Richard Nixon đến ở Bắc Kinh ngày 21 tháng hai năm 1972. Bắt đầu từ 1 tháng 2, khi Mao cuối cùng đồng ý điều trị, các bác sĩ đã làm việc suốt ngày đêm. Thể trạng của Chủ tịch tốt lên một cách đáng kể. Viêm phổi đã bị dập tắt, sự suy tim cũng biếm mất. Chứng phù giảm đi, nhưng chỗ sưng vẫn còn tồn tại đến nỗi Mao đòi quần áo và giày rộng hơn. Do sự nóng cổ họng nên Mao rất vất vả khi nói. Cơ của nó đã bị teo, vì thế một tuần trước khi tổng thốnh R. Nixon đến, chúng tôi phải để ông tập thể dục.
Trong ngày R. Nixon đến, Mao, khác thường, bỗng dưng tinh thần phấn chấn. Ông dậy sớm và ngay lập tức hỏi khi nào tổng thống đến. Chu Phổ Minh cạo râu cho Mao và cắt tóc - lần đầu tiên sau năm tháng trời - và xoa dầu thơm thảo mộc lên tóc. Sau đó Mao ngồi vào đi văng, chờ chuông điện thoại, thông báo về sự di chuyển của khách cao cấp. Khi biết máy bay của R. Nixon hạ cánh, ông yêu cầu Ngô Từ Tuấn truyền đạt cho Chu Ân Lai rằng ông muốn sớm gặp tổng thống Mỹ. Là nhân vật chính thức, Chu cần phải đi cùng R. Nixon. Chu nói rằng phép lịch sự và nghi lễ bắt buộc phải để khách, trước khi bắt đầu thủ tục hình thức, có thời gian nghỉ ngơi ở nhà nghỉ ở Đào Dư Thái. Mao không phản đối, nhưng lặp lại mong muốn của mình gặp gỡ tổng thống Mỹ càng sớm càng tốt.
Chu ăn sáng với R. Nixon, sau đó dẫn ông ta vào Đào Dư Thái. Mao lại gọi Chu và muốn gặp sớm với với tổng thống Mỹ.
Đội bác sĩ cẩn thận chuẩn bị cho cuộc gặp này. Tất cả các dụng cụ, bao gồm gối ôxy máy hô hấp do Henry Kissinger gửi tặng sau chuyến thăm bí mật của ông, đã được mang đi khỏi buồng. Chúng tôi lắp một chiếc giường bệnh viện cho Mao chuyển tất cả thiết bị vào hành lang, nối phòng làm việc với phòng ngủ. Bình ôxy được cất trong chiếc tủ to sơn bóng loáng, những thứ còn lại giấu sau các chậu hoa lớn.Chúng tôi phải sẵn sàng cấp cứu nếu Mao đột nhiên trở bệnh.
Chu Ân Lai thông báo cho R. Nixon rằng Mao bị viêm phế quản, và tôi không nghĩ là tổng thống Mỹ đã biết sự thật về sức khoẻ của Chủ tịch.
Khi chiếc xe limuzin chính phủ chở R. Nixon và Chu Ân Lai tới, tôi đang ở phòng khách của văn phòng Mao. Nữ phiên dịch là Nency Đăng. Tổng thống R. Nixon đi cùng Henry Kissinger và Wiston Lord, người sau này trở thành đại sứ Mỹ ở Trung quốc. Gây ấn tượng cho tôi, ông ta trẻ đến mức trông như cậu sinh viên đại học hai mươi tuổi. Bộ trưởng ngoại giao Mỹ Rogers không tham gia cuộc gặp. R. Nixon muốn người cố vấn chính sách đối ngoại là Henry Kissinger. Và trong thời gian Mao tiesp R. Nixon và Henry Kissinger, thì bộ trưởng bộ ngoại giao Trung quốc Cơ Bằng Phi hội đàm với Rogers.
Ngay lúc tổng thống R. Nixon vừa đến, tôi đứng dạy và dẫn ông tới chỗ Mao, còn bản thân đi vào hành lang nơi chứa thiết bị y tế. R. Nixon biến mất khỏi con mắt của lính bảo vệ nhanh đến mức làm họ lúng túng, thêm nữa liên lạc vô tuyến với nhóm ở Đào Dư Thái cũng bị gián đoạn. Mái nhà quá dầy không cho tín hiệu chạy qua. Mọi người bình tĩnh lại khi một trong số phiên dịch nói để người Mỹ tin là R. Nixon đang hội đàm với Mao.
