Khi đêm mồng 9 tháng Hai năm 1930 không trăng và đầy mây chầm chậm phủ lên đồn binh trên đồi Yên Bái và chỗ khúc quanh của sông Hồng nơi đồn binh ấy án ngữ, Thanh Giang kéo đoàn dân quân của anh gồm sáu mươi nghĩa quân trang bị vũ khí thô sơ, đi vào vùng cây cối tối đen mịt mùng bên bờ hồ, phía dưới đồn binh. Trong bóng đêm, anh thầm thì với các nghĩa quân đang đứng vây quanh, giọng đều đều và điềm đạm:
- Bọn quan Tây chắc chắn phải há hốc mồm miệng, chết tươi trên giường ngủ. Đây là lệnh của đảng! Các đồng chí phải giữ thật im lặng, đi chân đất tấn công khắp trại binh. Ban đầu chỉ dùng gươm và mác. Không để sót một khu vực nào. Tất cả nắm vững chưa?
Dù đêm đen đặc không nhìn rõ mặt người Thanh Giang vẫn có thể cảm thấy tâm trạng sợ hãi của các nghĩa quân khi họ gật đầu đáp ứng câu hỏi của anh cùng với lời họ nói giữa hai hàm răng cắn chặt rằng họ sẵn sàng tiến hành công tác. Trên ngực và trong cổ họng người thủ lãnh, các bắp thịt bỗng co giật khác thường, khiến càng gần tới giờ tấn công, anh càng có cảm giác khó thở.
Nhận thấy có vài ba chiếc đầu hình như lưỡng lự khi ngoảnh về vòng tường thành lờ mờ bọc quanh đồn binh trên đỉnh đồi, Thanh Giang cố dằn mình, trấn an họ bằng giọng nói tự chủ, trầm tĩnh và rất quả quyết:
- Các đồng chí chớ sợ khi thấy những bức tường đó cao. Bên trong vòng tường, đang có sẵn hai người cai chờ hiệu lệnh của tôi để mở toang cổng cho ta vào. Trong đồn binh trên đỉnh đồi chỉ đóng hai đại đội lính khố đỏ — các anh em ấy cũng đang chờ sẵn để đón chúng ta vào và quay mũi súng nhắm vào bọn quan Tây chỉ huy họ.
Ngừng một chút Thanh Giang đưa tay chỉ về phía có toà nhà dài hai tầng ở chân đồi:
- Hai đại đội lính khố đỏ khác nữa — gồm năm trăm anh em của chúng ta — đang đóng trong trại binh dưới đồi với mấy thằng đội xếp Tây. Tại đó, các anh em cũng đã đồng ý mở toang cổng cho ta vào. Các đồng chí ạ, trong kho vũ khí của trại binh có nhiều súng máy và súng trường đang chờ chúng ta tới làm chủ. Lấy xong súng đạn, ta sẽ dẫn hai đại đội anh em binh sĩ tấn công ào ạt lên đồn binh trên đồi!
Lối nói tự tin của Thanh Giang đạt kết quả mong muốn. Một số nghĩa quân cảm thấy nhẹ nhỏm, khúc khích cười. Anh đưa mắt tìm trong số những bộ mặt gần mình nhất và hỏi:
- Nhưng mọi sự tùy thuộc đợt xung kích đầu tiên do đồng chí Sơn Thủy chỉ huy đánh thẳng vào khu cư xá của sĩ quan trong trại binh. Đồng chí Sơn Thủy và các anh hùng Vị An đâu nhỉ?
Đang im lặng đứng một bên với hai con trai, Ngô văn Lộc bước lên nửa bước, tới sát bên bí thư chi bộ, mặt hằn nét quả quyết. Anh đeo bên hông hai quả lựu đạn tự chế sần sùi, vỏ làm bằng xi-măng, trong hai túi vải tự mình may. Bàn tay phải của Lộc nắm chặt cán thanh gươm sắc cạnh được rèn bí mật trong một binh xưởng tạm thời ở thôn quê. Những vũ khí này đã được lén lút gánh lên Yên Bái bằng cách vùi trong các thúng đựng muối hoặc lúa gạo.
- Đồng chí Sơn Thủy không việc gì phải tỏ vẻ lo lắng quá như thế.
Nói xong câu trấn an, Thanh Giang xoay người chỉ cho Ngô văn Lộc thấy cụm nhà một tầng, tường trát vữa, nằm san sát trong trại binh nơi chân đồi:
- Kia kìa, đồng chí có thấy mấy bức tường bao quanh khu vực cư xá của bọn quan Tây chỉ thấp ngang vai người! Còn không có cả lính gác. Ở vùng heo hút hẻo lánh này bọn Tây rất chểnh mảng. Từ lúc xây xong đồn binh trên đỉnh đồi và trại binh dưới chân đồi này tới nay đã bốn chục năm, chưa hề xảy ra sự cố quân sự nào tại đây.
