Lý Thế Dân tiếp được tin mừng lập tức lên thuyền đi ngay trong đêm. Sáng sớm hôm sau tại doanh trại của lưỡng quân bên bờ Vị Thuỷ, Lý Thế Dân và Hiệt Lợi cử hành minh ước Bạch Mã. Từ giờ phút này, minh ước chính thức có hiệu lực, hòa bình đã trở về trên đất biên cương.
Không khí trong doanh trại Đại Đường hết sức cuồng nhiệt, từ tướng tới quân ai cũng rộn rã nói cười, vui mừng nhảy múa như điên như cuồng. Để biểu lộ thành ý với Hiệt Lợi, Lý Thế Dân hạ lệnh cho Tuyên Vĩnh và Ma Thường - nguyên là các tướng lĩnh của Thiếu Soái quân trước đây - chỉ huy công việc rút đại quân ở tiền tuyến lui về thành Vũ Công. Còn tùy tùng là Ôn Ngạn Bác thì đến thẳng tới doanh trại Kim Lang quân, tiếp xúc với đại diện của Hiệt Lợi thu xếp quân lương hậu cần để Kim Lang quân trở về bắc và trao quà tặng của Đại Đường cho Đột Quyết.
Khi mọi việc đã hoàn tất, Lý Thế Dân nói: “Không ngờ việc đàm phán của Thiếu soái và Tử Lăng với Hiệt Lợi lại thành công tốt đẹp đến vậy. Hai khanh đúng là luôn khiến cho trẫm vui mừng đến sửng sốt. Lát nữa Chí Huyền sẽ đến phúc trình tình hình sáng nay ở Trường An cho Thiếu soái và Tử Lăng biết.”
Trên một ngọn núi nhỏ ngoài thành Vũ Công, Lý Thế Dân, Khấu Trọng, Từ Tử Lăng cùng các tướng ngồi trên lưng ngựa ngắm nhìn từng đoàn, từng đoàn quân nối nhau từ tiền tuyến trở về, cờ xí phần phật tung bay trong gió, mặt người lính nào cũng hớn hở. Từ trong sâu thẳm của tâm hồn của mỗi người, một cảm giác bình yên dâng trào lên không dứt.
Uất Trì Kính Đức, Trưởng Tôn Vô Kỵ, Đoàn Chí Huyền, Lý Thần Thông, Phong Đức Di, Bạt Dã Cương, Tống Pháp Lượng, Hư Hành Chi, Đỗ Như Hối, Phòng Huyền Linh, Lý Thế Tích và các văn vũ đại thần gần hai mươi người quây quần xung quanh Lý Thế Dân, Từ Tử Lăng và Khấu Trọng. Mặt mày người nào cũng rạng rỡ vui mừng vì Kim Lang quân tung hoành thiên hạ đã bị bức lui, ước vọng hòa bình thống nhất cuối cùng cũng đã thành sự thực.
Đoàn quân giáp đen mũ áo rực rỡ trấn giữ tứ phía, quân kỳ theo gió phấp phới tung bay hiển lộ khí thế hừng hực như mặt trời đứng ngọ của quân đội Đại Đường. Vì ngoài Đại Đường quân, trong thiên hạ hiện nay không còn quân đội nào có thể sánh ngang với quân đội của Hiệt Lợi, bá chủ vùng quan ngoại nữa.
Đoàn Chí Huyền vừa đến thành Vũ Công đã bẩm báo với Khấu Trọng: “Sáng nay tin tức không biết do ai tiết lộ đã lan truyền đi rất nhanh, lập tức toàn thành Trường An hò reo ầm ỹ, pháo nổ vang trời, nhà nhà giăng đèn kết hoa, người người mặc quần áo mới đổ ra đường ăn mừng, dân tình hết sức hưng phấn.”
Lý Thế Dân cười: “Thiếu soái và Tử Lăng hãy cùng trẫm tới Hoành Nghĩa cung để báo tin mừng cho Thái Thượng Hoàng trước, rồi theo cửa Nam vào thành, tuần hành qua Chu Tước đại nhai về cung. Dân chúng trong thành đang sốt ruột đợi chúng ta về để hoan nghênh, hai khanh cũng không nên làm họ thất vọng.”
Từ Tử Lăng đưa mắt cho Khấu Trọng, gã đưa tay khẽ vuốt ve Vô Danh đang đậu trên vai, cười nói: “ Hoàng thượng hình như đã quên mất rồi, vào thời khắc song phương cử hành minh ước Bạch Mã cũng đúng là lúc thần và Tử Lăng cũng chính thức giải giáp về quê thối ẩn hay sao!”
