Gió dìu dịu sớm mai cuối tháng Sáu thổi gợn sóng lăn tăn mặt nước Hồ Hoàn Kiếm, trái tim của kinh kỳ Hà Nội ngàn năm văn vật, khi Đào văn Lật đi qua Tháp Bút, đặt chân lên cầu Thê Húc màu đỏ như son bắc sang hòn đảo nhỏ ở sát mé đông bờ hồ. Tay tì lên lan can cầu, mắt không rời những cụm sen đỏ và trắng đang lao xao mặt hồ lóng lánh xanh màu ngọc bích, anh cố làm lắng dịu cảm giác nôn nao đang mỗi lúc một dâng cao trong lòng.
Từ nửa khuya đêm qua, Lật thức giấc và triền miên nghĩ tới cuộc gặp gỡ bí mật sắp diễn ra giữa anh với một nhà cách mạng nổi tiếng nhất thời đại anh. Và cũng vì quá xúc động, anh đến sớm trước giờ hẹn mười lăm phút. Chính anh chủ động chọn địa điểm này để tiếp xúc, vẫn theo đúng nguyên tắc táo bạo anh đã áp dụng khi dùng chiếc xe kéo bánh sắt tới dự cuộc họp chi bộ Quốc Dân Đảng tại ngôi chùa đằng sau phố Đồng Nhân vào sáu tháng trước.
Lật lập luận rằng địa điểm cuối cùng hẳn Liêm Phóng không ngờ các nhà cách mạng mưu tính gặp gỡ nhau là ngay cạnh Hồ Hoàn Kiếm yên tĩnh, trong ánh sáng ban mai chan hòa. Nhưng nguyên cớ đó chỉ mới thuộc phần lý luận, nguyên cớ còn lại thuộc phần tâm thức và cảm tính: Tháp Rùa nhỏ trên cồn đâát chính giữa mặt hồ, thường chỉ bắt đầu đỏ rực như san hô khi mặt trời mọc, cả ngàn năm nay vốn là biểu tượng bền vững cho tình yêu độc lập và tự do của dân tộc Việt.
Năm thế kỷ trôi qua kể từ ngày, theo truyền thuyết dân gian, chiếc hồ này trao thanh kiếm thần diệu của nó cho một người đánh cá. Từ đó, với kiếm báu trong tay, Bình Định Vương Lê Lợi gầy dựng một đạo quân nông dân vĩ đại nhất, lật đổ nền thống trị của Minh triều Trung Hoa và dựng lên một triều đại mới, mở ra một kỷ nguyên vinh quang trong lịch sử nước non Việt.
Lật tin chắc cuộc gặp gỡ sắp diễn ra tại đây sẽ minh chứng niềm xác tín mãnh liệt của anh rằng lúc này, tháng Sáu năm 1930, thời gian đã chín muồi cho một Lê Lợi mới xuất hiện và chỉ huy đạo quân nông dân thời hiện đại chống lại những kẻ xâm lăng đến từ phương trời tây xa lạ! Anh chắc chắn rằng không thể nào chậm trễ hơn nữa và anh quyết định lao mình vào cuộc thách đố ấy.
Ai sẽ là Lê Lợi thời nay, vị anh hùng của Việt Nam hiện đại? Liệu sau hai mươi năm lưu vong rốt cuộc Nguyễn Ái Quốc có trở về để dẫn đầu nông dân — hoặc ông ta vẫn tiếp tục lẩn lút bí mật ở nước ngoài thêm hai mươi năm nữa? Nếu ông ta vẫn không trở về, lúc đó nông dân phải có một thủ lãnh mà sự hiện diện của người ấy sẽ khích động hào khí của họ. Và anh, Đào văn Lật, chính anh sẽ cầm lên thanh bảo kiếm cách mạng đứng vào vị trí của người ấy!
Đắm chìm trong dòng suy tưởng, Lật bỗng nhận ra lúc này mình thiếu sự cảnh giác tối đa như đáng lẽ phải có để giữ an toàn cho chính mình và cho người sắp tiếp xúc. Anh vội vàng đưa mắt xem xét Đại lộ Francis Garnier cặp sát bờ hồ phía đông, cố ý tìm tung tích của Liêm Phóng qua một chiếc Citroešn hay chiếc Peugeot nào đó như một dấu hiệu cho thấy mình đang bị theo dõi, nhưng anh không thấy gì cả. Anh lại quay mình nhìn ra mặt hồ.
