Thiên địa hội là một tổ chức bí mật của người Tàu có mục đích “bài Mãn phục Minh”. Qua Việt nam và các nước Đông Nam Á, hình thức tổ chức vẫn là hội ẩm, nhưng mục đích có thay đổi tuỳ hoàn cảnh địa phương. Tại Nam Kỳ, Thiên địa hội hoạt động mạnh ở các tỉnh Chợ Lớn, Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long... là những nơi có Hoa kiều cư ngụ nhiều.
Tại Gò Công, có hai chi phái Thiên địa hội: kèo Xanh và kèo Vàng, hoạt động. Không thấy những tổ chức này chống Pháp như họ đã rêu rao, chỉ biết các lãnh tụ này ép buộc dân chúng đóng tiền, dùng bạo lực kết nạp vây cánh cho đông. Tại chợ Tổng Châu, cách tỉnh lỵ chừng sáu km là chỗ dân tứ xứ tụ tập về làm ăn, là chỗ buôn bán sầm uất. Nhiều tiệm tạp hoá Hoa hếu cất thành những dãy phố hai bên chợ, làm đầu mối thu mua các sản vật nhu cá khô, tôm khô, da thú, và bán ra các thứ vật dụng hàng ngày. Ở đây có người thủ lãnh Thiên địa hội, tên Lò Cheng, cất nhà ven sông làm chỗ tụ tập, tới lui hoạt động. Vì sợ họ thù oán, đâm chén nên dân chúng không ai dám tố cáo. Khác với mục đích đề ra, đây có thể coi là một đảng lộng hành, gồm những tay anh chị, du côn, giỏi võ nghệ, chuyên môn nói chuyện bằng dao búa. Họ hăm doạ “Ai tố cáo với Tây sẽ bị xử tử”. Nhiều nhà giàu, những bậc thức giả muốn yên thân, phải nạp tiền hàng tháng như đóng hụi chết. Họ cũng bí mật ám sát một vài người chống đối để răn doạ thiên hạ. Lãnh tụ Lò Cheng lập ra một ban tham mưu gồm:
- Hai Liếp, danh hiệu Đái Mã, phó tướng của Lò Cheng.
- Ba Phát, danh hiệu Hồng Đằng, cánh hữu.
- Bảy Bang, danh hiệu Bạch Đằng, cánh tả.
Người trong hội gọi nhau “anh Ba, anh Tư...”. Muốn vào hội phải uống máu ăn thề, phải chịu “Nấu” và “Hấp” tức là chịu sự huấn luyện của hội này. Họ có kỷ luật riêng và dấu hiệu dễ nhận nhau. Chẳng hạn khi giao tiếp người ngoài xã hội, chỉ nhìn cái nón, cây dù... có ám hiệu riêng để nhận biết người của hội, và nhận ra chỉ thị của lãnh tụ. Tư gia của Lò Cheng như một tổng hành dinh, có lính gác. Trong nhà có thị vệ, uy nghi như tổng đốc hay tuần phủ ngoài Trung. Có người coi kho lương, kho bạc, giữ sổ sách. Trong phòng khách, có ghế trường kỷ, mâm hút á phiện, bầu rượu, quạt trần như bậc công hầu.
Lãnh tụ Lò Cheng có uy quen tuyệt đối. Hắn sống như đế vương. Hàng ngày ăn uống mâm cao cỗ đầy, hút thuốc phiện thả giàn. Mỗi ngày Lò Cheng sai thủ hạ đi “Nấu” chỗ này “Hấp” chỗ kia. Khi Nấu và Hấp chỗ nào thì nơi đó phải tổ chức: đặt bàn cúng tổ, chưng dọn cỗ bàn, tiệc tùng. Những người tham dự ở trần, quỳ trước bàn lổ, có thị vệ đứng hầu. Đái Mã, hoặc Hồng Đằng ăn mặc theo kiểu võ sư, bịt khăn đầu rìu. Thủ tục gia nhập phải tuyên thệ tuân mệnh lệnh và tuyệt đối trung thành với lãnh tụ. Trước khi hành lễ, họ trích máu hoà với rượu uống thề sống chết có nhau, đồng tâm, đồng chí không được phản. Lò Cheng sống như chúa tể trong vùng, được cung phụng đủ thứ trưởng giả, đài các. Hắn làm thơ, đặt liễn đối trong nhà để khoe khoang: Trên bàn thờ tổ:
Thiên thai Minh đê, triều tân quắc,
Địa hội nhân hoà, cách cựu bang.
Dịch nghĩa:
Trời mở hội Minh đê, trị vì nước mới,
Đất hội người hoà, sửa đổi chính sách cũ.
Hai câu liễn dán trong phòng khách:
Tư lệnh thập điều chính nghĩa,
Anh hùng thải vi gia.Dịch nghĩa:
Luật lệnh có mười điều chính nghĩa,
Anh hùng trong bốn biển là nhà..
Hoặc 4 câu khác:
Vị tri Thiên địa, đoàn hoà trường,
Ngọc xích Lỗ Ban, tự độ lường
Lượng đắc bất đa, hoà bất thiểu,
Văn hậu Minh chúa lập đê bang...Dịch nghĩa:
Chưa biên Thiên địa hội cao thấp,
Thước ngọc Lỗ Ban mới đo lường.
So hiểu rộng nhiều hay là hẹp,
Sau này minh chúa lập đế bang...Mượn oai hùm nhát thỏ, Lò Cheng rêu rao danh nghĩa chống Pháp để che mắt dân chúng về những việc làm mờ ám, nhưng chừng hoạt động chẳng khác gì một đảng cướp. Lò Cheng ra lịnh cưỡng bách thu góp tiền bạc, vật lực gom đầy kho, ăn xài huy hoắc. Chẳng hạn như vợ Hồng Đằng chết, Lò Cheng cho tổ chức đám ma rất lớn như một đại phú gia. Vì sợ thù oán, dân chúng và các nhà giàu, phải tới cúng tiền, rồi lạy trước linh cữu. Số tiền thu được rất nhiều. Ngày đưa ma, dân chúng tụ tập hai bên đường từ nhà đến huyệt. Đám ma đi qua, Hồng Đằng theo sau, có tả hữu hộ vệ theo cầm quạt hầu. Chôn cất rồi, ngày ngày Hồng Đằng ngồi trên một chiếc xe song mã, chạy từ nhà ra mồ rồi trở về như thăm viếng và rước linh hồn người chết, có cờ xí trang hoàng lộng lẫy như bậc công khanh thời xưa. Lò Cheng sống như đế vương, tổ chức hội kín này như một đảng Ma-ra ngày nay, ức hiếp, làm tiền dân chúng, không ai dám kêu ca. Hai năm sau, việc làm bất chánh, nhũng nhiễu đến tai nhà cầm quyền Pháp: Lòng Cheng bị bắt, trục xuất về Tàu, còn đồng đảng tuỳ tội nặng nhẹ xử phạt tù, đày Côn Nôn. Từ đó, Thiên địa hội không còn hoạt động ở Gò Công nữa.