Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Hồi Ký, Tuỳ Bút >> Những phú hộ lừng danh Nam Kỳ

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 39179 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Những phú hộ lừng danh Nam Kỳ
Hứa Hoành

Các cự phú ở làng Đại Điền, Mỏ Cày, Bến tre

Tỉnh Bến Tre gồm 3 cù lao lớn: Cù lao Minh, cù lao Bảo, cù lao An Hoá. Làng Đại Điền nằm trên cù lao Minh, là nơi đất đai trù phú, nước ngọt quanh năm, ruộng vườn tươi tốt. Quận Mỏ Cày là quê hương của nhiều nhà giàu thuở xưa của Nam Kỳ. Những người được gia đình cho qua Pháp du học đợt đầu tiên là các ông Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Dương Văn Tây. Thuộc hàng cự phú Đại Điền người ta thường kể ông Hương Liêm (Huỳnh Ngọc Khiêm), ông Phủ Kiểng (Nguyễn Duy Hình), ông Hội đồng Hoài, dân địa phương quen gọi ông Phó Hoài vì trước ông có làm Phó Tổng. Không rõ làng Đa Phước cuối thế kỷ 19 và Đại Điền đầu thế kỷ 20, là cuộc đất có hàm rồng hay long mạch mà phát sinh nhiều nhà giàu lớn, con cháu đỗ đại, rân rất nhiều thế hệ.
Theo lời thân mẫu nhà văn Xuân Vũ, là người cố cựu tại địa phương, năm nay 87 tuổi, còn minh mẫn, kể lại nhiều chi tiết về nguồn gốc sự giàu có của các gia đình kể trên. Dương Văn Giáo thuở nhỏ học trường Chasseloup, rồi gặp thế chiến thứ nhứt xảy ra (1914- 1918), mới xin làm thông ngôn cho toán lính thợ qua Âu Châu chiến đấu, tiếp liệu cho mặt trận của Pháp chống Đức. Qua Pháp, ông Giáo được thăng cấp quan Hai (trung uý), có chiến công được nhiều huy chương của Pháp. Chiến tranh chấm dứt, ông xin ở lại, theo học trường thuộc địa (école Coloniale) ngành Luật. Tốt nghiệp, ông Giáo được bổ làm trạng sư, nhập Pháp tịch, lại gia nhập hội Nhân Quyền, cho nên dầu phải đi bộ chớ không bao giờ ngồi xe kéo (vì luật Nhân Quyền không cho phép). Ông Giáo có người anh tên Tây, vì lúc nhỏ ông Giáo còn có tên Du (Tây Du). Ở Pháp, luật sư Giáo có vợ đầm, nhưng là người tích cực tranh đấu cho nền độc lập nước nhà. Lúc ở Pháp, Giáo là bạn đồng học với ông Nehru (Thủ tướng Ấn Độ sau này) và Hoàng thân Thái Lan Luang Pradit, về sau làm Bộ trưởng trong nội các Thái năm 1945. Ông Nehru từng ngỏ lời muốn gả em gái cho Dương Văn Giáo nhưng vì ông Giáo đã có vợ. Ông Dương Văn Giáo sinh năm 1888 tại Đa Phước Mỏ Cày, đậu Tiến sĩ Luật năm 1926, từng tranh đấu với các ông Bùi Quang Chiêu, Diệp Văn Kỳ, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh chống lại chế độ cai trị tàn ác của người Pháp tại Đông Dương. Ông Dương Văn Giáo cũng là một trong những người sáng lập đảng Lập hiến với Bùi Quang Chiêu, Trần Văn Khá...

Tại Pháp nhiều lần ông Dương Văn Giáo cùng với ông Nguyễn Thế Truyền đi diễn thuyết nhiều nơi, hô hào, cổ võ cho tự do dân chủ ở Việt nam, bãi bỏ chế độ thuộc địa. Về Sài gòn, luật sư Dương Văn Giáo tiếp tục tranh đấu chống chế độ thực dân bằng cách viết báo chí trích đường lối cai trị độc tài, thiếu tự do của Pháp, nên bị bắt cầm tù như Tạ Thu Thâu. Về sau, ông Giáo bỏ vợ đầm kết hôn với con gái bà Huyện Xây (Lâm Ngọc Thanh) ở Vũng Liêm. Cô này tên “cô Hai Suzane”, và được nhạc mẫu mua cho một biệt thự lớn như lâu đài ở đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng sau này).
