Trong những năm đầu tiên làm với Mao, nhiều thứ bệnh lặt vặt làm tôi không an tâm: sốt thông thường, viêm phế quản, nứt da, chai ở chân và ăn không ngon miệng. Do táo bón xảy ra hai ba ngày một lần lại phải thụt cho ông. Mao là chủ đề các cuộc thảo luận hàng ngày. Khi việc tiêu hoá đạt được bình thường, đó thực sự là ngày lễ đối với những người làm việc quanh Mao.
Dường như đối với tôi, những cơn mất ngủ của Mao choán hết thời gian của tôi. Mao là con người có năng lượng vô tận. Bản chất ương ngạnh, ông tỏ ra không chấp nhận những quy tắc và chuẩn mực xác định. Ông thậm chí chống lại sự độc quyền khắc nghiệt của thời gian. Quá trình bơi và ngủ nghê chỉ làm tiêu tốn thời gian một cách vô ích. Cơ thể của Mao không thưà nhận nhịp sống sinh học ngày đêm, và ông có thể thức nhiều hơn người khác, đồng thời mọi hoạt động lớn của ông đều diễn về ban đêm. Ví thử nếu ông ngủ vào lúc nửa đêm, thì ngày hôm sau ông cũng chẳng hề nhớ lại giấc ngủ đến ba giờ sáng, và ông cũng không thể đóng nổi mắt tới 6 giờ sáng. Chu kỳ mất ngủ của ông ngày một dài thêm, và có lúc ông không thức liền vài ngày. Sau đó ông ngả vào giường và ngủ mê mệt 10-12 tiếng liền. Tôi thật khó nói được từ lúc nào Mao bắt đầu cái kiểu sống như thế. Có thể, nhịp sống sinh học của ông có từ lúc cha sinh mẹ đẻ, vì rằng Phó Liêm Chương kể cho tôi nghe ông đã chữa cho Mao cơn mất ngủ từ đầu những năm 30. Không còn nghi ngờ gì nữa, hai thập kỷ đấu tranh công nhân và những năm nội chiến với Quốc dân đảng đã tác động tới ông.
Trong những giờ mà Mao không thể ngủ được, ông phải sử dụng phươnng cách hoạt động thân thể: bơi, khiêu vũ, đi bộ dạo chơi. Trong những năm 30 bắt đầu dùng thuốc ngu. Đầu tiên Phó Liêm Chương cho ông dùng thuốc veronal, nhưng sau 1949 dùng thuốc amital natri, một loại thuốc gây ngủ mạnh, dạng bột theo liều 0,1 gam. Nếu một liều không xong, thì ông cho Mao dùng 2, ba và 4 liều một lần uống. Nhưng sớm phải ngừng sử dụng. ông vẫn mệt mỏi vì thiếu ngủ, và thường xuyên lắc lư từ bên này sang bên kia. Những người quanh ông thậm chí rất lo rằng Mao có thể gục ngã và bị vỡ đầu hoặc may mắy hơn là gẫy xương. Phó Liêm Chương bắt đầu sợ rằng Mao tình cờ có thể dùng một lượng rất lớn thuốc ngủ mạnh, và bí mật không cho Mao biết, thay cho liều 0,1 gam, thì Phó chỉ đưa những gói chưa thuốc hàm lượng từ 0,05 đến 0,075 gam. Nhưng cơ thể Mao đòi hỏi theo mức của mình, và Chủ tịch cũng vẫn tăng liều uống.
Tôi yên tâm là Mao đã quen thuốc ngủ. Tôi chưa khi nào kê đơn cho bệnh nhân của mình mạnh đến như vậy, và tôi cũng như Phó Liêm Chương bắt đầu lo ngại về sự nguy hiểm do dùng quá liều. Khi tôi lần đầu tiên biết tất cả việc này, tôi khuyên Mao bỏ thuốc ngủ.
- Nghĩa là đồng chí muốn tước giấc ngủ của tôi phải không?
Ông phản ứng và vẫn yêu cầu thuốc ngủ. Tôi chẳng có cách nào để buộc Mao ngừng dùng thuốc ngủ. Tôi là thuộc cấp của ông, và ông chẳng thèm đếm xỉa ý kiến của tôi.