Sáng nay Lật mặc âu phục trang trọng. Bộ vét-tông vải lanh cài chéo màu xám. Chiếc mũ nỉ mịn màng sụp xuống tận mắt. Từ bên dưới vành mũ, anh thăm dò kỹ lưỡng các con đường chạy sát ba mé hồ kia và tự hỏi Nguyễn Ái Quốc sẽ theo hướng nào đi tới. Anh từng nghe đồn về tài cải trang của ông nhưng làm thế nào ông có thể che giấu nhân dạng trong một thành phố từ bao năm nay đặt bản doanh cấp Đông Dương của Liêm Phóng, kẻ thù đang săn lùng ông khắp Việt Miên Lào và Quảng Châu Loan.
Cuộc gặp gỡ này do Đào văn Lật đề nghị và được sắp xếp qua nhiều trung gian. Nếu đúng theo lời đồn, Nguyễn Ái Quốc chưa một lần về lại xứ sở của mình kể từ chuyến đi châu Âu trên một con tàu chở khách của Pháp lúc còn là một thanh niên hai mươi tuổi thì có lẽ giờ đây ông không đủ can trường để trở lại lúc tuổi đã bốn mươi, khi nhiều tỉnh ở mạn bắc Trung kỳ và mạn nam Bắc kỳ bỗng dưng sôi sục sau các cuộc nổi dậy của quần chúng, ngoài sự chờ đợi của mọi người. Hoặc có thể Nguyễn Ái Quốc cũng đang sửng sốt vì sự xoay chuyển quá bất ngờ của các biến cố.
Đúng với sự thẩm định của Lật và anh cảm thấy xót xa cay đắng cho đại cuộc, đồng thời cảm phục những đồng chí cũ vừa anh dũng nhập hương linh vào hồn thiêng sông núi, bản thân Đào văn Lật chứng kiến trong tháng Hai và tháng Ba vừa qua rằng lời đoán trước của anh về cuộc khởi nghĩa của Quốc Dân Đảng đã thành sự thật. Sự thất bại ấy cho anh thấy rõ một thực tế rằng giờ đây đã chấm dứt thời kỳ đấu tranh bằng vũ lực vốn bắt đầu từ thuở mất lục tỉnh Nam kỳ tới nay. Thế rồi tiếp liền đó, anh sửng sốt trước tốc độ đổi thay nhanh như chớp trong điều kiện sinh sống của người dân trên khắp đất nước An Nam với tình trạng càng ngày càng xuống dốc tệ hại.
Cuộc phá sản của Wall Street dẫn tới sự rút lui nhanh chóng vốn liếng đầu tư của người Pháp trên khắp Đông Dương. Người An Nam lao động cực nhọc nơi hầm mỏ hoặc hãng xưởng bị mất việc làm hoặc bị cắt bớt tiền lương. Nhiều vụ mất mùa nối tiếp nhau trong khi lúa gạo lại bị sụt giá thê thảm cùng những vùng rộng lớn đất đai sản xuất bị bỏ hoang. Nạn đói lan tràn mau lẹ, đi kèm với nó là đình công và nổi loạn. Tại một số tỉnh, lính khố xanh và lính Lê dương được lệnh nổ súng bắn vào đám đông; rất nhiều người biểu tình bị tử thương.
Với nghị lực đồi dào và quyết tâm sau xa, Lật lao mình vào công cuộc phát triển một phong trào nông dân do chính anh tổ chức, lấy tên là Đồng Tâm Hội. Anh đã vượt quá bên kia tính địa phương và vượt lên trên vóc người nhỏ bé của mình để nhanh chóng nhảy vọt, trở thành một thủ lãnh cách mạng nhiều kinh nghiệm. Lời đồn đãi về hành động tự thiến dữ dằn của anh cũng lan truyền rất nhanh đưa tới hệ quả có nhiều thành viên của phong trào cực kỳ kính ngưỡng anh.
Sáng nay Lật đã nhìn vào đồng hồ của mình tới lần thứ hai mươi. Chỉ vài phút ngắn ngủi nữa là tới tám giờ, giờ hẹn gặp gỡ. Thêm lần nữa anh nhìn quanh hồ, không thấy có chút dấu hiệu nào của nhà cách mạng kỳ bí anh đang nôn nao chờ.