Về việc ông Dương Văn Giáo vượt ngục, cụ Trần Văn Ân thuật lại như sau: ông Giáo có đời tư rất cẩu thả, song vào tù lại có khí phách và lòng thương bạn. Lúc ấy luật sư Giáo bị kêu án 8 năm khổ sai, nhưng một gián điệp Nhựt, chủ Dainam Koosi Matushista, tổ chức cho một phụ nữ Nhựt tên Sinna (người tình của ông Giáo) lập kế cứu ông ta ra khỏi khám. Nguyên ông Giáo giả bịnh, xin nằm dưỡng đường Grall. Trong khi chờ đợi mổ, có một thiếu nữ Nhựt (Sinna) vào xin cho ông Giáo từ phòng bịnh qua phòng mổ. Nhưng sau đó, khi cô y tá và người lính (dẫn ông Giáo) đứng đợi bên ngoài một chút, thì thấy có một sĩ quan Nhựt, mang lon Đại uý, đeo kính mát, đầu đội mũ che sụp mí tóc, thong thả bước ra. Người lính đứng chào, và ông sĩ quan này xuống đường chen ra phía cửa sau nhà thương có chiếc xe bít-bùng đợi sẵn. Khi người lính và cô y tá bên ngoài chờ lâu, xô cửa bước vô, thì thấy ông Giáo để bộ quần áo cũ tại đó, và biết ràng vị quan ba Nhật hồi nãy chính là ông Giáo.
Ông Giáo được Nhựt bố trí lên máy bay tại Tân Sơn Nhất để qua Thái Lan, được bạn cũ là Hoàng thân Luang Pradit tiếp đón niềm nở. Năm 1945, ông Giáo cùng nhiều người yêu nước khác bị Việt Minh thủ tiêu bằng cách trấn nước tại Sông Lòng Sông Phan Thiết”.

Trở lại những cự phú làng Đại Điền ở Bến Tre. Trước khi có cuộc chiến tranh Việt Pháp 1945-54, những ai có dịp ngồi xe trên đường trải đá từ Cái Nhúm, Cái Mơn, Mỏ Cày ra tới bến Bắc Hàm Luông, chắc sẽ lấy làm ngạc nhiên vì ở đây có nhiều ngôi nhà lầu nhà trệt đồ sộ, cất trên nền đúc cao tới ngực, chẳng khác dinh Tham biện (Tỉnh trưởng) hay toà Đốc lý các thành phố lớn. Người giàu nhứt ở đây là ông Hương Liêm, tên thật Huỳnh Ngọc Khiêm. Theo lời kể thì hồi nhỏ, gia đình Hương Liêm sống nghèo khổ, làm lụng vất vả hàng ngày nhưng không đủ ăn. Thân phụ ông Liêm là người tính tình cần mẫn, lam lũ nhưng biết tiện cặn, lại siêng năng. Những thập niên cuối thế kỷ 19, làng Đại Điền còn nhiều ruộng đất hoang, nhiều gò đống, cây cối um tùm.
Dưới con mắt của người dân quê, những chỗ đó có nhiều ma quái Đêm đêm những bóng ma chập chờn, ít ai dám cất nhà chỗ xa xôi vắng vẻ, chỉ trù những người quá nghèo, liều mạng. Dịp may một gia đình phú hộ, muốn bán một trong những miếng đất hoang đầy yêu ma phá khuấy đó với giá rẻ mạt. Ông Liêm tìm tới mua chịu, chỉ trả một số tiền nhỏ, nhưng chủ đất vui vẻ bán và còn nói với người trong nhà:
- Thằng cha Liêm này muốn chết thay cho mình.