Lý Thế Dân khổ não: “Trẫm biết điều đó, nhưng trẫm muốn hai khanh có mặt trong nghi lễ khải hoàn…”
Từ Tử Lăng cười thân thiện ngắt lời: “Hy vọng đây không phải là thánh chỉ?”
Chư tướng ở phía sau không nhịn được cười. Họ đều cảm nhận rõ ràng tình nghĩa sâu sắc giữa ba người sau khi Lý Thế Dân lên ngôi cửu ngũ chí tôn hoàn toàn không giảm sút.
Lý Thế Dân gượng cười: “Đương nhiên không phải là thánh chỉ rồi, mà là Thế Dân chân tâm mong mỏi, hy vọng hai vị huynh đệ cùng Thế Dân chung vui ở Trường An thành.”
Khấu Trọng cười ha hả: “Nếu không phải là thánh chỉ thì tốt quá! Tử Lăng! Tới lúc nghỉ ngơi thoải mái rồi!”
Hai gã tâm ý tương thông, đồng thanh cáo thoái, rồi cất tiếng cười vang, giục ngựa lao xuống núi dưới ánh mắt lưu luyến của Lý Thế Dân và quần thần. Ngồi trên lưng ngựa đang phóng như bay về Vị Thuỷ, hai gã chứng kiến tiếng hò reo đồng thanh của các chiến sĩ vang vọng trên thành Vũ Công và khắp thảo nguyên xung quanh. Vô Danh từ trên vai Khấu Trọng vụt vỗ cánh bay vút lên trời cao.
Hai gã ra roi cho ngựa phi nước đại dọc theo bờ bắc Vị Thuỷ rồi vượt qua cây cầu bắc qua sông, chạy mười dặm đường mới cho ngựa đi chậm lại, hưởng thụ cảm thoải mái nhẹ nhàng khi trở về cuộc sống bình thường, thoát ra được vòng xoáy tranh giành quyền lực.
Hai gã song song cưỡi ngựa mà đi, mắt nhìn dòng Vị Thuỷ cuồn cuộn tuôn chảy về đông, Khấu Trọng chợt thở dài: “Tử Lăng à, ngươi còn nhớ ngày sống chui sống nhủi ở Dương Châu không. Hai ta khi thì muốn đầu nhập nghĩa quân, khi thì muốn ghi danh khoa cử. Nhưng thực ra bọn ta đều tự biết là mình đang nằm mộng giữa ban ngày, công hầu khanh tướng đâu đến lượt hai tên du côn hèn mạt chúng mình. Ha! Ngờ đâu bao nhiêu mộng ước viễn vông lại nhất nhất thành sự thực, mọi chuyện cứ như mới xảy ra ngày hôm qua. Cũng không hình dung được sẽ có một ngày có thể rủ bỏ tất cả, an lành về quê, để rồi ngày ngày an nhàn tu tâm dưỡng tính như ngày hôm nay đâu.”
Tử Lăng đang nhớ đến Sư Phi Huyên, thuận miệng hỏi: “Nhưng ngươi có cảm thấy hạnh phúc không?”
Khấu Trọng nói: “Chúng ta mất mát cũng nhiều, mà được cũng không ít.
Nhưng khi nghĩ đến thiên hạ giờ đã hòa bình thống nhất, cha mẹ không phải đau khổ vì mất con, vợ chồng con cái không phải khóc vì sinh ly tử biệt, thì tất cả được, mất của chúng ta không còn quan trọng nữa. Những gì thuộc về quá khứ thì cứ để cho nó qua luôn đi, như nước mãi trôi về đông không bao giờ trở lại. Ta chỉ nghĩ đến lúc gặp lại Trí Trí, Sở Sở và Tiểu Lăng Trọng, không bao giờ rời xa họ nữa thì đã cảm thấy nôn nao, xúc động và mới hiểu hạnh phúc chỉ là những gì đơn sơ và gần gũi nhất.”
Từ Tử Lăng gật đầu: “Những gì chúng ta trải qua đúng là thật ly kỳ, nếu không phải là người trong cuộc thì không cách nào hiểu nổi. Cũng may là huynh đệ chúng ta sống chết có nhau, nếu không thì không có ngày hôm nay đâu.”
Khấu Trọng trầm ngâm: “‘Thành công sẽ không ở lâu, hãy luôn sáng tạo cái mới, đừng có khư khư giữ cái cũ’ câu châm ngôn vàng ngọc của lão Ninh rất thích hợp với hoàn cảnh bọn ta bây giờ. Sau khi vào thành, ngươi ghé Ngọc Hạc am để gặp Thanh Tuyền trước đi, ta đợi ngươi ở Hưng Khánh cung.”