Một lần ông gọi tôi đến và hỏi:
- Theo đồng chí một năm có bao nhiêu ngày?
Mao thích đặt các câu hỏi thông thường dường như nó chứa một đđiều bí mật nào đó.
- Ba trăm sáu nhăm ngày, tất nhiên - tôi trả lời.
- Đối với tôi một năm cả thảy chỉ có 200 ngày thôi, vì rằng tôi ngủ ít - Mao nói.
Thoạt đầu tôi không hiểu, nhưng sau đó biết rằng ông tính số lần ngủ trong thời gian một năm.
- Nếu tính cả số giờ không ngủ, thức trắng và quy lại thành ngày, thì một năm của Chủ tịch sẽ là 400 ngày đấy. Từ quan điểm này thì cuộc đời đồng chí, thưa chủ tịch, tiến gần đến bất tử rồi đấy, có một bài thơ nói về việc này: Mặt trời và mặt trăng không hiện ra vì núi thì không thể nhận ra hàng nghìn năm đã qua.
Mao cười phá lên và nhận xét:
- Nghĩa là, theo đồng chí, cơn mất ngủ của tôi - đó là con đường đến bất tử phải không?
Điều này, tất nhiên, là đùa; tôi muốn ông giảm bớt căng thẳng tôi do mất ngủ.
Tôi khuyên ông thay đổi cách chữa. Dù rằng chất amital natri mà Phó Liêm Chương kê đơn vẫn tương đối có hiệu quả và gây cho Mao giấc ngủ sâu, nhưng nó tác dụng không tức thời.
Vì thế tôi gợi ý Mao trước khi ăn hai mươi phút uống hai gói bột thuốc ngủ, để nó tác dụng tương đối nhanh. Ngay lập tức sau khi ăn, tôi khuyên Mao uống một viên amital natri để đảm bảo giấc ngủ được dài. ở điểm này tôi không đồng ý với Phó Liêm Chương khi ông giấu Mao hạ liều lượng thuốc. Tôi cho rằng bệnh nhân của chúng tôi cần phải biết liều lượng mà họ uống. Thuốc đưa cho Mao từ tay các nhân viên bảo vệ, gốc gác nông dân nghèo, ít học. Bây giờ tôi chịu trách nhiệm về sức khoẻ Mao và vì thế, để tránh trường hợp không may nào đấy xảy ra, đích thân Mao phải kiểm tra được lượng thuốc uống.
Bởi vì Phó Liêm Chương là thủ trưởng của tôi, tôi phải báo cho ông ta biết tất cả lý do. Ông không phản đối. Nhưng khi tôi bắt đầu tán dương phương pháp mới điều trị lãnh tụ, thì Phó Liêm Chương tỏ ra hoài nghi nhắc lại một câu châm ngôn Trung hoa: Một bác sĩ hay khoe khoang - đó là liều thuốc tồi, nhưng dù vậy ông vẫn đồng ý cho thử.
Đợt điều trị tỏ ra có hiệu quả, và tôi giảm lượng thuốc ngủ tác dụng nhanh và thay vào đó là glucoza. Kết quả cũng không tồi. Khi tôi kể cho Mao nghe việc này, ông nhận xét:
- Chẳng lâu nữa, đồng chí điều trị cho tôi chỉ bằng glucoza.
Cũng có những ngày, khi Mao lo lắng đến mức phương pháp của tôi thậm chí giúp không được gì. Thực ra cơn mất ngủ của Mao do hai nguyên nhân. Ngoài nhịp điệu sinh họ còn có cả sự căng thẳng.