Cất nhà xong, đêm đêm ông Liêm thường thấy có hai con quỷ bưng chảo lửa trước sân mấy dân, nhưng ông không sợ. Không ngờ rằng đó là một cuộc đất quý, một loại quý điền. Mấy năm liền, ông Liêm làm ruộng trúng mùa liên tiếp. Người ở trong đất này làm ăn phát đạt như diều gặp gió. Có tiền, ông Liêm mua thêm ruộng đất, làm ăn gặp may mắn luôn, không bị ma quỷ như lời đồn.

Người đòi thường nói: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đòi”. Gia đình ông Hương Liêm vượt ra ngoài thông lệ đó. Con cháu ông vẫn giữ các chức Hội đồng, Cai tổng, Tri huyện cha truyền con nối đến 4 thế hệ, vẫn còn rân rát. Nếu không có Việt Minh nổi dậy, cướp chính quyền, tiêu diệt các thành phần đại điền chủ, chắc chắn bây giò dòng họ ấy vẫn còn nhiều người giàu có, thế lực. Vốn tánh kiệm ước, giàu nhưng không khoe khoang, xài phí, ăn chơi xa xỉ, ông Hương Liêm sống rất giản dị. Nhà của ông là loại nhà tiêu biểu cho thế hệ giao thời cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đó là một căn nhà lớn, gồm 48 cột bằng căm xe, đen mun, bóng láng. Mỗi cây cột một người ôm không xuể. Nguyên bộ sườn nhà không dùng một cây đinh. Năm 1945, Việt Minh ra lịnh “tiêu thổ kháng chiến”, chúng buộc phải dỡ mái nhà, đồ đạc thì tản cư, nhưng chưa kịp đốt. Nếu còn nguyên vẹn, ngày nay ngôi nhà của ông Hương Liêm có thể coi như một công trình kiến trúc độc đáo của Nam Kỳ thuở trước.
Ông Hương Liêm có nhiều người con, nhưng chúng tôi không nhớ rõ có bao nhiêu. Chỉ biết ông có hai người con đều làm Hội đồng. Người thứ nhứt là Hội đồng Hổ, không con. Người thứ hai là Hội đồng Cử. Về sau, một người con của Hội đồng Cử làm Cai tổng, dân dịa phương quen gọi là Cao tổng Thiến. Về phần con gái, chỉ nhó có hai bà: bà thứ 10 gọi là Mười Tán, có chồng làm Thông biện ở Bến Tre. Bà kế là Nhứt Thịnh, có chồng là Cai tổng Trị, sanh được hai người con là Hai Xiêm và Ba Tây.
Trong số các con ông Hương Liêm, có người làm sui với ông Phủ Bảy Lê Quang Liêm ở Gò Công.
Một người giàu có nổi tiếng khác ở làng Đại Điền là ông Hội đồng Hoài, dân chúng quen gọi ông Phó Hoài, vì trước khi làm Hội đồng, ông có làm Phó tổng. Ông Hội đồng Hoài nổi tiếng hống hách, ai cũng sợ như ông vua một cõi. Ông coi dân chúng trong làng như tôi tó, kẻ ăn người ở trong nhà, muốn bắt ai làm gì cũng được, không ai dám lừ chối, trốn tránh hay chống đối. Câu “phép vua thua lệ làng” ở đây chưa đúng nghĩa vì làng xã cũng phải sợ ông. Ông làm Phó tổng, trên làng. Về sau, ông làm Hội đồng coi như cha mẹ cả quận. Nhà ông Hội đồng Hoài, chỉ cách nhà của nhà văn Xuân Vũ một cánh đồng. Ngói lợp nhà của ông sau 15 năm vẫn còn đỏ au như mới. Ở xa nhìn thấy toàn thể ngôi nhà, lẫm lúa, tường cao, hàng rào sắt như một dinh co đồ sộ trong truyện thần tiên. Dân Bến Tre và dân chúng sống hai bên bờ sông Tiền Giang như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh, đâu dâu cũng nghe tiếng ông. Không ai dám nói đến tên ông là “Hoài”. Mỗi khi cần nhắc đến chữ ấy, người ta phải nói trại ra như sau:
- Đi đâu mà đi “hười” vậy?
- Sao cứ ăn “hười”, không chịu làm?