Từ Tử Lăng cười cười: “Thiếu soái có lệnh, kẻ hèn này đâu dám không tuân theo, nhưng chúng ta hãy đeo mặt nạ rồi đi vào thành thì hay hơn.”
Khấu Trọng bật cười ha hả: “Ngươi nói sai rồi, Thiếu soái cái mẹ gì nữa, lão tử ta đã từ bỏ hết rồi mà. Chúng ta sao không thu xếp để lên tận đầu nguồn Trường Giang và Hoàng Hà ngoạn cảnh nhỉ.”
Từ Tử Lăng cười nhẹ: “Ngươi tuy từ bỏ cái chức Thiếu soái, nhưng mà việc là đại lễ để đưa ngươi lên chức rể quý Tống Gia làm sao mà trốn được. Chúng ta tạm thời đường ai nấy đi thôi.”
Khấu Trọng nổi nóng: “Lăng thiếu gia nói chơi hả? Huynh đệ chúng ta chỉ có hai người, mà ngươi tìm cách trốn tránh, không dự hôn lễ của ta hả. Tim ngươi bằng đá chắc, đúng là thứ trọng sắc khinh bạn. Mẹ kiếp, hèn gì người ta nói có vợ rồi thì tình nghĩa huynh đệ gì gì cũng mất. Ngươi không định lập gia đình sao? Sao không để huynh đệ ta có phúc cùng hưởng, cùng động phòng hoa chúc tại Tống gia sơn trang đi. Còn nói nghĩa khí cái gì chứ, con bà nó, ngày hôm nay là đúng là vứt bỏ hết rồi.”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Ngươi mới là người không nghĩ đến tình nghĩa huynh đệ, ngươi phải biết là Thanh Tuyền thích yên tĩnh…”
Khấu Trọng thô bạo cắt ngang: “Thanh Tuyền để ta lo cho, ta sẽ phân tích cặn kẽ cho nàng hiểu thế nào là đại nghĩa, giúp ngươi giữ vững đạo làm chồng, phu xướng phụ tùy. Ngươi nghe kế hoạch du ngoạn của ta. Đầu tiên ghé khai trương tiệm của lão Lôi, rồi ghé Giang Hoài thăm hỏi cha nuôi, kế là thăm mộ mẹ, cuối cùng về Tống gia sơn thành để động phòng hoa chúc. Sau đó, hai ta cùng người đẹp ngao du khắp thiên hạ, cuộc sống thần tiên như vậy, ngươi còn ý kiến ý cò gì nữa.”
Nói xong gã cười sằng sặc trong khi Tử Lăng chỉ biết cười theo mà mặt mày méo xẹo. Vừa cười hai gã vừa thúc ngựa lao nhanh dọc theo bờ Vị Thủy, đến chiều thì đến Trường An.
Đến Hưng Khánh cung, Khấu Trọng cất bỏ cái mặt nạ xấu xí của Thần y Mạc Nhất Tâm, thúc ngựa vào cung trong tiếng vui mừng hớn hở hoan hô Thiếu soái không ngớt của các vệ binh.
Gã kìm cương xuống ngựa, thị vệ tranh nhau chạy tới hầu hạ. Khấu Trọng ôm cổ ngựa vỗ về, cười nói: “Chăm sóc nó cho tốt giùm, các ngươi hẳn biết đường phố Trường An bây giờ khó đi thế nào rồi.”
Bọn thị vệ biết tính gã tùy tiện không đặt nặng vấn đề thân phận, đều phá lên cười thoải mái.
Khấu Trọng nhìn lên trời, Vô Danh đang chao liệng vòng quanh chỗ cờ hoa rực rỡ, tỏ vẻ ngạc nhiên: “Cục cưng này giỏi thật, lại biết chỗ ta muốn tới.”
Vệ sĩ đáp: “Bẩm Thiếu soái, chắc là vì ở chỗ Hạc nhi tiểu thư cắm đại kỳ của Thiếu soái.”
Khấu Trọng vỗ trán: “Ta quên mất, nàng và Âm huynh đệ cùng tiểu Hầu và lão Bạt cùng về Trường An chung với nhau, ha! Cục cưng của ta nhất định đã nhìn thấy nàng.”
Một vệ sĩ khác nói: “Nhóm Hạc nhi tiểu thư đều tụ tập trên tầng hai Trinh Quán tiền trang ở Chu Tước Đại nhai xem lễ nhập thành của đại quân, họ cho rằng Thiếu soái sẽ đi cùng Hoàng thượng vào thành.
