩy bẩy.
- Có người nào nữa ở dưới thuyền không đấy?
- Mẹ cháu, em cháu, cháu và...
Trinh bỗng dưng ngưng bặt. Hai cha con nghe con bé bật khóc. Joseph ghé mắt vào một kẻ nứt nơi bức liếp bằng cót tre mỏng mảnh, thấy ba cán binh chính qui Bắc Việt. Cả ba đều mặc quần áo bộ đội bằng vải ka-ki nội hóa, chân đi dép râu, đầu đội mũ tai bèo, ba lô trên lưng không cắm lá cây. Người cán binh duy nhất mặc quần dài màu xanh lá cây, có vẻ cấp bậc cao hơn hai người mặc quần cụt màu đen, hung hãn bóp chặt cườm tay của Trinh làm nó sợ hãi rúm người lại:
- Ai nữa? Nào, nói nhanh nào!
Joseph cảm thấy con đò chao mạnh. Kế đó, thấy Tuyết trườn lên bờ sông, chạy tới bên con gái. Nàng cầm trên tay một tờ giấy, chìa ra trước mặt người bộ đội:
- Tôi là Tuyết Lương. Tôi là cán bộ chính trị công tác với Lực lượng Võ trang Giải phóng Nhân dân. Con đò này của tôi. Đây là giấy miễn khám xét nó, do chính tay tư lệnh của chúng tôi ký.
Người lính Bắc Việt nhìn Tuyết chầm chậm từ trên xuống dưới, mắt gườm gườm. Rồi quay sang đồng đội, anh ta khịt khịt mũi chế nhạo:
- Chúng ta không thể lúc nào cũng cực kỳ tín nhiệm vào trí óc lô-gic của các chị em ta trong nam, có đúng thế không các đồng chí?
Joseph thấy người lính đó lại nhìn Tuyết từ dưới lên trên. Lần này mắt hắn mở lớn, chằm chặp ngắm nghía rồi lấp lánh vẻ dâm đãng:
- Các đồng chí ạ, tôi nghĩ là để đảm bảo, dù sao ta cũng phải kiểm tra triệt để chiếc thuyền này. Các đồng chí có đồng ý không đấy?
Hắn buông cườm tay Trinh, chụp cánh tay Tuyết và bước về phía đuôi thuyền. Tuyết xoay người lại, ưởn ngực, buộc gã bộ đội phải đứng lại:
- Chờ chút! Con trai tôi đang ngủ. Nó bị lên sởi rất nặng, đang sốt đỏ cả người. Đừng làm nó thức dậy.
Nhìn quá bức liếp, Joseph thấy mặt tên cán binh ấy bừng giận. Kế đó, Tuyết rán rặn ra trên môi một nụ cười giả tạo rồi đặt bàn tay lên cánh tay hắn. Nàng hất đầu về chiếc đò đang đậu kế bên, cũng không một bóng người như tất cả những con đò khác đang cắm neo dưới bờ vì dân chúng trong đò đã bỏ trốn lên bờ. Tuyết nói với giọng dẫn dụ:
- Có lẽ anh nên khám xét chiếc đò đậu kế bên đó. Em sẽ tiếp anh một tay nếu anh thích triệt để — vậy anh để em cho con gái của em xuống đò đi ngủ nhé!
Nàng vẫy tay cho Trinh bước lẹ xuống chiếc đò của ba mẹ con. Xong, nàng mỉm cười kéo gã bộ đội bước xuống con đò kế bên.
Joseph nghe tiếng chân bé Trinh chạy vội vào khoang đò rồi ngồi xuống kế bên cậu em đang ngủ. Qua bức liếp, anh thấy hai cán binh Bắc Việt kia đi lui đi tới, cười rúc rích. Thỉnh thoảng cả hai đưa mắt nhìn xuống con đò bên cạnh rồi liếc nhau như lé, có vẻ sốt ruột chờ tới lượt mình. Anh đưa tay lên dụi mắt rồi nằm xuống kéo mền lên đắp ngang ngực, mắt nhìn trân trân mui đò.
Tiếng súng giao tranh lại tắt ngúm, lẹ làng không kém lúc mới cất lên. Mặt sông yên tĩnh trở lại. Joseph cố hết sức bịt hai tai nhưng anh không thể xua đi những âm thanh thoát ra từ con đò kế cận. Trong nhịp đò nhún và kêu nhóp nhép trên mặt nước, anh nghe có tiếng gã bộ đội Bắc Việt cằn nhằn, thở hồng hộc. Và đôi ba lần, anh tưởng chừng mình nghe ra tiếng Tuyết bật khóc.
Hơn một giờ sau, khi Tuyết đơn độc trở về con đò của mình, Joseph nghe con gái thầm lặng khóc tấm tức trên chiếc chiếu cói ở ngăn trước một hồi lâu, trước khi anh tê dại thiếp vào giấc ngủ.