Có một giai thoại kể lại rằng, để dằn mặt ông Hội đồng phách lối, có một võ sư, giả làm người không biết uy quyền của ông, tìm cách gây sự, nếu cần, đánh một trận cho bõ ghét. Theo người hiểu chuyện kể lại rằng ông võ sư ấy là người Tàu lai, thuộc hàng cháu chắt của hai tướng Tàu là Tập Đình và Lý Tài của chúa Nguyễn Ánh. Trước kia họ là tướng của quân Tây Sơn. Một hôm võ sư ấy cỡi ngựa đi ngang qua trước nhà ông Hội đồng Hoài. Cái lục lạc đeo ở cổ con ngựa cứ lắc lia, kêu lớn như khiêu khích. Mấy đứa gia nhân đều chạy ra đường coi ai dám cả gan trêu chọc ông Phó. Một đứa hất hàm hỏi:
- Bộ không biết đây là nhà của ai sao? Tại sao không xuống ngựa, lại làm cái lục lạc kêu lớn không để ông ngủ?
- Bẩm, tôi không biết. - Võ sư trả lời.
- Ừ! Để tôi vô mời ông tôi ra cho biết.
Nói xong tên đầy tớ liền chạy vô nhà thưa lại. Ông Hội đồng Hoài ung dung, hách dịch bước ra hỏi:
- Ê! Tên kia, làm gì lắc cái lục lạc kêu lớn quá vậy, không để ai ngủ hả?
- Dạ, tôi đâu biết. Đây là đường di, tôi cứ đi. Còn con ngựa tôi lắc cái lục lạc là tại nó, chớ đâu phải tại tôi.
Thấy cách trả lời cứng cỏi, không khép nép sợ sệt, Hội đồng Hoài tức giận:
- Xuống đây biểu?
Như chỉ đợi dịp này, ông võ sư nhảy thóc xuống ngựa, tiến tới ông Hội đồng Hoài không chút khúm núm, lo sợ. Đang cơn nóng giận, ông Hội đồng Hoài liền tát người ấy một bạt tay.
Không ngờ, võ sư né qua một bên, mà còn sử dụng miếng võ độc hiểm, quật ông Hội đồng té nhào. Biết gặp phải tên có võ nghệ cao cường, Hội đồng Hoài vẫn còn giữ chút liêm sỉ của người có học võ, chấp tay xá:
- Tôi xin chịu thua ông. Xin mời ông vào nhà để tôi tạ lỗi, và nhờ ông chỉ dạy thêm cho tôi.
Võ sư ấy vội vàng lên ngựa, miệng còn lẩm bẩm:
- Ai thèm dạy thứ phách lối như mày.
Một giai thoại khác cũng được dân chúng truyền tụng với sự khoái chí vì đã làm mất mặt ông Hội đồng Hoài. Số là một ông cũng giỏi võ, mai danh ẩn tích từ lâu, chỉ làm ruộng rẫy, tên là Ba Khoan, dân Mỏ Cày ai ai cũng nghe tiếng. Một người bạn của Ba Khoan, ở cách nhà của Hội đồng Hoài một cánh đồng, có tát đìa, bắt được 2 con cua đinh, nhắn ông Ba Khoan xuống, tặng một con đem về nhậu chơi. Được tin đó, Ba Khoan xuống chơi và khi về có quải theo một con cua đinh tòn ten, mục đích để bọn gia nô của ông Hội đồng Hoài thấy, đòi tịch thâu. Ba Khoan dùng một tàu dừa lớn, chặt làm đòn gánh để quải một đầu, tay vịn một đầu. Khi Ba Khoan đi ngang nhà ông Hội đồng Hoài, bọn gia nhân thấy, liền kêu lại và nói:
- Lâu nay ông tôi thèm cua đinh. Chú để con cua đinh này cho ông tôi nhậu chơi, được không?
- Cua đinh của tôi, tại sao phải để cho ông nhậu?
- Chú ở đâu, không biết ông tôi à?
- Tôi quê mùa, không biết?
Nghe tiếng cãi cọ ngoài cửa, ông Hội đồng Hoài bước ra, tự tiện gỡ con cua đinh của Ba Khoan, mà không nói năng gì cả.