Khấu Trọng ngạc nhiên cười khổ: “Chu Tước đại nhai người đông như nêm cối, đi một bước cũng khó, chắc ta phải theo đường mái nhà mới được.”
Vệ sĩ cung kính thưa: “Tống tam tiểu thư cùng phu nhân của Lý Tích đại tướng quân hiện giờ vẫn còn đàm luận ở trên lầu tiền trang.”
Khấu Trọng lấy làm kỳ: “Không phải là Lý Thế Tích sao?”
Vệ sĩ thấp giọng nói: “Bởi vì chữ ‘Thế’ phạm huý nên bây giờ đổi tên thành Lý Tích, Thiếu soái minh xét.”
Có tiếng bánh xe lăn, ba chục Cấm vệ quân tiền hô hậu ủng một cỗ xe ngựa tiến vào cửa cung.
Khấu Trọng bước lên: “Tiểu dân Khấu Trọng bái kiến Lý phu nhân.”
Rèm xe vén lên lộ ra hai khuôn mặt tươi đẹp như hoa của Tống Ngọc Trí và Trầm Lạc Nhạn.
Tống Ngọc Trí vừa ngạc nhiên vừa vui mừng nói: “Vì sao chàng biết bọn ta qua đây mà đứng chờ?”
Trầm Lạc Nhạn ngồi bên cạnh đẩy nàng một cái, cười duyên dáng: “Đại anh hùng đã ở đây rồi, ngươi cần gì phải tới Chu Tước Đại nhai đứng ngóng nữa.”
Đoạn lại cười với Khấu Trọng: “Đêm nay gặp lại ở Hoàng cung.”
Khấu Trọng đã kéo cửa xe, ân cần đỡ Tống Ngọc Trí bước xuống, đưa tay từ biệt Trầm Lạc Nhạn. Nhìn theo xe ngựa mất dạng ngoài cửa cung, Khấu Trọng nắm tay Tống Ngọc Trí, một cảm giác hạnh phúc êm ái lan tỏa khắp toàn thân, gã dịu dàng: “Sở Sở và tiểu Lăng Trọng đâu rồi, cả hai đi coi nhiệt náo rồi hả?”
Khuôn mặt xinh đẹp của Tống Ngọc Trí đỏ hây hây, khẽ gật đầu, nhẹ nhàng: “Đưa người ta đi mấy bước được không?”
o0o
Từ Tử Lăng khẽ vén tấm rèm ngăn tiểu sảnh và phòng ngủ, rón rén bước tới bên giường, Thạch Thanh Tuyền như đoá hải đường trong giấc mộng xuân, gương mặt vẫn còn vương ngấn lệ. Nàng xinh đẹp đến mức gã phải ngẩn ngơ đứng ngắm. Hai tay vẫn nắm chặt linh bài của Bích Tú Tâm, nàng lẩm bẩm trong cơn mơ, khoé miệng chợt hiện lên nét cười: “Từ Tử Lăng chàng ơi!”
Thân hình khẽ rung động, nhưng nàng vẫn trong giấc ngủ say. Từ Tử Lăng như mê như say, đắm đuối nhìn từng nét biến hoá nhỏ nhất trên gương mặt nàng, cảm xúc mãnh liệt ngày nào ở tiểu cốc, lúc gã cùng nàng trao hết tiếng lòng chợt bồi hồi sống lại, ào ạt dâng lên như sóng triều. Ái tình là gì? Gã cũng không biết diễn giải làm sao, chỉ biết nó giống như núi băng đột ngột đổ ập xuống, không ai kháng cự nổi. Đang suy nghĩ miên man, Từ Tử Lăng chợt phát hiện đã nàng đã ở trong vòng tay gã từ hồi nào.
Thạch Thanh Tuyền giật mình tỉnh dậy. Thấy mình đang nằm trong lòng Tử Lăng lập tức nồng nhiệt ôm cứng lấy gã.
Từ Tử Lăng ghé sát vào tai nàng, thở ra một hơi dài mãn nguyện: “Mọi chuyện đều đã qua, chúng mình về nhà được rồi.”
o0o
Khấu Trọng khoác tay Tống Ngọc Trí chầm chậm thả bước cạnh hồ Long Trì, ngoài cung thỉnh thoảng vọng vào tiếng pháo nổ tựa như nhắc nhở những ngày tháng hạnh phúc của bọn họ đã trở thành sự thật.
Khấu Trọng khẽ cười: “Ta có không biết bao nhiêu lời muốn thổ lộ cùng Trí Trí.”
