Theo dư luận của người địa phương sắp hạng, các nhà giàu xưa ở Sóc Trăng như: “Nhứt An, nhì Phái, tam Chánh, tứ Định”. Đứng đầu trong giới đại điền chủ Sóc Trăng là bà Phủ An, tức bà quả phụ hàm Đốc phủ sứ Lê Văn An. Bà này là người quê quán tại Vĩnh Long, có chồng, rồi về lập nghiệp tại chợ Sóc Trăng. Bà có nhà lớn như dinh Tham biện, tại châu thành Sóc Trăng, nằm gần nhà ông chợ. Lúc đương thời, chỉ riêng một sở đất ở làng Hoà Tú, nằm bên bờ kinh xàng, rộng tới 1.121 mẫu. Người ở đây quen gọi là “Điền bà Phủ An”. Ở Nam Kỳ, nhứt là các tỉnh miền Tây, người ta gọi các sở ruộng lớn là “điền”, chớ không gọi “đồn điền” như ở ngoài Bắc. Cụ Vương Hồng Sển kể lại:
Ngày 6-5-1931, bà Phủ An từ trần, làm chúc ngôn do một tay tôi viết (vợ cũ cụ Sển là cháu nội bà Phủ An), và ký thác nơi phòng chưởng khê, cho Dương Thị Tuyết và Vương Hồng Sển đứng tên, làm chủ 220 mẫu ruộng tột trong làng Hoà Tú, và cho riêng cháu gái gọi bằng bà nội tư trang gồm vô số, cái bâu cổ không, cũng 320 hột, bông tai, cà rá và bạc mặt 80.000 đồng (một số tiền quá lớn vào năm 1931). Bà Phủ An tên thật là Lê Thị Lâu, sinh tại làng Long Mỹ, tổng Bình Thiềng, tỉnh Vĩnh Long. Ông Phủ Lê Văn An là người quê quán tại Đồng Môn, Long Thành Biên Hoà. thuở thiếu thời, nhờ thông hiểu tiếng Pháp, nên ông làm thông ngôn toà án Tây Ninh, rồi đổi xuống Sóc Trăng lập nghiệp. Ông mất năm 1920. Nhà cửa ông bà là một toà nhà lầu ngày nay côn kiên cố, ngó mặt qua dãy chợ cá của châu thành, và đó là toà nhà lầu đầu tiên tại Sóc Trăng, xây cất bằng bê tông cốt sắt”.
Gia đình giàu thứ nhì là ông Nguyễn Tấn Phát. Ông Phát có nhiều ruộng đất ở Giá Rai, Hộ Phòng lên tới Số Trăng. Ông Phát có nhiều con là Nguyễn Tấn Phòng, Nguyễn Tấn Nghị. Nối dõi là Nguyễn Tấn Lễ, Nguyễn Tấn Quyên, Nguyễn Tấn Lợi... là cháu nội. Tất cả con cháu đều đỗ đạt, làm quan, có người cử nhân, có người làm bác sĩ, làm làng, làm tổng. Gia đình này bây giờ chỉ còn lại mấy con kinh đào được dân chúng nhắc nhở: kinh xã Phát, kinh huyện Phòng (Nguyễn Tấn Phòng làm tri huyện), kinh xã Nhạn... Mặc dầu đào kinh để chở lúa về nhà, cho ghe hầu ra vô thăm lúa, nhưng nó vẫn là công trình phúc lợi cho dân chúng địa phương cùng hưởng. Người giàu thứ ba là Bà Hương Chanh. Bà Hương Chanh có chồng là người Tiều lai. Điền bà Hương Chanh chỉ thua điền ông Kho (Gressier), điền ông La Bách (Labaste) mà thôi. Bà Hương Chanh có mấy người con, đều coi là dân cậu, công tử như: Trần Đắc Lợi, làm hương chủ, dân chúng quen gọi “Ông Chủ Lý”.