Ngồi ở hành lang cạnh phòng Mao, cửa thông sang đó vẫn mở, tôi nghe tất cả cuộc hội đàm và sẵn sàng can thiệp trong trường hợp Chủ tịch bị mệt. Mao xin lỗi R. Nixon rằng không thể nói to được. nội dung cuộc hội đàm được xuất bản trong báo cáo của tổng thống R. Nixon, sau này tôi đọc chúng trên bản dịch ra tiếng Trung quốc. Cuộc gặp quan trọng này lúc đầu dự định chỉ có mười lăm phút, sau tiếp tục thêm sáu mươi phút nữa. Tất cả các phần của cuộc hội đàm làm tôi làm tôi kinh ngạc. Mao giải thích cho R. Nixon rằng thậm chí nếu mối quan hệ giữa hai đất nước có trở nên tốt hơn, thì trên báo chí Trung quốc, như trước đây, sẽ công kích Mỹ, và ông cho tin là trên các báo Mỹ vẫn giữ quan hệ phê phán Trung quốc. Nhân dân của hai đất nước nên quen với phê phán đến mức phải trải qua một thời gian nào đó khi mà họ chưa xây dựng được chính sách hữu nghị mới. Vấn đề với Đài Loan vẫn để ngỏ, chưa được quyết. Mao ngưỡng mộ cuộc thăm viếng R. Nixon. Ngay lúc tổng thống ra về, Mao đã thay bộ quần áo mặc lúc diễu hành bằng chiếc áo ngủ quen thuộc. Tôi chạy ngay đến ông để kiểm tra mạch đập. Tim làm việc bình thường. Mao hỏi tôi có nghe được tôi cuộc hội đàm không. Tôi trả lời rằng tôi ở ngay lập tức sau cửa và nghe rõ được từng chữ một. Tôi cũng vui sướng về cuộc đi thăm này. Thời kỹ mới mở ra, tôi nghĩ vậy. Đến tận năm 1949 mối quan hệ giữa Trung quốc và Hoa kỳ vẫn còn tốt. Mối quan hệ này bị thay đổi từ khi bắt đầu chiến tranh Triều tiên. Nhưng cuộc gặp của R. Nixon và Mao nghĩa là sự thù địch xa xưa đã kết thúc.
R. Nixon thích Mao. Ông ta nói thẳng - không vòng vo tam quốc. Hoàn toàn không phải như con người tả khuynh nói một đằng làm một nẻo. R. Nixon thông báo cho Mao rằng Mỹ muốn cải thiện quan hệ với Trung quốc để có những lợi ích riêng. Tất cả các điều mà ông cần nói - Mao đăm chiêu - R. Nixon là một con người tốt hơn cả những con người, cứng rắn trong những nguyên tắc đạo đức cao độ ngay của trong lúc các mưu mô thối tha sinh sự. Điều mà chúng tôi muốn cải thiện quan hệ với Mỹ, không nghi ngờ gì nữa, mang lại lợi ích cho Trung quốc .
Mao cười to, thích thú với ý nghĩ của mình. Lợi ích lớn nhất làm hai nước xích lại gần nhau là sự đe doạ chú gấu bắc cực từ phương bắc.
Trên những bức ảnh được công bố Mao với R. Nixon tươi cười, bắt tay nhau. Trong báo cáo người ta nói rằng Mao là khoẻ mạnh, đầy nghị lực và dồi dào sức khoẻ. Những người nhận xét rằng Chủ tịch khỏe ra, và đã coi điều này như một dấu hiệu tốt của sức khoẻ. Báo chí Mỹ, khi biết về bệnh tật của Mao, đã viết rằng Chủ tịch bị một đòn.
Cả người người Trung quốc, lẫn người Mỹ cũng sai lầm. Mao không khoẻ lên, ông gục dần vì tuổi già và bị bệnh đột qụy mà bệnh suy tim.