Ánh mặt trời bắt đầu ran rát trên lưng Lật nhưng vì hôm nay Chủ Nhật nên đường phố Hà Nội vẫn vắng lặng. Ngoại trừ một cu-li lưng còng đang kéo xe, chân bước cao bước thấp khổ nhọc đi dọc con đường sát bờ hồ cách chỗ Lật đứng khoảng hai trăm thước và đang tới gần chiếc cầu đỏ như son lúc này vẫn chỉ có một mình anh.
Chống khuỷu tay lên lan can cầu, nhìn mặt nước lốm đốm vệt nắng, Lật thả ý nghĩ trở lại với Kim Qui, vị thần rùa vàng hộ quốc thiu thiu ngủ mà truyền thuyết lịch sử cho rằng đã và đang dùng hồ này làm chiếc hang huyền thoại của nó.
Lật lim dim mắt tưởng tượng hình dáng Lê Lợi trong bộ quần áo màu lam khói núi khi ông tung lướí xuống nước rồi kéo lên và sửng sốt thấy mình chài được một thanh kiếm lấp lánh, trong đó vị thần của nó đã chuyển hóa thành chính nó. Và Lật thấy khắp trên mặt hồ lúc này chỗ nào cũng lập lòe ánh lửa. Có tới hàng ngàn người “nhà quê” từ chốn đồng ruộng đứng lên, lũ lượt đi theo kiếm báu, đi theo người đeo nó, đi suốt mười năm nằm gai nếm mật chiến đấu cho độc lập dân tộc chống lại Trung Hoa.
Những vần thơ của một thi sĩ được Lật nhớ mãi, từ ngày còn bé, lúc này hiện lên trong tâm trí anh như minh họa cho hùng vĩ thêm hình ảnh đoàn dân quân và vị thủ lãnh của nó. Anh nhẹ nhàng ngâm lên thành tiếng lời thơ ấy:
“Lũ ngoại xâm sẽ kinh hồn tháo chạy
Khi người dân nô lệ tuốt gươm thiêng
Của hồ này, trong cừu hận đứng lên
Cả dân tộc vì tự do: chiến đấu!”
Lật ngẫm nghĩ, nơi về sau đắp thành chân đài rêu phong của ngọn Tháp Bút hiện nay, biểu tượng cho niềm khao khát hoàn thành sứ mệnh muôn thuở viết lên trời xanh của sĩ phu Bắc Hà, hẳn ngày xưa là chỗ người đánh cá ấy, kẻ mười năm sau, khi lên ngôi hoàng đế đặt bàn thờ để cáo yết và lễ tạ vị thần hồ. Chính vào giờ khắc đó kiếm báu được rút khỏi vỏ, loáng lên thành một ánh chớp, tự tái tạo chính nó để quay về với vị thần rùa vàng vĩ đại đang há miệng quẩy mình tung sóng nước hồ thiêng, trước mặt đám đông dân chúng kinh hoàng, rồi lao xuống và biến mất trong những chốn sâu thẳm và xanh thẩm của hồ này. Đồng thời, truyền thuyết kể, ngay lúc ấy giữa hồ hiện lên một cồn đất nhỏ trên đó về sau được dựng lên chiếc tháp để đánh dấu điểm đó. Tháp Rùa và Hồ Gươm.
Ngay lúc Lật quay mình nhìn về chiếc tháp, có tiếng nói qua vai anh, nằng nặng giọng Trung kỳ xứ Nghệ của anh :
”Như nước Việt ta từ trước
Vốn xưng văn hiến đã lâu
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác...”
Nhận ra đó là những lời được hoàng đế Lê Thái Tổ tuyên đọc trong chiến thắng đại cáo của dân tộc bên hồ này, Lật chầm chậm quay người lại.