Người thứ hai là Trần Đất Chương, bên ngoài hay gọi “Cậu ba Chen”. Các cậu Trần Kế Vĩnh, Trần Đất Tuấn... đều là những người sống phong lưu, ăn chơi đúng điệu công lử Nam Kỳ. Ông chủ Trần Đắc Lý là một người có lòng hào hiệp, coi tiền như đất cát. Mấy năm tản cư (1945-46), đồng bào chạy giặc ngang qua nhà ông, đều được tiếp tế đầy đủ gạo mắm, muối. Gạo lúa, muốn xúc bao nhiêu ông cũng không bao giò nói. Người giàu thứ tư là bà Tư Định. Bà không con, nên các cháu xa gần chia chác đất ruộng. Lần hồi họ cầm cố, bán manh mún.
Vài nhà giàu đặc biệt ở Vĩnh Long
Chúng tôi có kể lại các nhà giàu xưa trong tỉnh Vĩnh Long ở quyển “Địa Chí Vinh Long, hay “Vĩnh Long: đất nước, con người”. Nay xin kể thêm vài chi tiết mới. Một nhân vật có tên tuổi lớn thường được người dân cố cựu nhắc đến như những huyền thoại là ông Phủ Phạm Văn Tươi. Hồi trước, có người gọi ông là ông là Phán Ngọc, không biết nguồn tin ấy đúng hay sai? Xuất thân trong gia cảnh hàn vi, nhưng nhờ hiếu học, sớm thông chữ Pháp, khi vừa ra trường thông ngôn, Phạm Văn Tươi chỉ là tuỳ phái tại văn phòng Tham biện Chợ Lớn. Làm việc siêng năng, sáng trí, ba năm sau, ông được đổi ra làm thông phán, rồi kiêm bí thơ cho Toàn quyền Paul Doumer ở Hà Nội từ năm 1895 tới 1905. Paul Doumer làm Toàn quyền ở Đông Dương gồm hai nhiệm kỳ. Ông Phán Tươi được triều đình Huế ban cho chức Tổng đốc... hàm trong một dịp tình cờ rất đặc biệt.
Trong các Toàn quyền Đông Dương, chỉ có Paul Doumer để lại nhiều giai thoại được dân chúng truyền tụng hơn cả. Trong quyển hồi ký “Đông Dương thuộc Pháp”, ông tự diễu cợt mình bằng cách ghi lại câu nói: Người Việt nam thường gọi tôi là “Ông Đù má”. Trong các Toàn quyền chỉ có Paul Doumer là người xông xáo, thích mạo hiểm, từng cỡi ngựa đi khắp Đông Dương, lên tới Lào Cai, Vân Nam, rồi vô Huế, Sài gòn... Chính ông là người phác hoạ kế hoạch đặt đường xe lửa Xuyên Việt, đường Hà Nội - Vân Nam, và một dự án không thành, là đặt đường xe lửa từ Qui Nhơn lên cao nguyên Boloven tới Nam Lào.
Hồi đó, đường xá chưa mở mang, mỗi lần muốn đi đâu phải đi bằng ngựa. Mỗi lần tới đâu, ông Paul Doumer không bao giờ báo trước cho nhà cầm quyền địa phương. Một lần cao hứng, ông cùng Phán Tươi và vài người tuỳ lùng lên đường thiên lý (con đường cái quan, hay đường trạm cũ) để thăm Huế và Sài gòn. Paul Doumer và tuỳ tùng, mỗi người một ngựa lên đường, ngất ngưởng như phái đoàn của Tam Tạng đi thỉnh kinh.
