Sau ba tháng ở Tiên Sơn, đầu tháng 11 năm 1965 Uông Đông Hưng bị triệu về Bắc Kinh để dự một cuộc họp khẩn cấp. Hẳn cuộc họp này liên quan đến một vấn đề quan trọng nào đó, nhưng chúng tôi ở trong làng, bị tách rời với thế giới bên ngoài, nên chẳng hay biết chuyện gì đã xảy ra ở bên ngoài. Uông Đông Hưng cho rằng, chỉ vài ngày sau ông sẽ trở lại. Hàng tuần trôi qua. Mùa đông kéo tới cùng với cái lạnh và những cơn mưa ảm đạm. Công việc ngoài đồng cũng ngưng lại. Tôi bất đầu tỏ ra chán nản, lo lắng và cảm thấy mình ở không đúng chỗ. Uông Đông Hưng mãi vẫn chưa về. Rốt cuộc. cuối tháng l2 ông ta cũng xuất hiện. Ông chọc tôi: Chắc đồng chí không nghĩ tôi lại đi lâu như vậy phải không? Nhưng bỗng nhiên ông tỏ vẻ nghiêm trọng: Có chuyện đã xảy ra. Uông Đông Hưng đã không về Bắc Kinh. Ông đến gặp Mao ở Hàng Châu. Nhiều cán bộ cao cấp - Bí thư thành ủy Bắc Kinh Bành Chân, Tổng tham mưu trưởng La Thụy Khanh, chánh Văn phòng đảng Dương Thượng Côn và Chủ nhiệm ủy ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất - đang vướng vào những rấc rối về chính trị. Đảng triệu tập những phiên họp kín để giải quyết từng trường họp một. Nhưng đến nay, người ta vẫn chưa thực hiện những biện pháp cụ thể. Trong những trường hợp đó, đã có một trường hợp được quyết định. Dương Thượng Côn kẻ đầu tiên đã trêu tức Mao trong vụ Những lá cờ đen và là người chịu trách nhiệm trong việc gắn hệ thống nghe trộm trên đoàn tàu của Mao, bị cách chức. Uông Đông Hưng được bổ nhiệm làm người kế nhiệm ông ta. Uông vẫn đảm nhiệm chức Chủ nhiệm Văn phòng của các lực lượng an ninh, nhưng rời ghế thứ trưởng Bộ công an. Với tư cách là Chủ nhiệm Tổng văn phòng, ông có ảnh hưởng lớn hơn nhiều. Uông kể: Tôi cho rằng, tôi không phù hợp với chức vụ này và tôi đã đề cử Trần Bá Đạt, nhưng Chủ tịch từ chối. Khi tôi đề nghị Hồ Kiều Mục làm Chủ nhiệm Tổng văn phòng, còn tôi sẽ làm phó cho ông ta thì Mao nói Hồ Kiều Mục thuộc loại người quá nhỏ mọn. nên không thích hợp với công việc hành chính. Chủ tịch cứ nhất quyết đề nghị tôi phải đảm nhận chức vụ này.
Dĩ nhiên, tôi lập tức suy luận, những biến đổi chính trị này sẽ ảnh hưởng đến tôi ra sao. La Thụy Khanh và Dương Thượng Côn là những người đã đề nghị cho tôi được làm bác sĩ riêng của Mao. Nếu cuộc thanh trừng này lan xuống cấp dưới tôi cũng sẽ bị vạ lây. Thế nhưng người thực sự bênh vực tôi là Uông Đông Hưng lại được thăng chức. Có lẽ nhờ vậy mà tôi thoát hiểm, nhưng tôi có cảm giác không được tốt lành cho lắm.
Uông Đông Hưng đã nhìn thấu tình hình, ông quay lại Giang Tây không chỉ để hoàn tất chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa của chúng tôi, mà còn để tránh né những cuộc phân tranh quyền lực chính trị, ông muốn ngồi ngoài quan sát trận đấu này cho đến khi tất cả các vấn đề chưa được giải đáp đều trở nên rõ rằng. Chúng tôi cũng nên ở lại Giang Tây, vì các cuộc thanh trừng cũng chẳng chừa cấp dưới. ở nông thôn, chúng tôi sẽ an toàn hơn.