Chiến thắng của chính sách đối ngoại đã có tác dụng tốt đến sức khoẻ của. Bệnh phù giảm đi, phổi hết bị viêm, không còn ho nữa. Trong thời gian ốm, ông đã bỏ được thuốc lá, và sưng phổi không còn trở lại nữa. Tinh thần ông phấn chấn lên. Tôi và ông gặp nhau thường xuyên hơn và kéo dài hơn. Tôi, như trước đây, sống trong một căn phòng cạnh bể bơi cũ và hàng ngày nhìn thấy Chủ tịch. Mối quan hệ giữa Trung quốc và Mỹ trở thành đề tài chính đối với ông, và tôi thường nghe bình luận của ông về sự phát triển của nó. Trong thời gian đế quốc anh, Nhật bản, và Nga can thiệp vào công việc nội bộ Trung quốc, thì Mỹ giữ thái độ trung lập.
Trước những năm 30, không có một tiếp xúc chính thức nào giữa chính phủ Mỹ và đảng cộng sản Trung quốc, đến lúc này đảng đã tồn tại mười năm trời. Nhưng những tiếp xúc không chính thức luôn luôn là hữu nghị. Mao được Edward Snow, một nhà báo làm việc, như người ta nghĩán, cho CIA, thích Mao. Mao cũng rất quý bác sĩ Gorge Hatem, người Mỹ gốc Libăng, ông này đã vào đảng và sau này trở thành công dân Trung quốc.
Tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa đảng cộng sản Trung quốc và Mỹ xảy ra trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, Mao nói. Khi ấy chính phủ Mỹ gửi một phái bộ quân sự tới Diên An. Mối quan hệ với các các đoàn viên của nhóm gọi là phái bộ anh nuôi chiến trường là khá tốt, nhiều sĩ quan Mỹ quan tâm đến chương trình đảng cộng sản. Sự mong muốn một nước Trung hoa mới đã dẫn họ đến các tiếp xúc hữu nghị, được duy trì mãi đến khi kết thúc chuến tranh. Những người Mỹ này đã tạo dựng cho Mao một chuyến bay vào Trùng Khánh tháng 8 năm 1945 trong cuộc hội đàm với Tưởng Giới Thạch để ngăn chặn nội chiến. Nhờ người Mỹ, mà những người quốc gia và những người cộng sản đã đạt được những hiểu biết lẫn nhau ký một cái gọi là hiệp ước 10 tháng 10 về lập lại hoà bình ở Trung quốc.
Franklin Ruzvelt đã vứt bỏ sự kế thừa mối quan hệ hữu nghị của chúng ta, Mao lập luận. Mao tin rằng chính phủ của Ruzvelt có ảnh hưởng đến lịch sử Trung quốc, rằng Ruzvelt thay đổi con đường của Hoa Kỳ và chính sách toàn cầu.
Mao ngưỡng mộ tổng thống Mỹ và tin rằng lịch sử Trung quốc và mối quan hệ của Mỹ với Trung quốc, có lẽ, sẽ trở nên hoàn toàn khác, mục đích Ruzvelt khẳng định chiến thắng của những người cộng sản.
Sau của cái chết của Ruzvelt, đến thời Harry Truman, Mao tiếp tục, ông này thay đổi chính sách của Mỹ trong quan hệ với Trung quốc, bằng cách ủng hộ Quốc Dân đảng về kinh tế và quân sự. Mao giải thích mồi lửa noọi chieỏn ở Trung quốc của Quốc Dân đảng được Truman ủng hộ.
Mao cám ơn Nhật bản vì chiến thắng của những người cộng sản trong nội chiến. Nếu như người Nhật không can thiệp vào Trung quốc năm 1930, thì những người cộng sản và quốc gia không bao giờ hợp tác với nhau. Cuộc đấu tranh chống xâm lược đã liên kết họn lại. Đảng cộng sản là quá yếu không đủ sức giành chính quyền. Sự xâm lăng của Nhật bản, Mao tin, là độc ác, chống lại thiện chí.
Gần ba mươi năm toàn thế giới chờ đợi sự tháo dỡ mối quan hệ thù địch giữa Trung quốc và Mỹ. Mao tin là lỷ nguyên mới hợp tác sẽ có một ý nghĩa chung. Phản ứng dây chuyền đã xảy ra. Lần lượt, các nước châu Âu, châu Phi, Mỹ la tinh noi gương Mỹ lập quan hệ ngoại giao với Trung quốc. Sự gia nhập Liên hợp quốc tháng 10 năm 1971 là một phần của xu hướng này.