Anh giật nảy mình khi bỗng thấy đang đối mặt với người cu-li xe kéo lưng còng, hai tay vẫn nắm hai càng xe sau lưng. Nhưng thay vì trên nhân dạng của người cu-li ấy xuất hiện một bộ mặt nhăn nheo luống tuổi như Lật đã tưởng, anh lại thấy phía dưới đài trán cao và yên tĩnh ấy, một cặp mắt sâu hoắm đang long lanh mãnh liệt nhìn anh. Mớ tóc đen bù xù vuốt ngược ra sau để lộ một khuôn mặt dài, đỉnh ngộ, trái ngược với ấn tượng sai lầm về sự già nua toát ra từ dáng đi lọm khọm và cơ thể gầy gò dẹp lép. Người An Nam này chỉ cao hơn thước sáu một chút, râu cạo nhẵn thín. Trong khi chờ phần đáp của Lật, đôi mắt ông lắng xuống thành một nụ cười yếu ớt và khiêm tốn, hợp thể với lối hóa trang cu-li xe kéo của ông.
“...Tuy cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có!”
Lật nhẹ giọng đáp lại, hoàn tất những câu trích dẫn được chọn ráp thành mật khẩu cho cả hai người.
Trong một chốc người đứng giữa hai càng xe ấy không nói gì, chỉ liếc nhìn bốn phía chung quanh ông với vẻ ngẫu nhiên và thành thạo của một người đã quen với việc bị theo dõi. Lật nói thấp giọng:
- Thật khó tin được rằng cuối cùng tôi đang đối diện với Nguyễn Ái Quốc nổi tiếng. Có thật ông là Nguyễn Ái Quốc?
Người An Nam đáp lại, tròng mắt lấp lánh:
- Làm sao một cu-li xe kéo hèn mọn có thể đáp lại câu hỏi đó? Chỉ bản thân Nguyễn Ái Quốc mới có khả năng đưa ra câu trả lời thích đáng.
Lật nhìn ông, nửa tin nửa ngờ. Anh lại hỏi, giọng bỗng thách thức:
- Nếu bản thân Nguyễn Ái Quốc thật sự có mặt ở đây, ông ấy sẽ khuyên những người yêu nước nhất của dân tộc chúng ta phải làm gì lúc này?
Người An Nam mò mẩm trong túi quần cụt bạc màu, lấy thuốc sợi và giấy ra, vấn cho mình một điếu. Như thể đáp lại sự căng thẳng thấy rõ trong lòng kẻ đang đối mặt, ông cố tình cử động thật khoan thai và rất chậm rãi. Ông giữ vị trí đứng bên dưới những cành liễu đang vươn ra mặt hồ và đưa lưng về phía mặt trời đang mọc. Trong bóng râm ấy Lật khó thấy rõ vẻ mặt quyền biến của ông. Rồi ông nói:
- Anh gặt hái được nhiều tiếng tăm cho tên tuổi của mình vì hành động tự hiến can trường của anh. Anh đã chứng tỏ một quyết tâm đeo đuổi tới cùng.
Dù lời nói ấy có vẻ ca ngợi, Lật vẫn nhận ra trong lối phát biểu vô cảm đó tiềm ẩn một giọng điệu rõ ràng không tán thưởng. Anh không trả lời.
- Nhưng quyết tâm tự chính nó không đủ — nó lúc nào cũng phải được điều tiết bởi một trí phán đoán tốt. Bộ các lãnh tụ Quốc Dân Đảng không có quyết tâm phát động, bắt đầu từ Yên Bái, một cuộc tổng tấn công hầu đưa tới tổng khởi nghĩa trên cả nước sao?
Lật lạnh lùng trả lời:
- Trí phán đoán của tôi tốt. Tôi đã từ chối không tham gia việc đó. Tôi đã cảnh báo họ rằng dân chúng chưa sẵn sàng.
Đôi mắt sẫm màu ấy lấp lánh dưới bóng lá. Ông chầm chậm gật đầu:
- Ít ra như thế cũng là khôn ngoan. Vậy anh cho rằng lúc này nhân dân sẵn sàng rồi sao?
- Vâng. Từ sáu tháng nay tôi sinh hoạt với nông dân. Hàng ngàn người nườm nượp tham gia Đồng Tâm Hội của tôi.
Một nụ cười có vẻ châm biếm nhếch lên bên khoé miệng của người lớn tuổi hơn ấy:
- Đối với các thành viên, họ chỉ hiểu đó là Hội Đào văn Lật thôi, đúng không? Còn nữa, tôi thấy những lời thề và những nghi lễ trong các hội kín của chúng ta có tính cách kích động các cậu bé. Nó giống chuyện Vườn Đào Kết Nghĩa trong Tam Quốc Chí ở ngoài đời. Tôi nghe nói những người đi theo anh còn đặt hình lãnh tụ của họ lên bàn thờ và quì sấp mình trước tấm ảnh đó giống như thành viên các hội kín xa xưa, có đúng như thế không?