Tôi ngày càng cảm thấy khó chịu. Mặc dù tôi luôn luôn không muốn dmh đến chính trị. nhưng tôi thấy tôi cần phải biết được những biến động chính trị đang diễn ra. Tôi vẫn đang ở nơi yên ổn. nhưng tôi phải biết rõ hơn những gì đang diễn ra ở trung tâm quyền lực. Mao đang nghĩ gì và ông đang có những kế hoạch gì. Việc bốn cán bộ lãnh đạo của đảng bị công kích chẳng làm tôi ngạc nhiên. Sau vụ đặt máy nghe trộm, Mao không còn tin Dương Thượng Côn nữa. Mặc dù, thực ra là lỗi của giới lãnh đạo cao cấp nhất của đảng - những người như Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ, nhưng bao giờ cũng vậy, trước tiên Mao tấn công các cán bộ trung cấp.
Đã từ lâu, Bành Chân không được Mao tin tưởng. Năm trước, Mao kể cho tôi nghe rằng, Khang Sinh nghi ngờ bí thư thành ủy Bắc Kinh là một kẻ chống Mao. Theo nhận biết của tôi, Bành Chân lúc nào cũng tỏ ra trung thành với Mao. Chẳng hạn, bao giờ ông ta cũng hỏi qua tôi về tình hình sức khỏe của Mao. Khang Sinh quả quyết rằng Bành Chân đã phê phán chính sách Ba ngọn cờ hồng của Mao và yêu cầu xét lại tính cách mạng của chính sách này.
Việc Lục Đỉnh Nhất gặp rắc rối về chính trị cũng không làm tôi sửng sốt. Với tư cách là Chủ nhiệm phân ban tuyên truyền. Lục Đỉnh Nhất chịu trách nhiệm về lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật. Bởi vì Giang Thanh và Kha Thanh Thế tuyên truyền cho trường phải lãng mạn cách mạng và Mao lại ủng hộ họ, nên vấn đề của Lục Đỉnh Nhất hầu như không thể tránh được.
Tôi biết rất rõ La Thụy Khanh. Từ khi tôi đảm nhận nhiệm vụ làm bác sĩ cho Mao, tôi cộng tác chặt chẽ với ông ta. Đối với La Thụy Khanh, vấn đề an ninh của Mao bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và đúng ra, chưa bao giờ ông bất trung với Mao. Nhưng ông có nhiều quan điểm khác với Lâm Bưu và vì thế khác luôn cả với Mao.
Kể từ cuộc tập trận quy mô lớn gần khu lăng nhà Minh vào tháng 6 năm 1964. Tôi mới biết La Thụy Khanh gặp rắc rối. Cuộc tập trận với sự tham gia của binh lính vùng Bắc Kinh và Tế Nam do La Thụy Khanh, Dương Vĩnh và Dương Đắc Chí cùng chỉ đạo. Lâm Bưu được mời đến với tư cách là quan sát viên, nhưng ông ta từ chối, không tham dự, ông không quan tâm đến những cuộc diễn tập quân sự.
Đối với Mao, khi ông đã chứng kiến vài buổi tập trận. thì cuộc tập trận này lại chứng minh hùng hồn cho cái thuyết của Lâm Bưu rằng con người và lý tưởng còn quan trọng hơn cả khí. Một nhóm chiến sĩ không một tấc sắt trong tay chiếm được cả một tòa nhà năm tầng đã làm Mao rất cảm kích. Cuộc tập trận đã khiến ông nhìn nhận rằng chính nước Trung hoa lạc hậu và kém phát triển sẽ có thể chiến thắng được kẻ thù mạnh nhất được trang bị tối tân nhất. kể cả kẻ thù hùng mạnh ở phương Bắc. Mao nói với La Thụy Khanh: Liên-xô là một người khổng lồ, nhưng không phải là không có điểm yếu. Chừng nào chúng ta biết cách chống người khổng lồ, chừng đó chúng ta không có gì phải sợ. Nhưng Mao cũng biết rằng, La Thụy Khanh khăng khăng đòi hiện đại hóa quân đội Trung quốc và bác bỏ thuyết của Lâm Bưu. Có lần Mao nói đùa: Đối với La Thụy Khanh, quần áo mà đồng chí ấy đang mặc trên người cũng chẳng có giá trị.