Ngô văn Lộc im lặng gật đầu đáp lại. Bên cạnh anh, Học, cậu con thứ, đang hồn nhiên nhoẻn miệng cười. Cậu vẫn mang theo ngọn mác đã dùng ở Vị An. Thanh Giang công nhận hành động dũng cảm của Học ở đồn điền nên chọn cậu làm người cầm đảng kỳ khởi nghĩa. Đó là một cây sào, đầu mũi đẻo gọt như một cây trường thương nhưng dài gấp đôi bình thường. Lúc này thay vì quấn một ngù lông dưới mũi thương, nó được trang trí bằng các dải lụa xẻ hai đầu như đuôi cá, nhuộm màu vàng và màu đỏ của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cũng như các nghĩa quân khác, Học quấn quanh trán một dải lụa đỏ và đeo trên tay áo một băng vải đỏ viết hàng chữ màu sắc đỏ thắm: “
Lực Lượng Cách Mạng Việt Nam”.
Bí thư chi bộ Thanh Giang cũng tự mình mang theo một đảng kỳ lớn màu đỏ và màu vàng nhưng cuộn lại. Màu vàng tượng trưng cho dân tộc và màu đỏ tượng trưng cho quật khởi. Để kích động đồng đội, anh đưa cuộn cờ lên cao quá đầu và nói:
- Lấy xong đồn binh, chúng ta sẽ cắm ngọn cờ đảng này bay phất phới trên đồn, rồi tràn xuống, chiếm lĩnh hết thảy các doanh trại, đồn bót trong tỉnh lỵ Yên Bái. Chỉ có đàn bà, trẻ con và cố đạo được tha mạng. Đêm nay, trên toàn cõi Bắc kỳ này, các đoàn nghĩa quân khác cũng đang hỗ trợ những anh em mặc binh phục của bọn Tây đứng lên làm cách mạng, chiếm các cứ điểm quân sự của bọn Tây. Các đồng chí, cuộc khởi nghĩa của ta sẽ lan rộng khắp nơi. Tại Yên Bái này, các đồng chí là những người tung cú đấm chủ lực để cùng với cả chục địa điểm khác khắp Bắc kỳ đêm nay khởi động cho cả nước đứng lên làm cách mạng giải phóng tổ quốc.
Bằng cử chỉ cực kỳ kiên quyết, thêm lần nữa Thanh Giang đưa cuộn cờ lên quá đầu. Khắp chung quanh anh, các nghĩa quân vung gươm lên cao phụ họa. Anh ra lệnh:
- Khi kim đồng hồ chỉ đúng con số mười hai, chúng ta tấn công. Trong thời gian chờ đợi, các đồng chí tản vào chỗ ẩn núp. Cứ nghỉ ngơi dưỡng sức —- và sẵn sàng hành động cao cả vì độc lập của tổ quốc và tự do của dân tộc Việt Nam!
Trong lúc nơi chân đồi nghĩa quân tản vào đám cây cối ven hồ, ngay trên đỉnh đồi, trung úy Jacques Devraux, sĩ quan trực, nhanh nhẹn rảo bước qua sân đồn binh, kết thúc vòng tuần tra thường lệ. So với lúc còn phụ việc hướng dẫn săn bắn cho cha, hai vai Paul giờ đây vạm vỡ hơn. Dáng điệu kiêu hãnh, búp nịt và ủng da bóng loáng cùng chiếc mũ cối màu trắng không chút tì vết. Lúc này mọi thứ trên người anh đều phản ánh sự huấn luyện vô song của trường võ bị St. Cyr, được anh mang theo mình ra vùng đồi núi Bắc kỳ. Cũng so với cha, vẻ mặt anh hồn nhiên, tươi tắn và đẹp trai hơn.
Suốt ba năm ở học viện quân sự Paul nổi bật là một sinh viên sĩ quan có tương lai sáng lạn. Nhưng đêm nay, khi rảo bước về phía phòng trực, không hiểu sao trán anh lại u ám vẻ cau có bồn chồn. Để khuây khỏa, anh tự ý làm một vòng xem xét đồn binh trên đỉnh đồi cùng trại binh dưới chân đồi. Trong khi tuần tra, nhiều lần anh cố dằn cơn lo ngại nhưng lòng vẫn cảm thấy không yên.