Lật trả lời cáu kỉnh:
- Tôi cấm họ làm chuyện đó, nhưng các nông dân xứ ta làm theo cái họ nghĩ là phù hợp nhất với những truyền thống thời quá khứ bị hiểu theo cách của họ.
- Nhưng họ có thật sự biết rõ đường hướng, lộ đồ và sách lược của anh không? Họ có ý kiến gì và họ có biết anh đang dẫn họ đi tới đâu không?
Lật trả lời sôi nổi:
- Tới chủ quyền, tới độc lập tự do!
- Họ không thể ăn chủ quyền hoặc uống độc lập — cũng không thể trồng lúa trên chủ quyền và độc lập. Họ cần một lời hứa về đất đai, một cái gì đó mà họ cảm giác được và sờ mó được — bằng không khi hết đói họ cũng hết quan tâm.
Lật phản đối, đỏ bừng mặt giận dữ:
- Họ có lòng tin không lay chuyển vào sự lãnh đạo của tôi.
Người đứng giữa hai càng xe nhẫn nhịn thở ra, mồi điếu thuốc thô tháp vừa vấn. Trong một chốc ông vừa rít mạnh hơi khói vào phổi vừa nhìn trống không qua phía bên kia hồ:
- Vâng, lề xưa thói cũ vốn bảo thủ tới cùng. Nhưng chúng ta phải chiến đấu chống sự áp bức hiện đại bằng lối suy nghĩ và những phương tiện đề kháng hiện đại. Các hội kín và các nghi thức cổ truyền ít có tác dụng đối với các khẩu súng máy và những quả bom từ trên trời thả xuống.
- Thế thì cái gì là tốt hơn?
- Trong khoảng thời gian Yên Bái thất bại, tôi có tổ chức một cuộc họp giữa đại biểu ba phe phái cộng sản từ trong nước qua — trên những tầng cấp đông đúc khán giả của một sân vận động bóng đá ở Hồng Kông!
Ngừng nói một chút, ông vừa nhớ lại vừa mỉm cười hóm hỉnh:
- Nhờ tiếng hò hét vang dội của đám đông chung quanh cuộc họp át đi những khác biệt của ba phe phái mà chúng tôi thành công và lập được một Đảng Cộng Sản Việt Nam thống nhất.
Lật chen vào với giọng châm biếm:
- Và lúc này, tôi giả dụ tất cả những vấn đề của chúng ta đã giải quyết xong. Thế thì, vị thần linh đầy phù phép nào đang độ trì cho cái đảng sinh ra trong một trận đá bóng ở Hồng Kông đó?
Gió ban mai lay nhẹ các cành liễu la đà chao bóng trên vai người lớn tuổi khi ông điềm đạm chúi người về phía Lật:
- Chúng tôi đã nhất trí cùng hoạt động để lật đổ nền đô hộ của thực dân Pháp và lập nên một chính quyền của nông dân, công nhân và binh sĩ. Nhưng điều quan trọng hơn hết là, cái đảng mới của chúng tôi theo chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin này được sự ủng hộ của vô sản quốc tế — của tất cả các dân tộc bị áp bức trên khắp thế giới. Dựa vào quốc tế, chúng tôi vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia, nhận được sự hậu thuẩn mọi mặt, sự huấn luyện chuyên nghiệp về đấu tranh cả chính trị lẫn quân sự, có tổ chức và có sách lược. Chúng tôi hơn hẳn các “hội kín” dùng dằng và rời rạc của những thành phần tiểu tư sản theo chủ nghĩa dân tộc. Đảng này và các mục tiêu của nó sẽ tiếp tục sống dù cá nhân các lãnh tụ có chết. Nếu anh bị giết hoặc bị bỏ tù, cái gì xảy tới cho hội kín của anh?
Lật mãnh liệt đáp trả:
- Kẻ nào có ý chí sắt thép thì không dễ gì bị hủy diệt!