Bất thần, Ba Khoan dùng tàu dừa ấy, đánh bọn gia nô chạy tán loạn. Hội đồng Hoài bị một đá văng xuống mương, ướt như chuột lột. Xấu hổ, thầy trò ông Hội đồng Hoài bỏ vô nhà một nước, không nhìn lại. Theo lời dân chúng địa phương, từ đó ông Hội đồng Hoài bớt hống hách.
Ông Phủ Kiểng là một cự phú khác ở Giồng Luông, quận Mỏ Cày. Các con ông đều học tới nơi tới chốn. Nhiều người ra làm quan với chính phủ Pháp, và có một người khác làm bí thơ cho Hoàng đế Bảo Đại. Ông Phủ Kiểng là nhà giàu lớn, tiếng tăm khắp Nam Kỳ, ai ai cũng nghe danh. Dân chúng địa phương chỉ biết ông là “Phủ Kiểng” chớ ít ai biết tên thật của ông là Nguyễn Duy Hinh (1874-1945). Theo tài liệu do phủ Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội ấn hành năm 1943, do Tiến sĩ Sử học Vũ Ngự Chiêu cho mượn thì: “Ông Nguyễn Duy Hinh sinh năm 1874 tại làng Đại Điền, Mỏ Cày, Bến Tre. Lúc trẻ làm Biện lại (1893), rồi Phó thôn (1894), Hương thơ (1895), Hương Văn (1896-97), Biện tống (1898), Xã trưởng (1901-1902), Hương chánh (1903), Hương sư (1904), Bang biện (1904-1913), Cai tống (1913 - 1916). Ông được thăng Huyện hàm năm 1923, rồi Phủ hàm 1930 và Đốc phủ sứ năm 1939. Ngoài một số huy chương được Pháp ban tặng, ông Phủ Kiểng có một Bắc Đẩu Bội tinh. Năm 1942, ông Phủ Kiểng là người rất trung thành với chính phủ Pháp, được qua Pháp du lịch một lần.
Nguồn gốc giàu có của ông Phủ Kiểng theo lời thuật của thân mẫu nhà văn Xuân Vũ như sau:
thuở hàn vi, cậu Nguyễn Duy Hinh sinh trong một gia đình nghèo. Cha mẹ cậu làm lụng đầu tắt mặt tối nhưng không đủ ăn. Hàng ngày, cậu Hinh phải phụ cha mẹ trong việc ruộng rẫy. Ngoài ra, cậu còn làm mướn cho cho các gia đình khá giả để kiếm thêm tiền giúp đỡ cha mẹ. Hồi trước, khi cho con đi ở đợ (làm mướn), cha mẹ được lãnh tiền trước. Khi tới tuổi lấy vợ, cha mẹ cậu Hinh cất một nhà nhỏ cho vợ chồng ở riêng. Cũng như nhiều lực điền khác, ngoài công việc làm ruộng, cha cậu Hinh còn đặt lò, đặt trùm, cắm câu để kiếm ăn. Một hôm, cha cậu đặt lò (dụng cụ bắt cá) ở Cái Răng, có bắt được một con rắn hổ. Trong lúc lui cui bắt con rắn ra khỏi lờ, không may, cha cậu bị con rắn hổ mổ chết. Nhà nghèo quá, không có hòm để tẩm liệm, nên người lối xóm tới phụ bó chiếu đem chôn. Đám ma chỉ có mấy người đưa đến huyệt. Đi được nửa đường, cái thây ma bó chiếu bị đứt dây rớt xuống ruộng. Thấy vậy, họ đào luôn cái huyệt rồi chôn tại đó. Đây là một điều ngoại lệ từ xưa tới nay rất kiêng cữ, nhứt là các gia đình khá giả, không bao giờ làm như vậy. Đào huyệt xong phải chôn, chớ không được bỏ trống để đào cái khác. Nhưng gia đình quá nghèo, không cần kiêng cử cho mất công. Không ngờ, đêm ấy trời mưa giông dữ dội. Sáng ra, người ta thấy chỗ cái mả mới chôn, đùn lên một gò mối lớn như cái núm mộ. Về sau theo một ông thầy địa lý Tàu, đây là ngôi mộ thiên táng, dành cho người phước đức. Ai có hài cốt cha mẹ táng vào đó con cái sẽ phát quan, giàu sang tột bực. Quả nhiên, từ đó bà mẹ ông Hinh giàu có nhờ làm ruộng trúng mùa liên tiếp. Ông Hinh mua thêm ruộng đất, phát tài, lên như diều gặp gió. Đồng thời ông được bổ làm Biện lại khi tuổi vừa 19. Khi đã giàu có, nhà ông Phủ Kiểng là nơi các Tham biện, Chủ tỉnh, Thống đốc, Hội đồng... tới lui, tiệc tùng liên miên.