Tống Ngọc Trí trừng mắt nhìn gã: “Nếu là chuyện có liên quan tới Thượng Tú Phương thì khỏi phải nói, bên cạnh chàng có rất nhiều tai mắt của ta.”
Khấu Trọng kinh hãi, giọng lúng túng: “Nhưng chuyện đó đã thành quá khứ rồi.”
Tống Ngọc Trí mặt mũi hoan hỷ: “Đừng lo, người ta không trách chàng, còn ngưỡng mộ nữa là khác, ta chỉ nhìn thấy đó là ưu điểm của chàng thôi.”
Khấu Trọng ngơ ngẩn: “Ngưỡng mộ?”
Tống Ngọc Trí lộ vẻ nhớ nhung, từ từ nói: “Từ ban đầu người ta đã bội phục chàng, khi đó vũ công chàng còn chưa cao, nhưng vẫn ung dung dùng mưu kế ứng phó địch nhân, vừa cười vừa nói khiến địch nhân đều cúi đầu xưng thần. Tuy nhiên ta càng thống hận chàng lúc nào cũng như thấy lợi tối mắt. Ta không đụng chạm gì tới chàng, chàng lại đòi xông vào đời ta, khi đó hận không thể một kiếm chém chết…”
Khấu Trọng tiếp lời: “Nhưng lại không nỡ, đúng không? Ha, ha!”
Tông Ngọc Trí giận dữ nói: “Vẫn cái tính đó, …nhưng thiếp có một điều kiện đây.”
Khấu Trọng lập tức khuất phục, mặt hiện lên nét hí hửng: “Bất luận là điều kiện gì ta cũng tiếp thụ, tình nguyện tuân theo.”
Tống Ngọc Trí hoan hỷ nói: “Từ nay về sau ta không muốn nghe chàng nói thực, chỉ thích nghe chàng đùa bỡn người ta.”
Khấu Trọng hết sức mừng rỡ: “Trí Trí quả thật rất hiểu ta, bỡn cợt người mới là sở trường của ta, nói năng thực thà ta lại không có bản lĩnh.”
Tống Ngọc Trí lườm gã: “Còn nói cái gì sở trường đùa cợt, chẳng phải đang nói thực đấy sao!”
Khấu Trọng hết sức vui sướng nói: “Hẳn là đến lúc hôn nhau một cái rồi đây!”
Bất chợt từ phía Chu Tước đại nhai truyền tới tiếng hò hét rung trời chuyển đất, Đại Đường thiên tử Lý Thế Dân cuối cùng đã khải hoàn kéo quân vào thành.
Khấu Trọng vội vã lên lầu, gã vừa gặp Từ Tử Lăng ở ngoài cửa biết rằng phương giá Thạch Thanh Tuyền đã tới, vội bảo Từ Tử Lăng bồi tiếp Trí Trí, còn gã thì ba chân bốn cẳng chạy vụt lên lầu.
Thạch Thanh Tuyền thướt tha đứng bên song cửa, lặng lẽ ngắm cảnh trời chiều Hoàng thành mịt mù lửa khói, những ngọn pháo hoa bừng lên muôn sắc muôn màu, lung linh huyền ảo như đang trong giấc mơ, khiến cho Thái Cực điện cao ngất đằng sau càng thêm hùng vĩ tráng lệ, uy nghiêm, sinh động. Tám toà tháp dựng cao ngất trên quảng trường bên ngoài Thừa Thiên môn lửa khói rực trời, liên tiếp bắn pháo hoa trong tiếng hò reo hoan hô vang dội từng hồi của quân dân trong thành.
Chỉ nhìn thấy Thạch Thanh Tuyền từ phía sau, mà vẻ kiều diễm của nàng khiến Khấu Trọng vô cùng sửng sốt, gã không khỏi cao hứng giùm cho Từ Tử Lăng. Khi còn cách nàng chừng sáu bước, gã mới thịnh trọng lên tiếng: “Hảo huynh đệ của Từ Tử Lăng là Khấu Trọng xin bái kiến Thanh Tuyền tẩu phu nhân.”
Thạch Thanh Tuyền bật cười yêu kiều, vẫn không quay lại, giọng êm ái: “Ngươi là loại người nào mà từ một tên tiểu tốt ở Lạc Dương lại trở thành một đại nhân vật làm mưa làm gió như hiện nay. Hãy nói cho ta biết lý do tại sao?”