Tới Huế, Paul Doumer báo tin cho hoàng gia là muốn “viếng thăm Quốc vương An Nam”. Lúc đó Quốc vương là vua Thành Thái cùng đình thần nghe tin sửng sốt, lo sợ vì không hay biết trước đề chuẩn bị nghi lễ tiếp đón. Để bù lại, triều đình tổ chức một buổi lễ đại yến để đãi Toàn quyền. Quan khách được mời phải là hàng hoàng thân, các quan từ nhị phẩm trở lên, còn quan ở các địa phương gần phải từ Tổng đốc mời được dự. Danh sách các quan khách ấy phải gởi cho toàn quyền duyệt trước. Thấy người thông ngôn, cũng là người bạn thân tín của mình là ông Phán Tươi không được mời thì Toàn quyền thắc mắc. Triều đình cho biết ông Phán Tươi là người dân giã không có chức tước phẩm hàm cao, nên không thể mời. Cuối cùng triều đình nhượng bộ bằng cách phong cho ông Phán Tươi chức “Tổng đốc... hàm” và cho ông mượn một bộ lễ phục Tổng đốc để dự tiệc. Nhưng sau đó triều đình ra lịnh thâu hồi chức Tổng đốc của ông Phán Tươi lại.
Về sau, khi P. Doumer về nước rồi, ông Tươi đổi đi các tỉnh ở Nam Kỳ, và được phong Đốc phủ sứ vào năm 1902.
Sau tiệc, phái đoàn từ giã, lên đường vào Nam. Vua Thành Thái cử một phái đoàn do một quan đại thần cầm đầu, ngồi võng, có lọng che với quân lính, cờ quạt theo sau. Dân chúng nghe tin, hiếu kỳ ra đứng đông nghẹt hai bên đường để xem mặt “Toàn quyền”. Phái đoàn Paul Doumer mặc đồ thường, cỡi ngựa đi sau, không ai chú ý, vì họ tưởng người ngôi lên kiệu đưa tiễn chính là “quan Toàn quyền!” Hồi năm 1927, tại dinh Thống đốc, có tổ chức một dạ tiệc lấy tên là “bai de Lagrandière”. Người Pháp muốn làm sống lại các nhân vật có công với Pháp lúc họ mới đặt chân vào xứ Nam Kỳ, nên cho một số các quan phủ, huyện đóng những vai ấy như một vở kịch. Lần đó, các ông sau đây:
- Phạm Văn Tươi thủ vai Kinh lược Phan Thanh Giản.
- Ông Phủ Trụ ở Cái Bè, đóng vai Thượng thư Phạm Phú Thứ, phó sứ.
- Trần Tử Khuê (con) đóng vai Trần Tử Ca.
- Trương Vĩnh Tống (con) đóng vai Trương Vĩnh Ký.
- Nguyễn Văn Mai (giáo sư) đóng vai Lãnh binh Huỳnh Công Tấn.
- Ông Huyện Nguyễn Hiền Năng đóng vai Tôn Thọ Tường.
- Về phía các nhân vật Pháp, có các ông Phủ Hải, cò mi Lân, Nguyễn Bá Hối... đóng các vai những nhân vật quan trọng như Trung uý Francis Garnier.
- Phía các nhân vật Hoa kiều như Wang-tai (do Mechin, người Pháp thủ vai này), còn Levy thủ vai Tan-kang-sinh... Đây là buổi dạ tiệc rất long trọng, do Thống đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse chủ toạ. Các quan lớn phải sắm thêm đồ đại lễ, hoặc mượn các áo dài, khăn đóng, lễ phục của các quan đàng cựu... Ông Phủ Phạm Văn Tươi là người Việt nam duy nhứt được Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh đệ tam đẳng. Khi ông mất, Toàn quyền Nam Kỳ, chủ tịch Thượng nghị viện Pháp (Paul Doumer) đều có điếu văn thương tiếc.