Người tự xưng là Nguyễn Ái Quốc ấy chậm rãi hút tiếp điếu thuốc rồi bỗng nhiên mặt ông sáng bừng vẻ chói lọi như trẻ thơ. Ông nói nhẹ nhàng:
- Một người “kach mệnh” chân chính không thể là một người sắt thép. Cây roi sắt có thể bị người ta đánh gãy bằng chỉ một cú thôi. Người làm cách mạng nên giống như cây tre của chúng ta: uốn mình trước gió rồi bật thẳng lên. Việt Nam cần những nhà cách mạng uyển chuyển và quyền biến, những nhà cách mạng không cố tự cô lập mình với cuộc đời, nghĩa là những nhà cách mạng bén nhạy với chiều gió của các biến cố và nhu cầu của nhân dân. Phương tiện nào cũng tốt miễn sao đạt tới cứu cánh.
Nhức buốt vì lời lẽ hàm ý quở trách ấy Lật bừng giận nhìn trừng trừng người đứng trước mặt mình:
- Lúc này, nhu cầu lớn lao nhất của dân chúng là một thủ lãnh dũng cảm bước đi tiên phong và công khai dẫn đầu họ — chứ không phải là một kẻ cứ tiếp tục lẩn tránh ở nước ngoài!
Anh ngừng một chút, ngực phập phồng lên xuống dồn dập theo nhịp khích động của mình, rồi tiếp:
- Các tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đang sôi sục nổi dậy. Ông có dự tính tới đó lãnh đạo nông dân không?
Trước khi trả lời, người lớn tuổi hơn ấy thêm lần nữa trầm tĩnh xem xét tất cả các ngả đường dẫn tới chiếc cầu:
- Tôi là người làm “kach mệnh” chuyên nghiệp. Quốc tế Đệ tam bảo đảm rằng mọi đảng của nó trên thế giới đều càng ngày càng vững mạnh nhờ sự ủng hộ của quốc tế vô sản. Tôi luôn luôn tuân theo những mệnh lệnh nghiêm nhặt. Lộ trình của tôi đã được ấn định kỹ lưỡng.
Lật không thể giấu vẻ chiến thắng trong giọng nói của mình:
- Vậy ông không đủ niềm tin vào cuộc cách mạng dân tộc của quần chúng để lưu lại trên đất nước này thêm một thời gian nữa sao?
- Chúng tôi làm việc kiên nhẫn cho năm năm huấn luyện các cán bộ của chúng tôi tại Học Viện Thợ Thuyền Đông Phương ở Mát-cơ-va và tại Trường Võ Bị Hoàng Phố ở Quảng Đông — đang bắt đầu cho thấy có vài kết quả nhỏ. Nhưng chúng tôi phải tiến hành thận trọng. Tổ chức của chúng tôi vẫn còn nghèo khó đủ thứ.
Ông ngừng nói, trên mặt ánh lên một nụ cười buồn bã:
- Vẫn còn nhiều nông dân cho rằng lá cờ búa liềm là cờ của một chính phủ phương tây nào đó. Như thế, con đường phải dài — và anh có lý — chúng tôi cần thêm nhiều người có năng lực để lãnh đạo phong trào của mình.
Thêm lần nữa ông cười. Mặt ông tỏa hơi ấm và hồn nhiên khiến Lật dù giận dữ cũng cảm thấy nguôi ngoai một cách kỳ lạ. Lật nói bộc trực:
- Giả dụ tôi gia nhập cái đảng mới ấy của ông thì sao? Và đi Nghệ An giúp tổ chức nông dân? Lúc này chúng ta thiếu vũ khí nhưng bọn Pháp làm gì được nếu mười lăm triệu người Việt Nam trong các hãng xưởng, trong hầm mỏ, trên các thửa ruộng đều đồng lòng không cầm tới dụng cụ sản xuất?
Anh ngừng lại một chút rồi giọng anh càng nói càng sôi nổi:
- Giả dụ những người bếp, những người bồi, những cu-li trong các thành phố hưởng ứng, tham gia các cuộc biểu tình tuần hành phản đối ôn hòa thì sao?
Người đứng giữa hai càng xe kéo cảnh giác, nhìn qua vai Lật:
- Chúng ta phải tiến hành cẩn thận. Phong trào không thể bền vững và liên tục bằng bất cứ biện pháp manh động nào. Đừng liều lĩnh không cần thiết.
