Chiến cuộc ngày càng lan rong với chủ trương tốc chiến tốc thắng của tên tướng hiếu chiến Leclerc.
Quân đội viễn chinh Pháp ồ ạt toả đi các hướng quyết bình định các tỉnh. Tại Sài Gòn chúng chỉ để lại một ít quân làm nhiệm vụ cảnh sát. Báo chí công khai nhân lúc bộ máy hành chính chúng còn lỏng lẻo đả kích chánh phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh. Đọc báo buổi sáng vào lúc điểm tâm là một thói quen của chị Trinh. Chị đậu tú tài thì chiến tranh bùng nổ. Chị là con ông đốc công Vương Quang Ngưu, một nhà điền chủ có một trăm mẫu vườn dừa ở Điều Hoà, Mỹ Tho.
Ông Ngưu mở phòng cố vấn pháp luật, binh vực dân quê bị cường hào ác bá cướp đất giật ruộng. Những người nghèo túng ông Ngưu giúp không lấy tiền. Ông Ngưu giao du với các nhà cách mạng, phần lớn là các nhà báo như Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh. Còn Ung Văn Khiêm là bạn cột chèo. Bà Ngưu và bà Khiêm là hai chị em, bà Ngưu thứ bẩy, bà Khiêm thứ tám...
Đầu 1946, Trinh được thư của dượng Tám bấy giờ phụ trách ban Nội vụ Nam Bộ gọi ra bưng. Xếp bút nghiên từ lâu, Trinh muốn thoát ly theo kháng chiến. Chị không thể chịu đựng được cảnh ăn không ngồi rồi giữa thành phố bị địch tạm chiếm. Bức thư đến là một dịp tốt để “lên đàng”.
Theo liên lạc, Trinh ra An Phú Đông, một căn cứ kháng chiến sát nách Sài Gòn. Những trận giao tranh đầu tiên đã khiến vùng đất ven đô hiền lành này trở nên một địa danh nổi tiếng, nhất là sau khi có bài thơ của Xuân Miễn:
An Phú Đông đây, An Phú Đông,
Một làng nho nhỏ ở ven sông,
Một năm chinh chiên ôi chinh chiến
Sông nước Sài Côn nhuộm máu hồng...
Cơ quan đầu tiên thu nhận chị là toà soạn báo La Voi du Maquis (Tiếng nói bưng biền) do luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần làm chủ bút. Vô cơ quan này, chị Trinh như cá gặp nước. Cả nhà chị có máu làm báo. Chị được anh Thuần giao chép bản thảo các bài báo. Toà soạn không đông, hầu như một mình anh Thuần “bao sân”. Đây là cơ quan ngôn luận nhắm vào trí thức trong thành phố nên số in không nhiều như các tờ Chống Xâm Lăng của Mặt trận Việt Minh thành phố và Cảm tử của Liên hiệp Công đoàn thành phố.
Một thời gian sau chị Trinh được giới thiệu học mật mã và được đưa về phụ trách phòng Mật mã của uỷ Viên Quân sự Nam Bộ. Đây là sự tín nhiệm đặc biệt mà chị Trinh cố gắng xứng đáng. Cơ quan mật mã phải gắn liền với văn phòng khu trưởng. Do công tác liên hệ mật thiết, chị Trinh được biết rõ về anh Ba Bình. Nhận xét đầu tiên của chị về anh Ba là đức tánh bình dân. Là tướng, anh Ba rất gần với anh em binh sĩ. Nghe anh Nguyễn Đức Hinh cưới vợ, anh Bình móc túi đưa hết xấp bạc sinh hoạt phí hàng tháng tặng “cho cậu làm lễ liên hoan”. Khi nghe một cán bộ bị thương, anh Ba bảo bắt cặp gà tặng “cho nó tẩm bổ”. Có lúc vì tình thế bắt buộc phải đóng trong nhà dân, Anh Ba cũng hoà mình với gia đình chủ nhà. Chuyện đáng nhớ là thời gian anh Bình đóng trong nhà tín đồ Cao Đài sau khi xảy ra nhưng vụ tảo thanh Cao Đài Tây Ninh theo Tây của Phạm Công Tắc. Những đêm uống trà đàm đạo với ông già chủ nhà về chuyện đạo và đời, anh Bình nói chuyện rất thoải mái, kể chuyện đời xưa, khi hoạt động cách mạng anh đã từng tá túc trong chùa, có những nhà sư vứt áo cà sa mặc chiến bào. Rồi anh kết luận: Đạo nào cũng khuyên làm lành tránh dữ và anh nói thêm “đạo nào cũng phải tham gia đánh Tây giành độc lập. Cho nên Đạo với Đời tuy hai mà một”. Về cá tính anh Ba Bình rất ít nói nhưng tình cảm, tiếng cười của anh nghe rất có cảm tình. Nhưng điều quan trọng nhất đối với anh Ba về phương diện cầm quân là kỷ luật. Luôn luôn giữ vững kỷ luật. Phải nghiêm trị những kẻ coi thường kỷ luật. Chính vì vậy mà anh Ba đã cương quyết kết án tử hình Ba Nhỏ mặc dầu có một số chỉ huy quân sự Bình Xuyên không tán thành quyết định đó. Và cũng chính vụ xử Ba Nhỏ đã chứng minh bản lĩnh của Nguyễn Bình.
Có vị chánh án nào dám cho tử tội mượn khẩu súng của chính mình để tự xử. Nói về cái dũng cảm của anh Ba thì vô cùng, nhất là chuyến anh về thành nắm tình hình địch, để tiếp xúc với các nhà trí thức yêu nước chưa có dịp để ra khu. Bận trở về anh bị phục kích ở Vĩnh Lộc may nhờ Chi đội 4 giải vây.
Với những giai thoại đầy hào quang đó, Chị Trinh rất kính trọng anh Ba và vui lòng kết nghĩa tri âm với một “dũng tướng”. Phòng mật mã của chị chỉ cách phòng làm việc của anh Ba có một vách lá.