Thói ăn, nết ở của các nhà giàu xưa:
Thói thường, cha kiếm tiền dễ, con phải xài phí, điều đó gần như một định luật. Các nhà giàu xưa ở Nam Kỳ luôn luôn là các điền chủ, làm giàu nhờ ruộng. Làm quan lớn, có tiền mua thêm ruộng. Làm ruộng, cho tá điền làm mướn là cách thâu huê lợi chắc chắn, ổn định nhứt. Nhiều người đã giàu rồi vẫn còn hà khắc bóc lột, nông dân tá điền. Đọc những quyển tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chúng ta gần như thấy hết những cảnh sống cực khổ, lam lũ của người nông dân, đồng thời thấy nếp sống trưởng giả, xa xỉ của các nhà giàu xưa. Có dân Hồ Biểu Chánh viết: “Làm ruộng ở xứ mình là làm lợi cho chủ điền chớ ham làm chi”. Trong quyển “Nhân tình ấm lạnh”, quan phủ đi ăn tân gia, rồi sẵn dịp “làm tiền khéo léo, hăm doạ các chức việc làng như sau:
- Xã! (Xã trưởng) sao mày không lo thâu thuế mà đóng cho tốt, lại bê trễ dữ vậy? Quan lớn Chánh (Chủ tỉnh) mới biểu tao viết trát mà quở làng, mày được trát hay chưa?
Xã Chọn nghe quan Phủ kêu, lật đật chạy tới chấp tay mà xá, chừng nghe quan Phủ nói tới chuyện quan lớn Chánh quở làng, thì mặt biến sắc và nói rằng:
- Bẩm quan lớn, xin quan lớn thương giùm làng chúng tôi!
- Thương nỗi gì! Tháng này mà các sắc thuế còn thiếu cho tới 2000 đồng.
- Bẩm quan lớn, làng tôi còn thiếu thuế nhiều là vì mấy ông điền chủ ở xa, không chịu đem bạc tới mà đóng. Làng chúng tôi có phúc bẩm ba bốn lần, xin quan lớn Chánh thâu dùm mà họ cũng trơ trơ, chớ phải chúng tôi dám bê trễ đâu... Làng tôi có thiếu thuế đinh (thuế thân) là tại mấy chục dân đào, nên thâu không được.
- Thì thâu trước đi, ai biểu để trễ làm chi cho chúng nó đào (trốn)?
- Bẩm quan lớn...
- Thôi, đừng bẩm chi nữa!
Nhắc thêm về cách ăn ở của ông Hội đồng Quá tại Mỏ Cày. Ông có nhiều con, trong số có một người con trai tên Ất, ăn ở hiền lành hơn cha. Tuy nhiên, cậu Ất ham cờ bạc, thân mật với tá điền, rộng rãi với anh em, điệu nghệ với bạn bè, hay ăn xài lớn.
Trước khi chết, ông Hội đồng Quá có làm di chúc để lại, chia cho cậu Ất một phần nhỏ gia tài, nhưng cấm cậu để tang và lạy trước linh cữu
Khi Hội đồng Quá mất, quan tài quàn luôn trong 3 tháng 10 ngày (100 ngày). Ngày nào cũng ngả heo, bò đãi khách tới viếng. Trong thời gian đó, cậu Ất năn nỉ với người trong gia đình cho mình được mặc đồ tang và lạy cha báo hiếu. Sau nhiều ngày thuyết phục, bà con lối xóm ai cũng nói vô, khiến người trong gia đình xiêu lòng, chấp thuận yêu cầu của cậu. Trong khi đứng vái, rồi phủ phục trước quan tài, tự nhiên nghe tiếng “rắc”, rồi như có sự trở mình của người nằm trong quan tài. Cái bản kê từ từ giãn ra, rồi bung cả nắp hòm. Mùi hôi thúi xông lên nồng nặc, khách khứa bỏ chạy tán loạn. Điều đó tuy có vẻ hoang đường nhưng là sự thực. Mỗi khi xác chết còn quàn hay chưa tẩm liệm, người thân hay bạn bè tới lạy, tự nhiên “xì hơi”. Nếu ít thì đem cây đèn cầy tới rà dọc theo nắp hòm, cây đèn cầy sẽ tắt!