Tôi được biết thêm về chuyện phiền toái của La Thụy Khanh qua tài liệu của hải quân mà ủy ban quân sự đã chuyển cho Mao và bây giờ được Uông Đông Hưng mang từ Hàng Châu về. Vợ Lâm Bưu là Diệp Quần đã công kích La Thụy Khanh. Tháng 11 năm 1965, trước khi Uông Đông Hưng được triệu về ít lâu, bà ta bay đến Hàng Châu để phàn nàn với Mao rằng La Thụy Khanh cưỡng lại khẩu hiệu Hãy nhường bánh lái cho chính trị của chồng bà. Mao đứng về phía Diệp Quần. Ông đã ghi trong tài liệu mà Uông Đông Hưng đưa cho tôi xem: Kẻ nào không muốn nhường bánh lái cho chính trị và chỉ biết nói mồm, nói được mà không làm được, kẻ đó đã tuyên truyền cho chủ nghĩa cơ hội. Chúng ta phải cảnh giác trước thái độ này.
Chính ủy không quân Vũ Từ Tuấn đã liên kết với Diệp Quần chống lại La Thụy Khanh và quả quyết rằng ngay từ đầu La Thụy Khanh đã phản đối việc bổ nhiệm Lâm Bưu làm người thay thế Bành Đức Hoài và bây giờ lại đòi Lâm Bưu từ chức. Khi Lâm Bưu ốm và không thể thường xuyên gặp La Thụy Khanh như quy định. La Thụy Khanh nói rằng: Nếu đồng chí ấy hay ốm như vậy, thì làm sao đảm đương được việc gì? Nên có một người khác đảm nhận công việc của đồng chí ấy.
La Thụy Khanh bực tức về những nổ lực chính trị của Diệp Quần và đã khuyên bà ta nên quan tâm nhiều hơn đến ông chồng mắc bệnh kinh niên của bà. La cho rằng, nếu sức khỏe của Lâm Bưu tốt hơn thì ông ta có thể chuyên tâm hơn vào những công việc quan trọng của bộ ông. Vũ Phát Tiên khẳng định, thực ra La Thụy Khanh tìm cách để Lâm Bưu từ chức. Do đó La Thụy Khanh đã qua Lưu Nha Lâu, tổng tư lệnh không quân, tác động đến Diệp Quần để bà thuyết phục chồng từ chức. Hình như La Thụy Khanh còn nói: Ai cũng đến lúc phải rút khỏi chính trường, cả Lâm Bưu cũng vậy. Chính La Thụy Khanh muốn đoạt cái ghế trong ủy ban quân sự của Lâm Bưu.
Diệp Quần và Vũ Phát Tiên không chấp nhận đề nghị của La Thụy Khanh, còn Mao lại đứng về phía hai người này. Giữa tháng 12. La Thụy Khanh bị tước hết tất cả những chức vụ quan trọng trong quân đội. Đối với tôi việc La Thụy Khanh bị hạ bệ báo hiệu một điều chẳng lành. Qua Uông Đông Hưng, tôi nhận thấy Chu Ân Lai, người đứng ra bênh vực La Thụy Khanh trong vụ này và bất đồng với Lâm Bưu, cũng tỏ ra lo lắng. Thủ tướng Chu Ân Lai yêu cầu Uông Đông Hưng phải khẩn cấp trở về Bắc Kmh. Từ năm 1964. Chu Ân Lai đã phàn nàn với Uông Đông Hưng về tình hình thiếu nhân sự có khả năng điều hành công việc hành chính ở cấp cao nhất của chính phủ. Bành Chân lo về công việc hành chính của đảng, La Thụy Khanh đảm nhiệm công việc hành chính của quân đội, còn Chu Ân Lai lo về chính phủ. Bây giờ, vì Bành Chân và La Thụy Khanh đều bị công kích, nên Chu ân Lại lo ngại việc ổn định tình hình ở Bác Kinh sẽ còn khó khăn hơn nhiều. Ông giục Uông Đông Hưng phải nhận chức vụ mới của Uông càng sớm càng tốt. Nhưng Uông đã cố tình ở lại Giang Tây cùng với các nhân viên nhóm Một đến tháng 4 năm 1966.
Tôi cảm thấy vui, bởi trong hoàn cảnh này, ai có thể biết trước cái gì sẽ chờ tôi khi tôi trở về Bắc Kinh? Chẳng bao lâu, tôi cũng biết. Sau khi Uông Đông Hưng quay lại được ít hôm - tôi vẫn chưa hoàn toàn nắm bắt được hết những biến động chính trị - thì tôi bị Mao gọi về. Lúc đó là đầu năm 1966 và các nhân viên nhóm Một muốn thoải mái một chút trong những ngày này. Buổi sáng, tôi và y tá trưởng Ngô Từ Tuấn vật lộn với mưa rào và bùn lầy để tới làng Uông Đông Hưng đang ở. Chỉ những người thành thị chúng tôi mới tổ chức đón năm mới theo dương lịch, vì nông dân trong làng vẫn cứ theo âm lịch. Đối với họ, dương lịch không có ý nghĩa gì.