Khấu Trọng không ngờ Thạch ThanhTuyền lại có thái độ gần gũi như vậy, gã bật cười hì hì: “Nếu câu trả lời mà tẩu phu nhân vừa ý thì mong tẩu vui lòng tấu một khúc nhạc chỉ cho duy nhất một mình tiểu đệ được nghe mà thôi. Còn thổi ở đâu thì sẽ do đệ chọn, diễm phúc này thì phu quân của tẩu tẩu không được phép hưởng chung.”
Thạch ThanhTuyền vẫn bình thản: “Ta chỉ muốn xóa đi những ấn tượng không tốt về ngươi mà thôi, giờ thì ngươi nói trước đi. Nghe xong ta sẽ nhận xét sau.”
Khấu Trọng chợt trầm ngâm: “Những ngày tháng trước đây, ta như đang sống giữa một bầy ác thú luôn rình rập cắn xé đồng loại. Chúng gian ác đến mức tẩu tẩu không sao hiểu nổi, cũng như tập quán và thủ đoạn tàn độc của chúng, tẩu tẩu lại càng không thể biết. Tùy theo chúng ở bên cạnh mình hay ở xa, thì phương pháp ứng phó cũng phải khác nhau. Nếu gần thì phải xác lập vị trí đầu đàn, nếu xa thì phải tìm cách triệt hạ. Cái mạng nhỏ này trải qua không biết bao nhiêu gian lao mà kể, nhưng may mắn là mọi thứ đã trở thành dĩ vãng, tương lai lại được nghe tiên khúc của tẩu tẩu trên non cao, nơi đào nguyên đầu sông Hoàng và sông Dương Tử.”
Thạch ThanhTuyền không nén được cười, uyển chuyển quay người lại: “Lộ cái đuôi chồn ra rồi, thì ra ngươi là chính là hồ ly thành tinh.”
Khấu Trọng hai mắt mở to, người như bị điện giật: “Hèn gì Tử Lăng chẳng thèm đếm xỉa gì tới huynh đệ của hắn. Đúng là thứ có vợ đẹp thì quên hết bằng hữu.”
o0o
Tấm vải gấm che kín bảng hiệu đặt trên lầu hai của tòa lâu đài rộng lớn được gỡ ra, bốn chữ “TRINH QUÁN TIỀN TRANG” đúc bằng vàng ròng rực rỡ hiện ra dưới ánh nắng mặt trời, chúng phản chiếu ánh sáng lấp loáng làm chói mắt người xem, càng làm cho trụ sở Tiền Trang tăng thêm phần uy nghi.
Tiểu Lăng Trọng và Tiểu Hạc Nhi phụ trách việc châm ngòi cho hai tháp pháo ở hai bên tả hữu, lập tức tiếng pháo nổ đì đùng vang lên điếc tai, lửa văng tung tóe, khói tỏa mù mịt. Dân chúng đứng xem vỗ tay bàn tán vô cùng náo nhiệt.
Xe ngựa chiếm gần kín Chu Tước đại nhai, việc giữ trật tự lại do cấm vệ quân phụ trách, văn võ bá quan đại thần cùng với phú thương, những nhân vật có máu mặt ở Trường An đều đến dự, lại thêm các tướng lĩnh của Thiếu Soái quân, Tống Gia quân và Giang Hoài quân cũng có mặt đầy đủ. Lễ khai trương Trinh Quán Tiền Trang hoành tráng xưa nay chưa từng có.
Tiếng pháo vừa dứt, tiếng kèn trống ở sân khấu ngoài trời vang lên inh ỏi, Lý Thế Dân tiến ra chủ trì nghi thức, đọc diễn từ cho việc khai trương Tiền Trang.
Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Tống Lỗ, Bạt Phong Hàn, Hầu Hi Bạch, Tuyên Vĩnh, Tra Kiệt, Bốc Thiên Chí, Lý Tịnh, Trần Lão Mưu, Hư Hành Chi tập trung ở đông bắc ngoại viện. Nữ quyến lại ở trong phòng uống trà trò chuyện, Tiểu Lăng Trọng và Tiểu Hạc Nhi chạy chơi vòng vòng ở hậu viện.