Suốt ba tháng vừa qua, Paul nhận thấy trong khí hậu nóng bức và dễ suy kiệt tại nơi đồn trú thuộc tỉnh lỵ heo hút này, thật không dễ dàng phấn đấu giữ đúng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt của St. Cyr. Anh cũng nhận thấy dường như các sĩ quan thâm niên và các hạ sĩ quan của binh đoàn đang ngày càng quá quen thuộc với tình trạng chểnh mảng trách vụ nhà binh của họ. Nhưng vì là sĩ quan ít thâm niên nhất Paul quyết định không phát biểu và chỉ tự mình để ý hơn tới kỷ luật tự giác. Trong đơn vị, có một số sĩ quan công khai trêu chọc anh về nhiệt tình tuổi trẻ ấy, nhưng đêm nay, anh chắc chắn những nghi ngại lúc này của mình không đơn giản chỉ vì mình quá tích cực.
Tại phòng trực, Paul gặng hỏi viên trung sĩ Pháp tóc ngã muối tiêu rằng hắn nhận thấy có điều gì bất thường không nhưng hắn chỉ lúc lắc đầu, vừa ngáp vừa đưa anh chùm chìa khoá. Đầu con đường dẫn xuống khu cư xá của sĩ quan, anh tần ngần đứng lại nơi cổng đồn binh mở toang hoác. Phía tỉnh lỵ bên dưới, đây đó còn le lói vài ánh đèn. Dọc những đường phố nhỏ và tối tăm của tỉnh lỵ, đèn đường đã tắt như thường lệ. Mọi sự có vẻ bình thường nhưng trong lòng Paul vẫn dằng dặc cảm giác có điều gì đó bất thường.
Cứ điểm quân sự này là một trong ba cứ điểm được lập theo hình vòng cung dăng ngang vùng thượng du núi rừng rậm rạp mạn bắc Bắc kỳ, làm thành tuyến phòng ngự thứ nhất bảo vệ thành phố Hà Nội, chống lại sự xâm phạm từ Trung Hoa băng ngang biên giới.
Qua những nghiên cứu của mình khi còn thụ huấn ở St. Cyr, Paul biết rằng cứ điểm Yên Bái được Thống chế Joffre xây dựng vào ba mươi năm trước thời điểm ông đưa các lực lượng Pháp tới chiến thắng lừng lẫy trong Trận Marne năm 1914. Thuở đó, Joffre là một đại úy công binh năng động. Và lúc này, đột nhiên viên trung úy trẻ Paul Devraux thấy mình đang tự hỏi nếu vị thống chế ấy chỉ nổi tiếng nhờ công trạng duy nhất là xây dựng cứ điểm Yên Bái với một đồ hình kiểu như thế này, theo đó đồn binh lập riêng một chỗ, tách biệt quá xa trại binh, hẳn ông ta khó có thể trở thành vị anh hùng của nước Pháp. Đứng từ cổng đồn binh nhìn xuống chân đồi, Paul thấy cả trại binh lẫn khu cư xá của sĩ quan đều trơ vơ, không có gì phòng ngự. Anh bắt đầu nhận ra nếu xảy tới một cuộc đột kích, binh đoàn hầu như lâm vào tình huống cực kỳ sơ hở, không có khả năng liên hoàn tiếp ứng nhau.
Một bàn tay thân mật vỗ vai Paul. Quay lại, anh thấy xuất hiện trước mắt mình bộ mặt cười tươi rói của trung úy Francois Clichy, một sĩ quan trẻ trong Đại đội Tám. Clichy người Breton, mới lập gia đình, và vợ vừa từ Pháp sang chung sống với chồng.
- Paul này, có phải cậu vẫn băn khoăn làm sao có thể biến bọn lính khố đỏ nặng mùi nơi Yên Bái này thành lính thị vệ lộng lẫy, tương xứng với nhiệm vụ nghi lễ ở Điện Élysée?
Paul cố rặn ra trên môi một nụ cười đáp trả và anh nghiêm trang trở lại:
- Không, không đúng. Nhưng Francois này, anh không nhận thấy tối nay, trong cách cư xử của bọn lính có cái gì đó không bình thường sao?
Viên sĩ quan có vợ ấy bông đùa hỏi lại:
- Không bình thường ư? Bộ không phải bọn lính khố đỏ nặng mùi của chúng ta lúc nào cũng cư xử quái đản sao? Chúng tôi biết cậu nghĩ rằng chúng nó cũng là người, nhưng Paul ạ, cậu phải thừa nhận rằng đó chỉ là quan điểm của một thiểu số. Không ai có thể giữ cho bộ óc của mình khỏi bị méo mó nếu phải sống cả chục năm ở Sài Gòn và nói thứ ngôn ngữ của bọn chúng như cậu.
Paul quả quyết:
- Tôi không đùa đâu. Tôi có cảm giác tối nay đang diễn ra điều gì đó trục trặc.
- Đương nhiên là có: một ngàn cuộc đánh bạc vi phạm quân kỷ.