Uông Đông Hưng chỉ thị cho chúng tôi chuẩn bị thứ bánh cổ truyền mà người ta hay làm vào dịp tết. Một số người chúng tôi băm thịt và trộn nhân bánh, số khác nhào bột hoặc nặn bánh. Khi chúng tôi làm gần xong, bỗng nhiên một nhân viên an ninh của huyện Thang Nghiên xộc vào phòng. Anh ta thở hổn hển và mồ hội vã ra như tắm. Có người nào đó nói đùa: Làm gì mà nhắng lên thế. Đủ bánh mà.
Anh ta kéo tôi, Uông Đông Hưng và Vũ Tù Tuấn ra một bên và nói: Tôi cố gọi điện cho các đồng chí suốt hai tiếng đồng hồ liền mà không được.
Lúc ba giờ sáng anh ta nhận được một cú điện thoại của đảng ủy tỉnh Giang Tây. Chủ tịch bị ốm, ông đang ở Nam Xương, thủ phủ của tỉnh. Y tá Ngô Từ Tuấn và tôi phải lập tức đến chỗ ông.
Đi bằng xe Jeep cũng phải mất li hoặc 12 tiếng mới tới nơi. Chúng tôi phải lập tức khởi hành. Tôi muốn quay lại Thạch Tư để gói ghém một ít đồ, nhưng Uông Đông Hưng đã cấm tôi, vì chuyến đi phải được giữ bí mật. Uông Đông Hưng quyết định đi theo chúng tôi. Ông muốn biết bệnh tình của Mao nghiêm trọng đến mức nào và cũng muốn tranh thủ xem ở Bắc Kmh có chuyện gì mới không. Nếu không phải Chủ tịch ốm nặng, ông ta sẽ lập tức trở về làng.
Chúng tôi đi xe trên con đường đất không rải nhựa dưới trời mưa tầm tã. Bùn bắn cả lên kính, đến nỗi chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Chúng tôi nghỉ một chút ở nhà khách Thang Nghiên, rồi lại tiếp tục đi với tốc độ như sên bò. Đến khi xe chúng tôi ra đến một con đường trải đá răm, chúng tôi mới đi nhanh hơn. Nửa đêm, chúng tôi tới Nam Xương.
Đầu tiên chúng tôi gặp Phương Chí Xuân, chủ tịch hội đồng nhân dân tỉnh Giang Tây và một vài cán bộ đảng khác của tmh. Phương nói: Chủ tịch đã ở đây từ hai tuần nay và trước đây hai ngày thì ông trở bệnh.
Chúng tôi được dẫn tới nhà khách Bân Giang, nơi Mao và đoàn tùy tùng của ông đang trú ở đó. Thuộc hạ của Uông Đông Hưng là Trương Diêu Tự, viên chỉ huy của quân đoàn trung ương đang ở đó, cũng như Hứa Diệp Phụ, tay thư ký xảo quyệt đã đẩy được Lâm Khắc đi để chiếm chỗ. Một người phụ trách an ninh mới, Khắc Kỳ Hữu chịu trách nhiệm bảo vệ Mao, và một người phục vụ mới. Chu Phúc Minh, chịu trách nhiệm lo những nhu cầu cá nhân cho Mao. Một số tì nữ của Mao cũng có mặt trong nhà khách. Trong số họ có một cô y tá, hai cô thư ký riêng và cô phục vụ trên đoàn tàu đặc biệt của Mao là Trương Ngọc Phượng. Mao đem theo ba đầu bếp và một tá vệ sĩ. Nhưng chẳng có ai trong số những người thuộc ban cũ, nên bầu không khí khác hẳn và tôi cảm thấy khó chịu thế nào ấy.
Người duy nhất ở đây mà tôi quen là Chu Phúc Minh, người phục vụ mới của Mao, một anh thanh niên quê ở Hàng Châu, người mà trước đây đã vài lần cắt tóc cho Mao trước khi anh ta được vào nhóm Một (anh chàng Vương râu xồm đã về nghỉ hưu với khoản tiền hưu hậu hĩnh).