ở Mỹ người ta coi căng thẳng cũng là bệnh. Dù vậy triệu chứng này khá phổ biến ở Trung quốc. Xuất hiện không những ở Mao, mà còn cả ở vợ ông. Sự căng thẳng thường là hậu quả của những sự thất bại tinh thần. Từ lâu người ta cho là bệnh tâm thần và thất bại về mặt thần kinh là do nhục nhã và xấu hổ. Vì thế cơn mất ngủ, gây ra chính bệnh căng thẳng được giải thích là do nguyên nhân sinh lý học. Ngoài việc làm mất ngủ dẫn đến căng thẳng cũng dẫn đến các chứng sau: nhức đầu, đau kinh niên, lo lắng, tăng áp huyết, giảm tình dục, bệnh da liễu, rối loạn tiêu hoá, đái dắt, dễ bực tức và nhiều bệnh khác.
Dần dần tôi đi đến kết luận rằng sự căng thẳng phổ biến nhiều nhất trong đất nước bắt đầu từ chế độ cộng sản do sự hạn chế tự do cá nhân và cảm giác tuyệt vọng của tồn tại. Tôi va chạm với vấn đề này từ 1952, khi anh trai tôi rơi vào căn bệnh căng thẳng nặng. Anh tôi hiếm khi tăng huyết áp và xuất hiện hội chứng khác của căn bệnh này. Tất cả điều này xảy ra trong những năm đấu tranh khốc liệt của đảng với ba sai lầm cơ bản: hối lộ, lãng phí, quan liêu. Sự căng thẳng tiếp theo xảy ra năm 1957 trong thời gian chiến dịch chống khuynh hữu trong đảng, hậu quả của nó là hại hàng triệu người vô tội. Trong những năm cai trị Quốc dân đảng, tôi không nhận thấy hiện tượng như thế. Khi đó xấu dở gì đi nữa, thì người ta vẫn có lối thoát. ở chế độ cộng sản không có sự lựa chọn - buộc phải sống theo luật lệ của họ và giữ mồm giữ miệng. Hệ thống cộng sản gây ra hai bệnh tinh thần nghiêm trọng - bệnh thần kinh phân lập và bệnh khùng do bị đè nén.
Mọi sự thất vọng còn lại liên quan với định kiến tư sản và thiếu ý chí được xem là vấn đề tư tưởng. Đối với dân thường Trung quốc, thì bệnh tâm thần do những trắc trở cá nhân được xem là do nhục nhã và xấu hổ. Đó là sự mất mặt, nghĩa là mất đi sự kính trọng dưới con mắt người khác. Vì thế tất cả các vấn đề cá nhân phức tạp, người Trung quốc thường giải quyết trong nội bộ gia đình. Kiểu này tiếp diễn đến khi Mao chết. Bác sĩ, theo đúng quy tắc, không đi tìm nguyên nhân thất vọng tinh thần và căng thẳng, mà chỉ kê đơn thuốc cho người không may.
Đàm luận với Mao về cơn mất ngủ của ông và những chứng bệnh lặt vặt khác, tôi thậm chí không dám đả động đến chữ căng thẳng, bởi vì biết là điều này làm Mao nổi cơn thịnh nộ và tôi có thể bị mất việc. Ngay cả Mao cũng không đả động đến từ này. Khi nào bị ức chế, ông nói việc tôi là ông cảm thấy bất hạnh sâu và nhờ tôi giúp. Tôi cho ông nhân sâm và vitamin B và C. Sự căng thẳng của Mao là đương nhiên. Dày vò ông là bệnh mất ngủ. ngứa ngáy ở da, đầu óc quay cuồng và liệt dương. Ông thường xuất hiện những ý nghĩ độc đoán, sự lo lắng vô cớ và đa nghi. Có một lần trong thời gian nghi lễ chính thức đầu ông bỗng quay cuồng, và những vệ sĩ đứng bên cạnh phải đỡ ông khỏi ngã. Và những trường hợp như thế xảy ra tương đối thường xuyên. Tôi còn nhớ, trong buổi Mao tiếp đoàn đại biểu châu Phi, các vị khách đang lanh lợi hội đàm với ông thì đột nhiên họ tỏ ra lúng túng khi thấy Mao lảo đảo. Tôi lập tức chạy lại giúp ông. Trong cac chuyến đi, tiêu dao, và tiếp chính thức chúng tôi luôn luôn bên cạnh để trong trường hợp cần thiết đỡ ông khỏi ngã. Khi Mao nghỉ, thì những hiện tượng tương tự không xảy ra. Tôi thường xuyên kiểm tra sự làm việc của tim và huyết áp của ông, chẳng thấy gì lạ cả, tất cả đều bình thường.