Ban đầu Khấu Trọng chỉ lo nói chuyện riêng, không lưu ý lắm những điều Lý Thế Dân đề cập đến Tiền Trang. Đến khi Đại Đường Thiên Tử Lý Thế Dân lên giọng: “Tùy Dương hủ bại, khiến dân chúng bỏ phế việc kỹ, nông, công, thương. Lại bắt dân vào lính, vất vả chinh chiến ở phương xa để kiếm tìm ngọc ngà châu báu khiến nam không làm được việc đồng áng, nữ không lo được việc tằm tơ, ruộng đất bỏ hoang, mọi thứ điêu tàn. Hơn ngàn dặm phía bắc Hoàng Hà không có bóng người, cả vùng Giang Hoài toàn là cỏ dại. Phía đông của sông Lạc phố vắng tiêu điều, đồng không mông quạnh, không một tiếng gà gáy chó sủa, không ai dám bước ra đường. Người làm vua thấy dân đói rét mà không biết đau xót, làm vua mà để cho dân khổ thì không xứng đáng làm vua nữa.”. Từng tiếng, từng tiếng khẳng khái vang vang, khiến Khấu Trọng và Từ Tử Lăng chú ý lắng nghe.
Lý Thế Dân tiếp tục: “Có nhiều người bàn luận là không biết sau thời kỳ đại loạn sẽ đến thời kỳ đại trị hay không, hay là đến thời khó khăn gian khổ khác.”. Toàn trường im phăng phắc, từ đám đông dân chúng đang ồn ào đứng nghẹt đường cho đến những người ngồi chật nhà trò chuyện, tất cả đều im lặng nghe Lý Thế Dân diễn thuyết, một tiếng kim rơi cũng nghe rõ. Giọng Lý Thế Dân tiếp tục sang sảng với sự tự tín hiện rõ lên gương mặt: “Các khanh hãy bình tâm nghe trẫm nói, sau kỳ đại loạn sẽ đến thời bình an, chỉ cần từ trên xuống dưới đều đồng tâm hợp lực, thì thành công sẽ rất nhanh chóng đến với chúng ta.”
Từ Tử Lăng và Khấu Trọng thấy dân chúng đưa tay lên cao sau từng câu nói, đúng là Lý Thế Dân có mị lực bẩm sinh của một vị đế quân thống lĩnh thiên hạ, hai gã chợt có cảm giác an ủi vì đã không nhìn lầm người.
Lý Thế Dân đưa tay lên cao: “Trẫm lên ngôi phụng theo thiên mệnh, giữ cho đất nước hòa bình, giúp cho dân chúng sung túc, yên ổn làm ăn. Vua phải vì đất nước, đất nước là của dân. Làm vua mà chỉ biết bóc lột dân chúng để sung sướng riêng cho bản thân thì nước sẽ mất, điều ngu xuẩn đó không được tái diễn. Việc đầu tiên trong việc trị quốc là phải yên dân, nay trẫm ban lệnh, không lãng phí xa hoa, giảm nhẹ thuế má, tuyển dụng những người thanh liêm ra làm quan, dân phải đủ cơm ăn áo mặc, thiên hạ sẽ đại trị.”. Mọi người không đợi Lý Thế Dân dứt lời đã đồng thanh hô lớn “Ngã Hoàng Vạn Tuế ” vang dội khắp Tiền Trang.
Khấu Trọng nắm chặt tay Từ Tử Lăng, hai gã hiểu rõ Lý Thế Dân - sau khi lên ngôi - nhân cơ hội này nói ra những quốc sách quan trọng cho hai gã nghe, để thể hiện sự cảm kích của y đối với hai gã.
Khi Lý Thế Dân bước qua Huyền Vũ môn, y đã đặt chân lên con đường dẫn tới ngai vàng, trở thành thiên hạ cửu ngũ chí tôn, như rồng tung bay trên trời. Một thời kỳ đại loạn đã qua, một thời kỳ thịnh trị sắp bắt đầu, thiên hạ không còn ai đủ sức đi ngược lại dòng chảy của lịch sử cũng như ước vọng của dân chúng nữa.
Riêng hai gã thì đã rút chân ra khỏi vòng xoáy cừu hận và quyền lực rồi, giờ là lúc hai gã tận hưởng những điều tươi đẹp mà cuộc sống đã hào phóng ban tặng.
Sau khi Khấu Trọng và Từ Tử Lăng ly khai Trường An, Lý Thế Dân lập tức toàn diện triển khai hành động quân sự để thống nhất thiên hạ. Mục tiêu đầu tiên là tiêu diệt lực lượng của Tiêu Tiễn tại bình nguyên Giang Hán. Lý Tịnh làm đốc sư tập hợp thuyền đội ở Ba Thục, thuận theo dòng nước xuống đông, phá tan Lương quân như chẻ trúc, rồi tiến về Ba Lăng.
Tiêu Tiễn cầu viện Lâm Sĩ Hồng, nhưng Lâm Sĩ Hồng lại bị đại tướng của Tống gia là Vương Trọng Tuyên, Trần Trí Phật cùng Âu Dương Tình khống chế, không thể nào chi viện. Tiêu Tiễn cô thân không thủ nổi thành đành phải đầu hàng.