Từ Chu Phúc Minh tôi được biết những gì đã xảy ra. Ngày 26 tháng 12 Mao tổ chức sinh nhật lần thứ 72 của ông. Buổi chiều, ông uống chút rượu vang và sau đó cùng một số phụ nữ ra bờ sông Càn để đi dạo. Lúc đó trời nóng. nên mặc dù có gió mà Mao vẫn phanh cúc áo ngực ra. Buổi tối Chủ tịch ho và sốt. Ông không cho các bác sĩ ở Nam Xương khám bệnh, mà muốn tự dưỡng bệnh. Khi tình trạng của ông ngày càng xấu đi, ông vẫn từ chối mọi sự chăm sóc y tế, làm giới lãnh đạo đảng ở Giang Tây lo ngại. Cuối cùng, Mao phải cho gọi tôi và y tá Vũ tới.
Khi tôi bước vào phòng, ông đang nằm trên giường, mặt ông đỏ lựng. hơi thở nặng nhọc và ông ho liên tục. Ông nói: Tôi bị như vậy từ vài ngày nay rồi. Tôi tưởng rằng tôi sẽ tự khỏi nhưng không được. Vì vậy mà đồng chí phải tới
Trước sau thì tôi cũng là bác sĩ duy nhất được Mao tin tưởng. Ông bị sốt tới 40 độ và cơn cảm lạnh đã làm ông bị viêm khí quản. Tôi cho ông dùng kháng sinh để hạ sốt và ông chịu uống ngay. 5 giờ sáng, tôi và y tá Vũ trở về nhà khách ở Nam Xương, nơi Uông Đông Hưng và một số cán bộ lãnh đạo của tỉnh Giang Tây đang chờ chúng tôi. Nếu ngày hôm sau tình hình sức khỏe của Mao tốt hơn, thì ba chúng tôi sẽ trở lại nông thôn. Ngày hôm sau, tôi và Uông Đông Hưng cùng đến chỗ Mao. Thuốc kháng sinh đã có tác dụng, cơn sốt đã hạ. Nhưng Mao vẫn ho. Ông yêu cầu chúng tôi tiếp tục điều trị cho ông thêm vài ngày nữa. Uông Đông Hưng phải quay về nông thôn. nhưng tôi và y tá Vũ phải ở lại.
Uông bối rối. Mao đã điều chúng tôi về nông thôn để chúng tôi làm quen với khổ cực và tham gia vào chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa, rồi báo cáo lại cho ông về công việc của chúng tôi. Vậy mà bây giờ Mao chẳng hỏi han gì đến công việc của chúng tôi. Uông tự hỏi không biết Mao đang nghĩ gì nữa. Ngay tối hôm đó, Uông Đông Hưng trở về nông thôn mà chẳng được một câu trả lời.
Việc tiếp xúc với Mao ngày càng trử nên khó khăn hơn. bởi vì những cô tì nữ thay phiên nhau vây quanh Chủ tịch. Lúc nào cũng có một cô trong số họ túc trực bên ông. Chu Phúc Minh rất ít khi bước vào phòng Mao. Anh ta chỉ lấy thức ăn hay trà cho ông từ dưới bếp lên, còn việc phục vụ ông được một trong những cô nhân tình đảm nhiệm. Vì tôi biết, những cô gái này có quan hệ sâu kín với Mao và vì tôi không muốn xen vào những chuyện riêng tư của ông, nên tôi rất ý tứ trong việc chăm sóc sức khỏe cho ông. Tình trạng của ông trở nên đáng lo ngại. Tuy nhờ thuốc kháng sinh, sau vài ngày bệnh ho và viêm khí quản ở ông đã giảm, nhưng trong quá trình điều trị, tôi nhận thấy Mao uống thuốc ngủ nhiều một cách bất thường - gấp mười lần liều lượng thông thường. Thực ra, liều lượng mà Mao đang uống đủ để giết chết một người. Mặc dù với thời gian dùng thuốc an thần hết năm này qua năm khác, cơ thể Mao đã có một khả năng đáng kể chống lại tác dụng của thuốc an thần, nhưng tôi không thể xác định được giới hạn giữa khả năng đề kháng đó và liều lượng dẫn tới tử vong ở Mao. Chừng nào tôi vẫn còn ở nông thôn, chừng đó người ta không thể đổ lỗi cho tôi, nếu Mao dùng thuốc ngủ quá liều lượng. Nhưng ở Nam Xương, nơi tôi trực tiếp theo dõi tình trạng sức khỏe của ông, tôi là người hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với bất cứ chuyện gì xảy ra.