Mao tin là các nước với các hệ thống chính trị khác nhau có thể hợp tác và chờ đợi sự mở rộng quan hệ với các nước tư bản. Lấy Nam Triều tiên làm thí dụ. Người Nam Triều tiên thích ăn cay, Trung quốc xã hội chủ nghĩa sản xuất nhiều ớt. Thận chí bây giờ, Mao tuyên bố, Trung quốc xuất khẩu hàng chục tấn ớt sang Nam Triều tiên hàng năm, và điều này không phải là tồi.
Nhưng Mao không nói trước rằng toàn thế giới đang bắt đầu kỷ nguyên hoà bình. Ông vẫn còn xem xét chính sách toàn cầu bằng thuật ngữ cuộc đấu tranh giữa ba thế giới. Thế giới thư nhất, chỉ có Mỹ và Liên-xô, là những nước phát trển kinh tế, giàu có và có lực lượng vũ trang hạt nhân hùng mạnh. Cả hai nước đều muốn bá chủ toàn cầu, và tăng cường sức mạnh quân sự thường xuyên đe doạ chiến tranh. Thế giới thư hai gồm Nhật, Châu Âu, Canada và úc, là những nước giàu có và làm chủ vũ khí có thể huỷ diệt nào đấy, bao gồm bom nguyên tử. Họ không thể đứng ngoài cuộc đấu tranh. Thế giới thứ ba, lạc hậu và nghèo đói, là nạn nhân của cuộc đấu tranh của siêu cường. Trung quốc thuộc thế giới thứ bacùng với các nước châu Phi, Mỹ la tinh và phần đông các nước châu á. Mao tin rằng hiện trạng thế giới - chỉ biểu hiện nhất thời. Mọi thế hệ phải trải qua chiến tranh.
Mao không trông mong rằng mối quan hệ với Mỹ sẽ sáng sủa. Sự đứng lại và thụt lùi về phía sau là không thể tránh khỏi. Thế hệ sau những người lãnh đạo thế giới sẽ giải quyết những vấn đề mà những người đi trước đã xây dựng lên.
Sự phân tích của Mao về xu hướng thế giới chỉ đúng ở một điểm. Cuộc đi thăm của R. Nixon đã mở đầu phản ứng dây chuyền công nhận Trung quốc.
Cũng năm ấy Mao một lần nữa nhận được khả năng bày tỏ sự tán thành chính sách đối ngoại của mình, khi thủ tướng Nhật Kakui Tanaca thăm Bắc Kinh.
Thủ tướng Tanaca cũng tỏ ra là một nhà ngoại giao được vinh hạnh như R. Nixon. Kết quả chuyến đi thăm của ông là sự trao đổi tin tức giữa hai bên đã xác lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước. Mao tin là cuộc hội đàm với Tanaca là thân mật và tin tưởng hơn với với R. Nixon. Khi Tanaca bắt đầu xin lỗi vì sự can thiệp và Trung quốc, Mao tin rằng sự xâm lăng của Nhậtbản chính là sự một giúp đỡ, cái đó đem lại chiến thắng cho những người cộng sản và cuối cùng đã tạo ra khả năng cuộc gặp hôm nay. Mao thú nhận với Tanaca rằng ông cảm thấy người không được khoẻ, và có lẽ, không sống lâu được. Mao tiếp tục trò chơi. Chính ông vẫn tin vào sự trường thọ của mình, nhưng lại luôn sử dụng mọi cơ hội để thăm dò phản ứng của nước ngoài đối với cái chết của ông có thể xảy ra.
Mao và Tanaca có nhiều điểm giống nhau. Cả hai người không học ở đâu cả, cả hai đạt được địa vị của mình bằng đấu tranh khốc liệt.
Mao cho rằng Tanaca là một chính khách dũng cảm và cương quyết, có tác động đến vị trí của đảng dân chủ tự do cánh hữu.
Tổng thống R. Nixon và thủ tướng Tanaca cũng có cái gì đó giống nhau. Cả hai bị buộc phải từ chức. Nhưng Mao tiếp tục mời họ đến Trung quốc Trung quốc, coi họ là những người bạn cũ.
Tình hữu nghị của Trung quốc với Mỹ chưa bao giờ đi xa hơn như Mao muốn. Vấn đề về Đài Loan vẫn còn chưa được giải quyết, quan hệ ngoại giao chính thức giữa Trung quốc và Mỹ chỉ được thiết lập vào năm 1979, ba năm sau khi Mao qua đời, thời tổng thống Jimy Carter.