Theo lời người địa phương, trước khi chết, ông Hội đồng Quá đau bịnh liên miên. Một hôm có mấy người ở đợ trong nhà ông Huyện Quá tới thăm ông Huyện Minh, thân phụ ông Quá. Ông Huyện Minh hỏi đầy tớ:
- Ông bây bịnh đã đỡ chưa?
Một trong mấy người đầy tớ thưa:
- Bẩm ông, ông con cứ đau rề rề hoài.
- Bây về biểu nó (Hội đồng Quá) lấy cái cơi gạt lúa, xắc uống thì hết.
Mấy thập niên đầu thế kỷ, người ta đong lúa với cái giạ bằng tre, xây tròn như cái giạ bằng thiếc Cao Bằng, trên miệng có niềng mây đóc. Khi đong lúa cho tá điền vay, Hội đồng Quá dùng cái giạ cũ, xài lâu ngày, gạt miệng mòn đi, ít hao lúa. Đến mùa thâu lúa ruộng, ông dùng cái giạ mới, với cái cơi gạt vun chùn, như vậy sẽ dư ra vài lít. Mỗi năm thâu vô bán ra hàng chục ngàn giạ, ông lấy dư của tá điền vô số kể. Đối với Hoa kiều từ các chành lúa đến mua, họ đem theo cái giạ riêng, khó ăn gian.
Ông Hội đồng Hoài ở Mỏ Cày, có người chị ruột là bài Hai Sang, giàu có, nhưng ăn ở thiếu nhân đức với kẻ dưới tay. Mỗi dân tới mùa cấy, dân trong làng đều khổ với bà. Mới 4 giờ sáng, bà cho gia nhân đi lùa dân làng ra ruộng cấy lúa cho bà. Ai có chuyện gì cần thiết, gấp rút cũng không được miễn. Có điều cấy xong, bà trả tiền sòng phẳng. Còn công việc nhà, công cấy mà họ đã lãnh tiền trước của chủ điền khác, bà không cần biết, miễn được việc của bà thì thôi. Nhiều người lỡ nhổ mạ rồi, cơm nếp vừa nấu chín để sáng gánh ra ruộng cho thọ cấy ăn, năn nỉ với bà, bà thản nhiên:
- Vậy mạ của tao nhổ rồi, để đó cho nó hư hay sao?
- Tao cũng nấu xôi, cơm nếp cho thợ cấy ăn rồi?
Rốt cuộc họ cũng phải cấy cho bà. Trong lúc họ cấy, bà cho đầy tớ bơi xuồng theo để kiểm soát chung. Chúng ta thường nghe các điền chủ ăn ở bạc ác, bóc lột tá điền, kẻ ăn người ở trong nhà, nhưng chưa biết họ tàn ác ra sao. Vẫn theo lời kể của cụ bà, thân mẫu nhà văn Xuân Vũ, bà Hai Sang, chị ông Hội đồng Hoài bị mùa mắt, chỉ thấy lờ mờ. Tuy vậy, mỗi khi thợ cấy xuống ruộng, bà ngồi xuồng theo để coi chừng. Có khi công việc làm nhiều quá, bà bắt họ phải cấy từ sáng sớm tới khi lên đèn, tức là lúc chạng vạng tối. Một lần, các thợ cấy tới tối mịt mà chưa xong, bà nói:
- Trời tối chưa bây?
- Dạ thưa bà, tối quá không thấy đường!
Bà liền dùng cây dầm bơi xuồng, đánh túi bụi vào người ấy, vì họ dám nói “tối quá”, bà suy luận họ châm chọc bà, kêu ngạo bà mù loà.
- Mồ tổ cha tụi bây, ngạo tao hả?