Theo lời nhà văn Xuân Vũ, nhà ông Phủ Kiểng như dinh Tham biện (Tỉnh trưởng), còn khang trang hơn, cao 3 từng, nằm trên một khu đất rộng tới 6.000 m2, cạnh con đường cái. Quanh nhà có tường gạch kiên cố như bức thành. Trước sân nhà, có những cột đèn ốp đá cẩm thạch, cùng nhiều hình tượng và phù điêu đắp nổi. Tại tiền sảnh là nơi đãi tiệc tùng các quan khách từ Sài gòn xuống hay các chủ tỉnh, chủ quận các tỉnh lân cận. Nhà cất trên một nền đúc cao tới cổ, cẩn đá da quy. Ngói lợp mua từ bên Tây chở về. Cột gỗ bằng cây căm xe, mua từ bên Miên, rồi đóng bè thả trôi theo sông Cửu Long chở về. Trên bè có cất nhà chòi để bạn chèo ăn ngủ. Mỗi khi bè cây sắp đi ngang qua những hàng cột đáy, tức thì bạn chèo trên bè đánh mõ hồi một, tức là báo động, để chủ kéo đáy lên, tránh vô bờ. Trong nhà bàn ghế bằng cẩm thạch Vân Nam, chén đã mua từ bên Tây hay đồ sứ của Trung Hoa. Cất nhà xong, ông rước thợ chạm từ miền Trung vào ăn ở luôn trong nhà mấy năm liền, để chạm trổ sa lông, trường kỷ, tủ thờ.
Cũng theo lời nhà văn Xuân Vũ, mấy đầu cột nhà ông Phủ Kiểng có dát vàng 2 tấc, sáng loáng. Tình cờ tôi có gặp người bạn là giáo sư Nguyễn Quỳnh, dạy môn lịch sử kiến trúc và thẩm mỹ học tại Đại học Columbia, New York và San Antonio, có đọc đến đây và cắt nghĩa cho chúng tôi rõ thêm: Các đầu cội chạm trổ và dát vàng theo lối Ionic, Emprie... xuất hiện và thịnh hành ở Âu Châu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông Kiểng có đi Tây mua ngói lợp nhà, đồ gia dụng, chắc ông bắt chước một trong các kiểu ấy, đầu cột dát vàng khi cất nhà. Trong thời kỳ Việt Minh ra lệnh tiêu thổ kháng chiến, phải dùng cốt mìn mới phá sập, nhưng chỉ được một phần. Ông phủ Kiểng có cả thảy trên 10 người con, cả trai lẫn gái. Tất cả đều được cho ăn học cao. Nhiều người đỗ đạt, giữ địa vị lớn. Trong số mấy người con, người ta chỉ nghe danh các ông.
Con thứ ba, còn gọi là cậu Ba Oai, được cho qua Pháp du học, không đỗ đạt gì nhưng được tiếng là công tử ăn chơi, coi tiền như rác. Khi về nước, cậu Ba Oai có dẫn theo người vợ đầm. Vẫn theo tin đồn của người địa phương, khi về làm dâu nhà ông Phủ Kiểng, cô đầm ấy không ăn mắm kho được, và hàng ngày phải xắc chuối cho heo ăn. Chán nản trước cảnh sống của đại gia đình như vậy cô vợ đầm của cậu Ba Oai xin về xứ. Còn cậu Ba Oai, từ ngày du học trở về, thường gọi cha là “Me xừ Kiểng” mỗi câu nhắc đến ông như phong tục Tây phương. Vì lẽ đó, trong các cuộc hội hè đình đám ở Mỏ Cày, nhiều người học chữ Nho, có chức phận trong làng, thường bàn tán với nhau:
- Ê? Có con đừng cho đi Tây học làm gì!