Lương mất, Tiêu Tiễn đầu hàng. Đại Đường quân tấn công như giông bão, chỉ sau một trận đánh, Lâm Sĩ Hồng đã bị dẹp tan.
Phương nam đã yên, Lý Thế Dân chuyển hướng sang Lương Sư Đô khai đao, đầu tiên lệnh cho khinh kỵ tàn phá ruộng đồng của vùng Sóc Phương, khiến lương thực thiếu thốn, lòng dân ly tán.
Năm Trinh Quán thứ hai, Sài Thiệu làm chủ soái đem quân tiểu trừ Lương Sư Đô. Hiệt Lợi sai Đạt Nặc dẫn quân cứu viện, gặp mùa đông mưa tuyết khiến ngựa chết vô số, đại quân Hiệt Lợi bị cản trở không thể đến được, chỉ còn cách đứng nhìn Sài Thiệu tiến chiếm Sóc Phương, giết chết Lương Sư Đô
Sự nghiệp thống nhất của Lý Thế Dân cuối cùng đã đại công cáo thành. Vào tháng mười một, năm Trinh Quán thứ ba, thời hạn của Minh Ước Bạch Mã đã hết, Hiệt Lợi tiên phát chế nhân, mở mặt trận phía tây, đem quân xâm lăng các châu ở Hà Tây, nhưng bị quân Đường chặn lại, trận chiến kéo dài mấy tháng trời.
Lý Thế Dân biết Hiệt Lợi không dễ gì chịu rút quân, nhân lúc Hiệt Lợi tập trung quân lực ở Hà Tây, liền lệnh cho năm đại tướng Lý Tịnh, Sài Thiệu, Lý Đạo Tông, Tiết Vạn Triệt cùng Lý Tích đem theo hơn mười vạn quân chia thành năm đạo cấp tốc lên đường, tiến thẳng đến sào huyệt của Hiệt Lợi ở thành Định Tương.
Tháng giêng năm Trinh Quán thứ tư, Lý Tịnh dẫn theo ba ngàn kỵ binh tinh nhuệ, xuất phát từ Mã Ấp, vượt qua Định Tương, đến thẳng mặt bắc của Ác Dương Lĩnh, chặn đường rút lui của quân địch, tối đến âm thầm đem quân tấn công thành Định Tương.
Hiệt Lợi đại bại dẫn quân bỏ chạy, bị Lý Tích chặn đường tập kích khiến toàn quân thương vong vô số. Về đến Chí Thiết Sơn, hắn sai sứ cầu hòa để kéo dài thời gian. Lý Tịnh tương kế tựu kế, thuyết phục Truy Mãnh tấn công bắt sống Hiệt Lợi, trừ bỏ được một đại địch đã quấy phá Trung thổ trong nhiều năm. Trận đại thắng này chấn động cả một vùng Quan Ngoại, lấy lại uy thế hào hùng mà quân đội Trung thổ đã đánh mất từ ngày nhà Hán bị diệt đến nay, khiến Tứ Di Quân Trường Nghệ Khuyết vội xin Đường Thái Tông phong y làm Thiên Khả Hãn. Lý Thế Dân chuẩn y, sai sứ đem ấn lệnh đến quân trường tây bắc, phong y làm Thiên Khả Hãn.
Giữ lời hứa với Khấu Trọng và Từ Tử Lăng là khi lên ngôi sẽ lo cho dân chúng yên ổn làm ăn, nên chỉ trong bốn năm ngắn ngủi, Lý Thế Dân đã hoàn thành thiên thu đại nghiệp, đất nước ổn định, kinh tế phát triễn, dẹp tan ngoại xâm. Năm đầu tiên, số hộ gia đình chưa đến ba trăm vạn, một xấp lụa chỉ đổi được một đấu gạo. Nhờ chính sự ổn định, luật lệ rõ ràng nên dân chúng yên tâm làm ăn, chỉ bốn năm sau, một đấu gạo giá chỉ bốn năm tiền, tối ngủ không cần khóa cửa, trâu ngựa đầy đồng, đi chơi xa không cần mang theo lương thực, dân tình yên ổn làm ăn. Các dân tộc lân bang theo về gần một trăm hai mươi vạn người, tù tội giảm hẳn, số tử tội khoảng hai mươi chín người. Về phương diện đối ngoại, do ưu thế quá lớn về quân sự cộng thêm các chính sách ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo nên các lân bang đều thần phục. Một thời thái bình thịnh trị chưa từng có trong lịch sử đã được khai sáng.
- o O o -