Phần đông nhân dân khi có khúc mắc vấn đề riêng tư đều bị căng thẳng. Đời sống của lãnh tụ trôi đi không có hoảng loạn đặc biệt gì về thần kinh. Ông thường làm người khác bất hạnh. Sự căng thẳng của ông là hậu quả của tính đa nghi quá mức, và sự thiếu tin tưởng trong quan hệ với của ông với các chiến hữu. Ông không có bạn, và chỉ có ít người tận dụng được thiện chí của ông. Hội chứng căng thẳng xuất hiện mạnh ở Mao đặc biệt trong trong thời kỳ đấu tranh dữ dội giành quyền lực trong nước. Mất ngủ suốt tuần và thậm chí hàng tháng đã làm kiệt sức lãnh tụ. Trong hoàn cảnh tranh giành chính trị quyết liệt với phe đối lập Mao, việc điều trị cơn mất ngủ của lãnh tụ gần như vô vọng.
Mao rất muốn làm cải cách trong nước, không cần tính đến điều kiện kháh quan. Tiến độ chậm chạp của cuộc cải tạo ở nông thôn làm ông điên tiết, dù rằng từ đầu những năm 50 việc tập thể hoá thực tế đã hoàn thành và nông dân đã nhận ruộng. Thế nhưng vẫn còn một số ít ruộng đất nằm trong tay sở hữu riêng. Để tiến nhanh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung quốc, Mao xúc tiến ý tưởng xây dựng kinh tế tập thể, không cần chờ làm xong việc cơ giới hoá nông nghiệp, quá trình cơ giới hoá trong hoàn cảnh một đất nước lạc hậu như thế, lại bị tàn phá phải kéo dài hàng chục năm.
Những hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên xuất hiện năm 1953 nhưng xu hướng xây dựng liên hợp kinh tế nông nghiệp lớn khác thường và việc tước đoạt từ tay nông dân phương tiện sản xuất và gia súc đã gây ra chống đối mạnh mẽ không những từ phía các người đối lập chính trị lãnh tụ, mà còn từ phía nông dân. ở một số vùng kinh tế tập thể bị tan rã nhanh như lúc nó được lập ra. Mao trút tội xuống người lãnh đạo ban nông nghiệp Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc Đặng Tử Huy và những người khác. Ông buộc tội họ là chậm chạp, thiếu cương quyết và thậm chí cả tôi phá hoại ngầm. Đặng Tử Huy bị mất chức, cơ quan do ông lãnh đạo bị giải tán. Thật ra, người ta không gạt Đặng Tử Huy ra khỏi guồng máy, mà thuyên chuyển ông sang cương vị nhỏ hơn. Về sau Mao tâm sự với tôi:
- Đặng Tử Huy đi cùng với chúng tôi trong những năm cách mạng. Tuy nhiên sau khi giải phóng Trung quốc, ông ta chọn con đường không đúng.
Sự chia rẽ của Mao với chiến hữu trở nên gay gắt từ mùa hè 1955, khi những người lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc họp hội nghị ở Bắc Đới Hà. Tại đấy Mao chống lại ý kiến tập thể Ban chấp hành trung ương và đường lối chung của đảng, đưa ra cách thức riêng, theo Mao, đi tới phát triển của Trung quốc.