- Tại sao vậy? Một ông hỏi.
- Cho nó qua Tây du học, lúc về nhà nó kêu tên cha mỗi khi nói chuyện như cậu Ba Oai kêu ông Phủ Kiểng bằng “Me xừ Kiểng”. (Monsieur Kiểng)

Người con thứ sáu của ông Phủ Kiểng tên Nguyễn Duy Quang. Ông Quang sinh năm 1906 tại Đại Điền, được du học bên Pháp, tại trường Cao đẳng Thương Mại. Năm 1935, ông Quang về Huế làm Chánh văn phòng cho Hoàng đế Bảo Đại. Ông Quang là người được Hoàng đế tin cậy, cho tháp tùng vua và Hoàng gia sang Pháp 1939. Lúc trở về Nguyễn Duy Quang được cử làm Bố chánh tỉnh Thanh Hoá. Cũng như cha, ông Quang rất thân Pháp và được Pháp tặng thưởng nhiều huy chương. Ông Quang còn hai người anh là Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Duy Tiên, cũng có chức phận, nhưng không tài liệu nào nói rõ.
Con thứ chín là thầy Cai Tâm, một mẫu người đặc biệt, được dân chúng rất kính trọng. Tuy sống trên nhung lụa, hấp thụ văn hoá Pháp, nhưng thầy Cai Tâm chỉ muốn làm một chức vụ tượng trưng: Cai tổng. So với tài học và quyền thế của gia đình, nếu thầy Cai Tâm muốn làm Huyện hay Phủ cũng dễ như trở bàn tay. Tới lui ở công sở làng, hay dự những đám tiệc, thầy Cai Tâm thường nghe những lời xì xầm, bàn tán, gièm pha về những việc làm của thân phụ, nên ông sẵn sàng nhận làm Cai tổng như một cử chỉ thay cha, gián tiếp nhận lỗi và làm dịu bớt những lòi đồn xấu về cha của mình. Có lẽ cây đắng sanh trái ngọt. Trọng nghĩa khinh tài thầy Cai Tâm tuy giàu nhưng có lòng nhân, thích làm việc thiện. Ai có việc tang chế, túng thiếu, cứ đến trình bày với thầy sẽ được giúp đỡ tận tình. Thầy Cai Tâm còn xuất tiền riêng để lập nhà bảo sanh, mở thêm trường học ở quận, để con cháu tá điền có chỗ ăn học. Nhà văn Xuân Vũ đã viết về thầy Cai Tâm như sau:
“Tuy không theo đạo nào, nhưng cậu cúng đất cúng điền cho Thánh thất Cao Đài, cho nhà thờ Thiên Chúa và cho Tin Lành. Những công việc từ thiện đều được cậu hoan nghinh và giúp đỡ dễ dàng. Về tư cách của cậu cũng không có chỗ nào chê trách được. Cậu cưới vợ đàng hoàng. Không mèo chuột, vợ bé vợ mọn. Cậu xử kiện rất phân minh và không ăn hối lộ. Tiếng thanh liêm của thầy Cai Tâm bay khắp một vùng. Mấy vị hương chức lem nhem rất sợ thầy Cai Tâm. Năm 1944-1945, khi nghe tin nạn đói hoành hành ở Bắc Kỳ, thầy Cai Tâm đã tặng 1000 giạ lúa để chở ra ngoài Bắc cứu trợ. Thế nhưng khi Việt Minh cướp chính quyền, thầy Cai Tâm đứng đầu danh sách những người bị coi là Việt gian, bóc lột và bị kết án tử hình. Thanh niên Tiền phong đã đến bắt thầy Cai Tâm sau khi đã phá hoại ngôi nhà nền đúc của thầy. Họ trói tay thầy lôi ra sân banh, và hành quyết với bản án chỉ tóm tắt trong mấy chữ “hợp tác với giặc Pháp”.