- Francois ạ, vấn đề chính là ở chỗ đó. Tối nay bọn chúng không đứa nào đánh bạc. Anh đã biết chúng thường xuống tỉnh lỵ sách nhiễu mấy chủ quán rượu địa phương như thế nào... Đúng, tối nay hầu như bọn chúng không đứa nào rời ba-rắc. Hết thảy lính của Đại đội Bảy và Đại đội Tám đều có mặt trong đồn binh. Chúng ngồi im thinh thít trên chiếu hay trên sạp. Khi tôi kiểm tra đột xuất, chúng nhìn tôi với vẻ mặt rất lạnh lùng, không cười lấy lòng như mọi lần. Vài người nằm ngủ hoặc giả vờ ngủ. Tôi xuống dưới trại binh thấy tình hình của Đại đội Năm và Đại đội Sáu cũng y hệt như vậy. Một số ngồi tụm năm tụm ba thì thầm nói chuyện nhưng hầu hết bọn chúng đều làm như đang ngủ — sớm hơn thường lệ hai giờ.
Trung úy Clichy nhún vai:
- Đối với tôi, nghe chẳng có vẻ gì bất thường. Cậu đã báo cáo những cái cậu nghi ngờ đó với ông già chưa?
Paul gật đầu than thở:
- Rồi, nhưng ông ấy nổi cáu, lại nhạo rằng tôi đem cái linh tính thợ săn ra đánh hơi tụi lính thổ dân khố đỏ. Cũng như anh, ông bảo tôi rằng tôi có nhiều điều phải học về tụi bản xứ hèn kém. Ông nói ông sắp đi ngủ sớm và yêu cầu tôi nên làm y như thế.
Cười lớn, gã thanh niên Breton vỗ vai Paul lần nữa:
- Lời khuyên đó cũng tốt đẹp cho luôn cả tôi nữa, trung úy Devraux ạ. Tại sao cậu không làm theo? Tôi nghĩ mình cũng sắp làm y như thế. Thật chẳng tốt chút nào khi để Monique một mình vì cô ấy vượt vạn dặm từ Paris qua đây cốt để sưỡi ấm mùng mền cho tôi, phải không?
Paul mỉm cười chúc Clichy ngủ ngon trong khi hắn vội vã đi như chạy xuống sườn đồi. Trong một lúc, anh đứng nhìn bóng tối bao phủ vùng đồi chung quanh. Những đám mây tụ lại trên bầu trời đang dần dần che khuất ánh le lói của các vì sao. Sau khi ra lệnh cho viên trung sĩ đóng cổng và gài lại, anh đi xuống sườn đồi.
Tay đặt sẵn trên nắp bao súng lục, Paul bước chầm chậm qua những con đường vắng vẻ của tỉnh lỵ Yên Bái. Rồi thấy không có gì đáng nghi, anh rảo bước quay về khu cư xá sĩ quan.
Paul ngồi bồn chồn trên giường suốt nửa giờ, lau chùi và nạp đạn khẩu súng lục. Sau đó anh đứng lên, ấn chốt ở chân cánh cửa phòng xuống, kéo tủ quần áo tới chận cửa. Anh nhét thanh gươm để yên trong vỏ xuống dưới gối và để nguyên quân phục nằm lên giường, buông mình vào giấc ngủ chập chờn.
Tới nửa đêm, bóng tối phía dưới trong vùng cây cối bên hồ đen như mực. Khi các nghĩa quân Quốc Dân Đảng rời chỗ núp và tập họp, Thanh Giang phải bấm ngọn đèn pin leo lét lên để kiểm tra lần nữa kim đồng hồ đeo tay. Đúng mười hai giờ. Thanh Giang liếc thật lẹ xuyên qua các hàng cây bên hồ. Đồn binh trên đồi và trại binh dưới đồi nằm im lìm đen đủi, không cửa sổ nào còn ánh đèn. Trong bóng đêm anh âm trầm rít lên, giọng siết lại, cực kỳ khẩn trương:
-
Giết! Giết! Tiến lên giết sạch giặc Tây!Ngô văn Lộc đứng bên Thanh Giang chờ sẵn. Khi nghe bí thư chi bộ phát lệnh, Lộc vỗ mạnh vai con trai thứ. Học nghe thấy tiếng trái tim đập thình thịch trong lồng ngực, thúc cậu xông tới trước, hoa đảng kỳ, phất các dải lụa vàng và đỏ tung thật cao lên trời. Lập tức, đoàn người sáu mươi nghĩa quân từ trong các lùm cây ào ra theo sau Học, tay nắm chặt gươm và mác. Im lặng, họ lẹ làng bung đôi chân trần vào bóng đêm, lao về phía các nạn nhân của mình đang say ngủ.