Tôi cố gắng tiếp xúc ít hơn với chính trị, và trong những năm đầu tiên cạnh Mao, tôi chỉ quan tâm bởi sự phân tích của ông và cố gắng điều trị những cơn cơn mất ngủ và liệt dương của lãnh tụ. Lúc ấy tôi không biết gì cảvề cuộc đấu tranh mạnh mẽ mà Mao tiến hành chống những người đối lập ông, nhiều người trong số ấy những năm nội chiến từng là chiến hữu của ông. Trong thời gian từ mùa thu 1955 đến mùa xuân 1956 Mao tổ chức một loạt các cuộc họp, ở đó ông trình bày chương trình của mình cải cách chủ nghĩa xã hội trong nước. Cuối mùa thu 1955 ông bắt đầu viết cuốn sách: Sự đi lên chủ nghĩa xã hội của nông thôn Trung quốc, chọn những bài diễn văn phaty biểu của mình về vấn đề tập thể hoá và viết lời mở đầu và bình luận cho cuốn sách. Ông chuẩn bị bài phát biểu quan trọng trước Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc như thế để cố gắng lôi kéo các ủy viên trung ương đảng chấp nhận quyết định về đẩy mạnh cải cách xã hội ở nông thôn. Trong thời kỳ căng thẳng này cơn mất ngủ trở thành đồng minh của ông. Khi viết sách và soạn các bài đem in, Mao lúc đó không ngủ vài đêm liền, lúc thư dãn ông đi bơi. Do đó, cơ thể khỏe mạnh của ông bắt đầu rệu rã, và ông gọi tôi.
Khi tôi đến bể bơi, Mao nằm trên ghế dài. Trên khuôn mặt đỏ ửng của ông lộ vẻ kích động mạnh và trông rất mệt mỏi. Ông mời tôi cùng bơi, nhưng tôi lịch sự từ chối, nói là thậm chí không kịp ăn sáng và vẫn còn tiếp tục công việc cả trong bệnh viện. Mao cười và nói:
- Tôi cũng chưa ăn và chưa ngủ, nhưng cũng đã kịp nhảy xuống nước bơi được một giờ rồi. Tôi uống toa thuốc của đồng chí ba lần, nhưng không thể ngủ được. Đồng chí, có lẽ, lại giảm đô phải không?
- Đâu có thế, đô thuốc vẫn như trước đây thôi - Tôi trả lời.
- Thế thì đồng chí làm cái gì đó rồi để tôi mất ngủ - Mao giận dữ.
Tôi kê đơn cho Mao dung dịch chloralhydrade, dù Phó Liêm Chương nói với tôi rằng Mao không uống thuốc dạng nước. Vì thế tôi báo trước cho Mao là thuốc sẽ đắng.
Mao trả lời:
- Không sao đâu, tôi thích tất cả các thứ cay đắng.
Tôi đến chỗ tủ thuốc đặc biệt, chứa thuốc dành cho Mao và các ông chủ khác của đảng. Thuốc được mua từ Hồng Kông từ một hãng nào đấy và chủ yếu là thuốc Mỹừ Anh, Nhật. Tất cả thuốc được kiểm tra cẩn thận, do Phó Liêm Chương lãnh đạo. Để tăng cường biện pháp an toàn, tất cả thuốc kê cho Mao đều mang tên Lý Đăng Sơn. Tên Lý năm 1947 là bí danh của Mao. Lúc ấy do sự đe doạ tấn công của quân Quốc dân đảng, những người cộng sản buộc phải rút khỏi Diên An. Trong khi dược sĩ tìm thuốc, thì Phó Liêm Chương đến và lại nhắc tôi rằng Mao không thích thuốc nước, và cũng nhận xét rằng chloralhydrade làm cho Mao rất khó chịu về mùi, và Chủ tịch có thể cáu chúng tôi. Tôi trả lời rằng Mao đã được báo trước điều này và đồng ý uống thuốc này, và tôi nói thêm là cần nhanh lên, vì rằng ông đang đợi tôi.
- Sau này tôi sẽ thông báo cho đồng chí kết quả.
Tôi trả lời và đi ra cổng.
- Đồng chí đã hành động vội vàng chẳng hỏi gì tôi cả!
Phó Liêm Chương bỏ đi, vẻ khó chịu.
Phó Liêm Chương cho rằng tôi là thuộc cấp của ông và bắt tôi phải cung cấp tin tức cho ông về tất cả cái gì liên quan tới sức khoẻ của lãnh tụ. Phó Liêm Chương rất tự hào rằng đã có nhiều năm quan hệ tốt với Mao, và tin rằng Mao sẽ sướng tai nghe lời khuyên của ông ta. Nhưng thời thế đã đổi thay, và giờ đây Mao lại tin tôi hơn.