Việc dùng thuốc tăng liều của Mao có quan hệ với tình hình chính trị căng thẳng. Một số nhân viên ở đây cho tôi hay từ khi vợ Lâm Bưu là Diệp Quần đến gặp Mao hồi tháng 11 năm 1965 và báo cáo lại thái độ bất tuân lệnh của La Thụy Khanh đối với chồng bà ta, liều thuốc Mao dùng cứ tăng dần. Ngày 8 tháng 12, trong một cuộc họp mở rộng của ủy ban thường vụ của Bộ Chính trị ở Thượng Hải. Mao đã cách chức Tổng tham mưu trưởng của La Thụy Khanh và bổ nhiệm người phó của La là tướng Dương Thành Vũ lên thay. Kỳ họp kéo dài một tuần và Mao căng thẳng đến độ không ngủ được, ông uống thuốc liên tục hơn, thậm chí khi không muốn ngủ ông vẫn uống thuốc. Tôi phải giải thoát cho ông khỏi cơn nghiện này.
Sau khi tôi về đây được một tuần, tôi đến chỗ ông vào lúc nửa đêm. Mao đang nằm trên giường và đọc lịch sử đời hậu Hán (25 đến 20 sau công nguyên). Để chuẩn bị cho một trận đánh trên chính trường, ông thích đọc những tác phẩm lịch sử hơn là những tác phẩm của Mác. Ông nói: Lần này hình như đồng chí đã có thần được. Tôi lại khỏe lại rồi. Tôi đáp: Đó là loại thuốc rất bình thường nhưng đã có tác dụng.
Ông đưa tôi xem một bài báo và hỏi tôi có muốn đọc không. Thực ra tôi tới để nói về việc ông dùng thuốc ngủ chứ không phải để tranh luận về chính trị. Tôi đọc được hàng tít: Dẫn giải về vở kịch lịch sử Hải Thụy bãi quan. Bài báo này là một trong số bài báo ít ỏi mà tôi đã đọc qua ở Thạch Từ xa xôi và cách trở với thế giới bên ngoài. Bài này của nhà lý luận Diêu Văn Nguyên ở Thượng Hải và được đăng trên tờ Văn hối báo của Thượng Hải ngày 10 tháng 11 năm 1965. Bài này đã đả kích một vở kịch của phó thị trưởng Bắc Kinh là Ngô Hàm. Vở kịch đó ca ngợi Hải Thụy, một quan trong triều đời nhà Minh người mà Mao thường lấy làm tấm gương sáng ngời để cán bộ đảng nơi theo. Bài bình luận này làm tôi phải suy nghĩ. Chính Mao đã quảng bá cho các vở kịch truyền thống về nhân vật Hải Thụy. Ngô Hàm, tác giả của vở kịch, không chỉ là phó thị trưởng thành phố Bắc Kinh, ngoài ra ở Bắc Kinh ông còn là giáo sư đại học và là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sủ đời nhà Minh. Sự quan tâm của Mao về thời kỳ lịch sử này đã làm nảy sinh mối quan hệ của ông với Ngô Hàm từ nhiều năm nay. Từ khi Mao khuyên tôi nên nghiên cứu sâu hơn nữa về lịch sử Trung quốc, thỉnh thoảng tôi có dự những cuộc nói chuyện của Mao và Ngô Hàm.
Bây giờ Mao lại muốn nói chuyện với tôi về vở kịch của Ngô Hàm. Ông tán thành những lời phê bình của Diêu Văn Nguyên dựa theo ý của Giang Thanh và Trương Xuân Kiều. ý của bài phê bình này đi ngược lại dòng thời gian về hội nghị của 7000 cán bộ hồi tháng 1 năm 1962. Khi đó Mao đã phải tự phê bình. Việc cách chức Bành Đức Hoài khi đó là một đề tài hay được nhắc tới, vì nhiều người cho là không công bằng. Người ta bắt đầu so sánh giữa việc vua Gia Kính cách chức và tống giam Hải Thụy với việc Mao cách chức Bành Đức Hoài. Cả Bành Đức Hoài và Hải Thụy đều là những quan chức trung trực. họ đã phục vụ đất nước và người đứng đầu quốc gia một cách trung thành. Họ đã chỉ cho người đứng đầu quốc gia những sai lầm không phải với dụng ý trách móc, mà để quốc gia có một chính quyền tốt hơn, qua đó tiếng thơm của người đứng đầu quốc gia được nhân lên gấp bội. Bành Đức Hoài được xem là một Hải Thụy thời nay. Cả Mao và ông vua nọ có cùng một điểm giống nhau: không ai chịu để người ta phê phán.