Còn dưới đây là tình cảm của những người tá điền đến kỳ gặt lúa, nhưng không có đủ lúa đong trả nợ: “Một lần, tôi đến thăm một anh bạn ở Sóc Trăng, nhằm lúc tá điền tới góp lúa. Hai ba nông phu, kẻ năm sáu chục tuổi, ngồi bệt xuống gạch, chắp tay xá ông thân của anh bạn tôi, làm hương cả, để xin thiếu ít chục giạ lúa ruộng vì đất mới còn phèn, lại bị cua, chuột phá... Ông hương cả có vẻ xiêu lòng. Muốn mau có kết quả, mấy người tá điền bèn quy lại, chắp tay, cúi đầu xá anh bạn tôi, lúc ấy mới ngoài hai mươi tuổi...
-Chúng lôi lạy cậu Hai, cậu...
Anh bạn tôi cũng đứng dậy và ông thân của anh vội xua tay, bảo họ xuống nhà dưới ngồi chờ.
Khi họ đã khuất, anh bạn tôi bảo tôi:
- Tôi có tang chứng rằng họ đã chở đi một số lúa rồi. Nghĩ giận mà cũng thương họ. Họ nghèo quá nên phải làm như vậy. (“Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười” của Nguyễn Hiến Lê, trang 57)
Những nhà giàu xưa ấy, mỗi năm đều có đám tiệc như đám giỗ, đám cưới, hoặc những dịp vui chơi khác. Chẳng hạn như ông Nguyễn Tấn Lợi ở Sóc Trăng, từng du học bên Pháp đỗ Tiến sĩ, nhưng không ra làm quan, thích lập đồn điền để vui thú. Ngôi nhà lớn có lầu ở giữa, hai bên là lẫm lúa, mỗi lẫm 5 căn. Khi có đám giỗ, ngả bò, vật heo, tá điền tề tựu hàng trăm, vui chơi ăn uống, bài bạc còn hơn hội chợ của chính phủ tổ chức. Làm điền chủ thuở trước ở Nam Kỳ ít bóc lột dân trong điền, tá điền vẫn kính trọng đến khi chết vẫn còn người nhắc nhở. Nhắc đến bà Phủ An, người địa phương còn kể lại “khi ông mất, một tay bà quá xuyến điền đất, khai thác ruộng, kinh doanh càng ngày càng thêm phát đạt. Bà có phần về cung nô bộc. Tôi tớ bạn bè ở trong nhà bà có lên ba mươi người, mà người nào ở với bà cũng vài ba chục năm. Một tiếng hô, họ tuân răm rắp. Lúc bà chết, còn để lại giấy công nọ tá canh, mướn trâu cày ruộng lên tới mấy trăm ngàn đồng. Ngoài số bạc mặt 80.000 đồng, bà còn một lẫm lúa 5 căn, dầy nhóc. Lúc ấy (1931), giá vàng là 50 đồng một lượng thì đủ biết tài sản, sự nghiệp của bà như thế nào.
Bà Phủ An tuy giàu nhưng không có con. Vô hậu là tội bất hiếu lớn nhứt thời đó. Bà nuôi hai người cháu (còn gọi bằng bà nội). Khi bà đau, bác sĩ khuyên ăn lạt, nhưng hai cô cháu (tên Ngọc, Ngà) khóc lóc, nài nỉ, nấu cháo sò huyết, nấu bánh canh cua, nêm nước mắm Hòn, nước tương tàu, ép bà ăn. Họ nói: “Phải có hột cơm, cháo mới mau mạnh”. Những người đang bịnh, lại ăn những thứ đó, mau chết. Có người đồn rằng, hai cô cháu muốn cho bà mau chết để hưởng gia tài. Chuyện đó hư thật không ai biết, chỉ người trong cuộc. Hồi nửa thế kỷ trước, các ông nhà giàu xưa, các ông huyện hàm, phủ hàm (chức danh dự, không có thực quyền) hàng ngày xách ba-ton dạo xóm, hoặc đá gà, ăn giỗ, đánh tứ sắc, chớ không có việc gì làm. Lâu lâu họ mới đi thăm ruộng, có người chèo ghe, đưa đón. Ít có điền chủ sống hoà mình với tá điền.