Chủ tịch chờ tôi ở bể bơi và mời tôi ăn trưa với ông.
- Thuốc nên uống trước bữa ăn - tôi nói.
Sau đó tôi rót 15 mililit dung dịch 50% chloralhydrade vào chén và đưa cho Mao. Ông uống một hơi và nói là vị nó không phải khó uống như vậy và thậm chí còn giống rượu vang, mà Mao hiếm khi dùng. Ông nói thêm:
- Bây giờ xem nó tác dụng ra sao!
Chúng tôi còn chưa ăn xong bữa, thì thuốc đã bắt đầu ngấm. Mắt Mao đờ đẫn, và ông bắt đầu thẫn thờ. Cuối bữa ông gần như không còn biết gì nữa. Tôi dìu ông vào phòng ngủ bên cạnh bể bơi, và lúc hai giờ thì ông đã chìm trong giác ngủ ngon lành.
Buổi chiều một vệ sĩ gặp tôi và với giọng ngưỡng mộ gọi tôi là phù thuỷ.
Mao đã ngủ 10 tiếng liền thành công. Khi tôi đến gặp ông, ông vẫn còn nằm trên giường, mắt nhắm nghiền. Khi mở mắt, lấy thuốc lá và hỏi:
- Đồng chí cho tôi thuốc gì hay thế?
- Đây là một loại thuốc ngủ. Người ta biết nó từ thế kỷ thứ 12, tác dụng của nó đối với cơ thể đã được biết cặn kẽ. Không có chống chỉ định nào cả.
- Vì sao đồng chí không đưa thuốc này tôi từ trước?
Tôi giải thích:
- Người ta nói cho tôi rằng Chủ tịch không thích thuốc nước, ngoài ra, vị của nó khá đắng khó uống, và gần đây chưa có thuốc này.
Thực ra giữa amital natri và chloralhydrade chẳng có gì khác nhau đáng kể. Đơn giản là Mao bị kích thích bởi những cơn mất ngủ đến nỗi trò quảng cáo thuốc của tôi, có thể, gây nên hiệu quả tâm lý thuần tuý.
Tôi cảm thấy Mao biết rõ rằng sự căng thẳng của ông gây ra bởi nguyên nhân tâm lý, và ông tin vào hiệu quả của tác dụng thuần tuý tâm lý. Khi Mao còn nhỏ, mẹ ông bán khoán ông cho nhà Phật để cầu Phật giúp đứa con bệnh tật của bà. Sau đó Mao hồi sức rất nhanh.
Mao nói với tôi:
- Tôi luôn luôn chống lại việc phá chùa chiền. Những người nghèo khi đau ốm tìm sự giúp của ông trời. Họ cầu cứu Phật để chữa khỏi bệnh, nhưng thay vì giúp đỡ họ chỉ nhận được một nhúm tàn hương. Tuy thế thậm chí chỗ tàn hương đó cũng làm giảm bớt đau đớn của họ, làm cho họ minh mẫn và trả lại sức khoẻ cho họ. Chẳng lẽ thuốc ngủ lại không giống tàn hương hay sao? Chẳng lẽ nó không làm tôi minh mẫn của tôi? Tôi cảm thấy rằng trong tủ thuốc của đồng chí hãy còn không ít thuốc thần diệu.
Sau cuộc độc thoại lạ lùng này, Mao tuyên bố:
- Bây giờ đồng chí có thể về nhà và ngủ một lúc đi. Tôi lại bắt tay vào công việc.
Từ đó Mao chỉ chấp nhận chloralhydrade và thường uống nó với seconal natri. Đến lúc này ông đã bắt đầu quen thuốc. Chúng không những giúp ông ta ngủ được, mà còn kích thích khẩu vị, thậm chí tác dụng như ma túy. Ông chuộng trạng thái lâng lâng gây ra bởi một số thuốc và và ông thường dùng nó khi cần tiếp khách hay họp hành. Ông cũng không quên chúng cả trong các buổi tối khiêu vũ.