Tính đa nghi của Giang Thanh, vai trò chính trị mới và mối quan tâm đối với văn hóa và nghệ thuật của bà đã khiến bà luôn luôn để ý đến những nhà soạn kịch mà bà cho là không trung thành với chồng bà. Có lẽ, bà chỉ nghi Ngô Hàm là bất trung, khi bà xem vở kịch Hải Thụy bãi quan của ông.
Tuy nhiên, thị trưởng thành phố Bắc Kinh Bành Chân, Trưởng ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất và Phó trưởng ban tuyên truyền là Chu Dương đã từ chối đề nghị của Giang Thanh là phát động một chiến dịch chỉ trích vở kịch này, Ngô Hàm là bạn và là đồng chí của họ, là một trí thức đáng kính và là một người được coi là trung thành với Mao. Giới lãnh đạo Bắc Kinh thấy chẳng có cớ gì phải nghe theo Giang Thanh. Đã đành bà là vợ của Mao, nhưng bà chẳng có một chức vụ chính thức nào. Giới lãnh đạo chính trị cao cấp đánh giá bà rất thấp. Các nữ diễn viên ở Trung quốc ngày càng bị đánh giá thấp, và một nữ diễn viên muốn thỏa mãn những tham vọng chính trị của mình bằng cách kết hôn với người lãnh đạo đất nước đã làm cho người ta đặc biệt không ưa.
Mao cần Giang Thanh trong bước ngoặt trên con đường danh vọng của ông. Thậm chí tham vọng chính trị của bà lại có lợi cho ông. Khi bí thư thành ủy Thượng Hải là Kha Thanh Thế đột ngột qua đời hồi tháng 4 năm 1965. cái ghế của ông ta đã được Trưởng ban tuyên truyền của Thượng Hải là Trương Xuân Kiều đảm nhiệm. Cũng như Kha Thanh Thế. Trương Xuân Kiều là người nhất nhất tuân theo mọi chỉ thị của Mao. Trương Xuân Kiều đã bố trí cho thân hữu của ông ta là Diêu Văn Nguyên, chủ nhiệm tờ Giải Phóng, trực tiếp cộng tác với Giang Thanh.
Khi bài phê bình này sắp được phổ biến trên tờ Văn hối báo. Mao mới được biết nội dung của nó. Bài đả kích nhằm tạo ra một chiến dịch chống Ngô Hàm và những đồng đảng còn lại của Bành Đức Hoài. Các tờ báo và tạp chí khác phải hưởng ứng phê bình. Nhưng giới truyền thông ở Bắc Kinh lờ bài đả kích của Diêu Văn Nguyên đi. Mao nói: Mãi 19 ngày sau, kể từ ngày bài này được đăng trên tờ Văn hối và mãi cho tới khi tôi can thiệp, các báo chí ở Bắc Kinh mới tham gia. Đồng chí thấy họ cứng đầu ghê gớm không?
Tôi bối rối, vì tôi vẫn không làm sao hiểu nổi tại sao Hải Thụy và Ngô Hàm lại bị phê phán. Dĩ nhiên tôi không thể hiểu được rằng, bài báo của Diêu Văn Nguyên là tiếng súng mở đầu cho một cuộc Đại cách mạng Văn hóa vô sản của Mao. Tôi cũng không hiểu, theo lời Mao, ai là kẻ cứng đầu ghê gớm. Mãi đến khi cuộc Cách mang Văn hóa bắt đầu, tôi mới biết rằng ông nói về Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và những đồng chí thân thiết nhất của ông trong ban lãnh đạo. Tôi hứa với Mao sẽ đọc bài báo của Diêu Văn Nguyên thêm một lần nữa. Mao đưa bài báo cho tôi rồi nói: Phải đấy, đồng chí hãy đọc qua một lượt nữa đi. Sau đó đồng chí hãy cho tôi biết ý kiến của đồng chí. Tôi tìm cách lái câu chuyện sang đề tài sức khỏe của ông. Còn một vấn đề là liều lượng dùng thuốc ngủ của Chủ tịch. Chủ tịch đang dùng một liều lượng gấp 10 lần lìêu lượng thông thường. Mao hỏi lại:
- Nhiều đến thế sao?