Tới đây ông lẹ làng mỉm cười:
- Và nhất là chớ sắp xếp thêm cuộc gặp gỡ nào nữa giữa ban ngày ban mặt trên bờ Hồ Hoàn Kiếm.
Lật thấy đôi mắt của người ấy nhìn chăm chú Đại lộ Garnier. Quay ngoắt theo cái nhìn của ông, anh thấy chiếc Citroešn đen bóng loáng của Nha Liêm Phóng đang chầm chậm hướng mũi dọc theo đường bên hồ.
Làm như vặn lưng chống mỏi, Nguyễn Ái Quốc chầm chậm đưa cánh tay lên về hướng đền Ngọc Sơn. Lập tức một người đàn bà nhà quê lưng còng từ cửa đền khập khểnh đi ra, loay hoay với một thúng rất nặng, đầy lá sen và hoa sen mới hái. Người An Nam cởi chiếc áo sơ mi xơ xác bạc màu ra, lẹ làng quấn quanh đầu thành chiếc khăn xếp tạm thời. Ông ở trần, chầm chậm sải chân bước về phía người đàn bà.
Khi bà ta leo lên xe kéo, ông quay mình, cúi đầu thật thấp, nặng nhọc kéo chiếc xe lết bánh qua cầu. Vai khòm xuống, chân khập khểnh bước cao bước thấp giữa hai càng xe. Chỉ trong vài giây, ông hoá thân thành một dáng người lưng còng và tiều tụy, trông bề ngoài già xấp xỉ hai lần số tuổi bốn mươi của ông.
Lật lại dựa người vào lan can cầu chật hẹp, mắt giữ nguyên tròng liếc theo chiếc xe kéo. Anh thấy xe hơi của Nha Liêm Phóng chạy tuần tra chầm chậm tới bên chiếc xe kéo bé nhỏ và tồi tàn ấy rồi vượt qua, không dừng lại. Trên ghế sau, thanh tra Jacques Devraux đang đọc báo. Hắn cũng không ngước mặt lên nhìn dáng người lọm khọm giữa hai càng xe.
Lật nán lại trên cầu, đưa lưng ra đường cho tới khi chiếc ô-tô biến mất ở chốn xa xa. Còn một mình đột nhiên anh cảm thấy phấn chấn và đầy tự tin. Anh sẽ chứng tỏ cho Nguyễn Ái Quốc thấy giữa ông ta và anh ai đúng! Anh sẽ chứng minh cho ông ta thấy rằng thận trọng quá nhiều hoặc quá ít cũng đều nguy hiểm như nhau. Hàng triệu nông dân lúc này đang khao khát một sự lãnh đạo mạnh mẽ và gan dạ. Nếu Nguyễn Ái Quốc muốn đặt ưu tiên cho những sứ vụ bí mật của ông ta ở hải ngoại thì anh, Đào văn Lật, sẽ chứng minh con đường công khai của mình tại quốc nội. Và có thể qua những hành động quả quyết của mình, anh còn chiếm lĩnh được chỗ đứng thứ nhất trong lòng dân tộc như Bình Định Vương Lê Lợi đã làm năm trăm năm trước. Lịch sử đã chứng minh tính nhạy cảm sâu xa và vô biên của dân tộc đối với nền độc lập của nó, và vì thế, chiến thắng ngoại xâm là tiêu chí chính thống cho các đấng anh hùng khai sáng triều đại.
Rạo rực với ý nghĩ đó, Lật quay mình nhanh nhẹn sãi chân bước dọc bờ hồ phía tây, thỉnh thoảng nhìn xuống mặt nước hồ lấp lánh. Anh nhắc nhở mình, một cách quyết liệt, rằng Thần Kim Qui vẫn ở đó, trong những vực sâu đầy bóng tối, đang chờ để tái hiện thành thanh kiếm phục hận dũng mãnh.
Rùa vàng vẫn vô hình trước đôi mắt của những ai không đủ niềm tin và không đủ quyết tâm để nhìn ra nó! Và anh chắc chắn không kém rằng con rùa vàng ý chí sắt thép của anh đang tiềm phục chờ đợi trong lòng anh. Nó ở đó, sẵn sàng quẩy mạnh để thêm lần nữa bung ra ngoài.