Ông Phủ Kiểng còn có một con gái nữa, không nhớ tên, gả cho thầy Mười Nhẫn, tức Lê Quang Nhẫn, con trai ông Phủ Lê Quang Liêm. Ngoài ra, ông Phủ Kiểng còn làm sui với ông Hội đồng Bền, một cự phú khác cũng ở Gióng Miễu, Mỏ Cày.
Đất Mỏ Cày còn nổi tiếng với hai cha con ông Huyện Minh và Hội đồng Quá. Ông Hội đồng Quá người tổng Minh Quái, quận Mỏ Cày, giàu có nhưng hay tường công tiếc việc với kẻ ăn người ở trong nhà, và cả dân làng. Ông Quá nổi tiếng khi góp lúa ruộng dùng cái giạ già (đơn vị đong lường, nhưng nhiều hơn 40 lít) và khi cho vay thì dùng cái giạ non (kém hơn 40 lít). Ngoài ra, ông còn là người cho vay cắt cổ. Sự giàu có của ông là mồ hôi nước mắt của dân chúng, tá điền nghèo khổ bất hạnh đóng góp. Khi cho vay lúa, ông cho đong bằng cái giạ non, khi gạt mặt, còn hổng một lỗ trên mặt. Đến mùa góp lúa ruộng, ông đem theo cái giạ già thêm mấy lít, và gạt miệng vun chùn. Nhiều lần đi thâu lúa ruộng tại sân lúa tá điền, sau khi đong đủ lúa cho ông thì người mướn ruộng chỉ còn... cầm cây chổi quét sân mà nước mắt tuôn dòng. Làm ruộng được bao nhiêu đã đong hết cho ông vì đã mượn nợ, trả tiền lời, tiền mướn ruộng, không còn một giạ để ăn, nhưng ông không động lòng. Có một lần, một tá điền gạt lúa cộ về nhà đập xong, giẽ sạch, phơi khô rồi đong hết cho ông, nhưng cũng chưa đủ. Bà vợ ông Hội đồng Quá bèn hỏi tá điền:
- Mấy có mấy đứa con?
Tưởng bà nhân đức, hỏi gia cảnh để châm chế cho mình, cho lại vài ba giạ để các con ăn đỡ đói, người tá điền lễ phép thưa:
- Bẩm bà tôi có 5 đứa!
Bà Hội đồng Quá nói:
- Biểu một đứa con của mày vào ngồi trong cái giạ, rồi gạt cho tao.
Tá điền khốn khổ nước mắt rưng rưng, không nói thêm một lời.
Tuy giàu có, nhưng vẫn tham lam, đó là tại bản tánh ích kỷ của một số tá điền chủ ở Nam Kỳ ngày trước. Nhà ông Hội đồng Quá lúc nào cũng có nuôi 5 con heo nái, khoảng một chục heo lứa và hàng mấy chục heo con. Tôi tớ hàng chục nhưng đầu tắt mặt tối làm không hết việc. Hễ ai muốn vay mượn, nhờ vả điều gì khi tới nhà ông Hội đồng Quá, trước tiên là phải làm việc nhà như tôi tớ. Đàn ông thì quết chuối cho heo ăn. Có người phải giã trắng một hai cối gạo, rồi mới khép nép hỏi chuyện vay mượn. Đàn bà tới nhà phải xắc chuối cho heo ăn, ít nhứt cũng phải hai cây chuối. Còn việc vay mượn được hay không là chuyện khác. Cả tổng Minh Quái hầu như ai cũng có dịp giã gạo hoặc xắc chuối trong nhà ông Hội đồng Quá. Ông hà khắc với tất cả mọi người không phân biệt thân sơ, già trẻ, đến nỗi thân phụ ông là ông Huyện Minh, cũng bất bình. Theo lời dân địa phương, trong tổng Minh Quái, có đến 1/4 đất ruộng thuộc về Hội đồng Quá.

<< Nam Kỳ đất lành chim đậu | Các nhà giàu xưa ở Sóc Trăng >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 317

Return to top