- Đúng vậy. Tôi đã đọc y bạ của Chủ tịch. Với liều lượng thuốc ngủ như vậy có thể làm tổn hại đến sức khỏe của Chủ tịch.
- Theo đồng chí, chúng ta phải làm sao bây giờ?
- Tôi nghĩ rằng chúng ta phải giảm liều lượng này càng sớm càng tốt.
Tôi đề nghị dùng hỗn hợp của đường nho với thuốc an thần nhồi vào những vỏ thuốc con nhộng được chế từ đường nho để làm một loại thuốc tương dương với lượng thuốc ngủ thích hợp. Mao chấp thuận. Nhưng ông còn cảm thâv một cái gì khác lạ.
- Có cái gì đó không bình thường ở nhà khách này. Nó như bị người ta xả khí độc. Tôi không thể ở lại đây lâu hơn được nữa. Đồng chí hãy nói với Trương Diêu Tự, anh ta phải chuẩn bị đi. Chúng ta sẽ lên đường đi Vũ Hán.
Nỗi sợ hãi bị đầu độc của Mao xét bề ngoài cũng không phải hoàn toàn vô lý. Có một lần ngủ trong một biệt thự của Mao, tôi cũng không thể nào ngủ nổ. Không hẳn chỉ vì nó quá rộng rãi và xa hoa, mà vì có một thứ mùi gì đó rất lạ. Một người bạn tôi cũng phát hiện ra một thứ mùi rất đặc biệt, khi ông đến ở một nhà nghỉ của Mao. Đa số các nhà nghỉ của Mao đều nằm ở những địa điểm nóng, ẩm ở miền Nam Trung quốc và Mao thường nhiều năm mới tới ở một lần. Trong thời gian đó, chúng như những căn nhà hoang không ai ở. Tôi chỉ có thể phỏng đoán rằng, qua nhiều năm như vậy những ngôi nhà bị ẩm mốc. Nhiều người đã chứng mmh rằng những người nông dân hầu như quanh năm suốt tháng lao động ngoài trời và cư trú trong những ngôi nhà đơn sơ thường không thể ở nổi trong những ngôi nhà kiểu mới ngày nay và họ sợ bầu không khí ngột ngạt.
Nỗi ám ảnh vô cớ mà tôi đầu tiên phát hiện ở Mao hồi năm 1958 ở Thành Đô, khi ông tưởng nước ở trong bể bơi bị đầu độc, bây giờ lại gia tăng. Nhưng thứ độc thực sự chính là những mưu toan chính trị trong nội bộ giới lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi phải làm việc thận trọng. Trước hết, tôi truyền lệnh của Mao cho Trương Diêu Tự. Sau đó qua đường đây đảm bảo không bị nghe trộm, tôi gọi điện cho Thạch Thụ Hán ở bộ y tế để báo cáo với ông về căn bệnh vừa rồi của Mao và chúng tôi nên giải quyết vấn đề dùng thuốc ngủ của Mao như thế nào. Những viên thuốc nói trên phải được điều chế ngay trong bệnh viện Bắc Kinh.
Thạch Thụ Hán lo lắng. Ông sợ rằng cơn sốt của Mao có thể là một bệnh gì đó nghiêm trọng hơn viêm khí quản - có lẽ là viêm phổi. Ông ta muốn bàn bạc với Chu Ân Lai và cử một đội chuyên viên tới khám bệnh cho Chủ tịch. Nhưng tôi chắc rằng, cơ thể của Mao đã bình phục trở lại.
Điều mà tôi không yên tâm là vấn đề nghiện thuốc (ngủ) và nỗi sợ bị đầu độc ở ông. Đâu đâu ông cũng nhìn thấy bọn cùng một giuộc. Nếu các chuyên viên y tế tới để khám bệnh cho ông, biết đâu ông sẽ nghĩ, tôi đã nói dối ông về bệnh tình của ông hoặc tôi muốn trốn tránh trách nhiệm hay muốn cài gián điệp vào chỗ ông. Tôi đã thuyết phục Thạch Thụ Hán, tốt hơn là không nên làm gì nữa.