Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Hồi Ký, Tuỳ Bút >> Hồi ức về Nguyễn Văn Huyên

  Cùng một tác giả
Không có truyện nào


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 26184 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Hồi ức về Nguyễn Văn Huyên
Nguyễn Kim Hạnh

Ông ngoại của tôi

Hồi chạy bom thời Nhật ở Hà Đông, gia đình bác Tú Cương ở sát vách gia đình tôi. Anh Phan Vi Long thường hay sang nhà tôi chơi. Có lần anh đã trông thấy bà tôi từ Hà Nội vào thăm mẹ tôi khi bà sinh bé Huy. Còn tôi được gặp bà nội anh mà chúng tôi thường gọi là cụ Huyện. Một hôm anh hỏi tôi: “Vì sao chúng mình lại có một ông hai bà nhỉ?” Câu hỏi đó tôi cũng chịu không giải thích được. Quả là chúng tôi có chung một ông Vi Văn Định còn bà riêng của chúng tôi thì hoạ hoằn lắm mới gặp một vài lần. Ở cái tuổi mà anh Long nhận xét về bà mình “có cái cổ nhiều thịt giống cổ bò” thì đúng là không sao hiểu được về mối quan hệ huyết thống dòng họ.
Khi ông ngoại tôi ở tuổi 96 thì mất (20 - 10 Ất Mão), bấy giờ mẹ tôi mới lấy những tấm đồng gia phả về nhờ dịch (những tấm gia phả bằng đồng phải gói vào một tấm vải to nặng mấy cân). Bấy giờ tôi mới được đọc và hiểu về dòng tộc mà bác Kim Yến luôn tự hào nói là dòng tộc “trâm anh thế phiệt”.
Đọc gia phả lôi ngỡ ngàng, bởi lẽ ở ngoài xã hội tôi chỉ biết ông ngoại theo dư luận thì ông là kẻ thù của giai cấp, may mắn lắm nhờ ơn Cách mạng ông mới được xếp vào hạng “nhân sĩ liên bộ”. Cái vở kịch như kiểu của Học Phi luôn lấy ông tôi làm nhân vật đối kháng làm nhân chứng lịch sử để trình diễn trước công chúng. Đó là những nỗi tủi mà tôi mang theo suốt tuổi niên thiếu.
Chẳng phải chỉ có tôi. Các anh chị em họ thuộc nội ngoại họ Vi đều né tránh mà lấy bí danh khác như Mai Vi, Chu Quang, hoặc đổi bỏ đệm còn hai tên Vi Phác, Vi Bích. Các anh chị tôi đều giống thế hệ trẻ đương thời, không mang họ Tôn Thất, Nguyễn Phước mà đổi thành Tôn Đức, Nguyễn Thị, Nguyễn Ngọc…
Về sau này khi những người như Học Phi dùng ngòi bút của mình đính chính bằng cách trích dẫn lời Bác Hồ: “Lòng yêu nước là đạo đức của mọi người” hoặc chính ông Học Phi phê phán “người viết lịch sử Đảng có thiên hướng quy tất cả cho ý thức giai cấp, mọi việc đều xuất phát từ quyền lợi giai cấp chứ không phải từ quyền lợi của dân tộc”. Đồng thời đã nhắc lời đồng chí Trường Chinh: “Tính chất lịch sử là yếu tố thứ nhất trong hồi tưởng cách mạng” thì ông Học Phi đã viết câu kết: “Tôi muốn câu này được mở rộng ra cho tất cả các thể loại viết lịch sử Đảng”. (Trích bài viết của Học Phi đăng trong Xưa và Nay. Đăng lại trên tờ Công An Thành phố Hồ Chí Minh).
Vào thời điểm lịch sử đã xa dần, trong họ Vi cũng có sự đổi thay. Hoạ sĩ Ngọc Linh tức Vi Văn Bích đã có cuộc triển lãm thứ chín “Tôi Hà Nội yêu” nhân dịp anh vừa tròn 60 tuổi (29-10-1995) đã trả lại cho chính mình quê hương bản quán là người Tày Lạng Sơn chứ không phải Cao Bằng. Và anh đã vẽ “ông Nội tôi” một bức lụa 85x50 đội mũ cánh chuồn, đi hia và mặc áo gấm rồng phượng có cân đai chỉnh tề…
Mẹ tôi hiểu tâm sự của tôi. Muốn chúng tôi không mặc cảm mà phải ngẩng cao đầu mà sống, để mà hãnh diện với đời là đã sinh ra từ một dòng tộc của người mẹ được đất nước giao trọng trách “trân ải biên cương”. Cho nên mẹ tôi đã trao cho tôi đọc gia phả đã được dịch.
Gia phả có ghi: “Từ đời cụ Vi Kim Thăng hiện là Đinh Mật triều Trần, xã Vạn Phần, tổng Vạn Phần, huyện Đông Thành, Xứ Nghệ”: Quả thực tôi chưa thể lý giải vì sao họ Vi lại có quê tại Lạng Sơn, Lộc Bình, Bản Chu? Và cũng chưa hiểu vì sao lại trở thành dân tộc Tày?
Nhân đọc “Chính sách dân tộc thời Lý Trần Lê Sơ” của Vũ Trường Giang - Tuấn Nam (Thế Giới mới 1999) tôi hiểu thêm những điều về chính sách dân tộc thời xa xưa. Hiểu thêm về những điều mẹ tôi thường kế về tập tục “Thất tộc” trong quan hệ hôn nhân tại vùng biên cương phía Bắc của Tổ quốc. Mẹ tôi kể rằng chỉ tới thế hệ của mẹ tôi tập tục này mới bị phá vỡ.
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, vấn đề giữ vững và ổn định tình hình chính trị - xã hội ở vùng biên cương luôn được các triều đại phong kiến Việt nam đặc biệt quan tâm: “… Đấy là địa bàn trọng yếu, kế cận với quốc gia láng giềng và là khu vực có mức “ly tâm” rất lớn đối với sự kiểm soát của nhà nước trung ương, đó là điểm dễ bị các thế lực ngoại bang lợi dụng”.
Hình như mẹ tôi nhận thức sâu sắc về chức phận của dòng tộc mình nên luôn nhắc nhở, truyền cho con cháu có chung một nhận thức là từ ngàn xưa nhà nước phong kiến luôn tìm phương sách hay mô hình quản lý đối với các dân lộc vùng biên ải. Như nhà Lý dùng hôn nhân để liên kết ràng buộc các tù trưởng. Thời Lý Công Uẩn gả công chúa Bình Dương cho Châu mục Châu Lạng là Thân Thiện Thái, (Tập 1, trang 259 Đại Việt Sử ký toàn thư. Xuất bản năm 1983), gả công chúa Kim Thành cho Châu mục Châu Phong là Lê Tông Thuận (như trên, trang 265)…
Chính bằng mối quan hệ thân tộc này, nhà Lý không những nắm được dân, được đất mà còn thắt chặt mối quan hệ dân tộc, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của triều đình tới vùng biên giới xa xôi… Cho đến triều Lê, họ Vi cũng đã nằm trong việc vận dụng chính sách lúc mềm mỏng lúc cứng rắn này. Và vì vậy bảy họ: Vi, Nguyễn Đình, Hoàng, Nông, Hà… đã được giao nhiều trọng trách, duy trì chế độ tự quản ở vùng biên giới, ban thưởng cho các tù trưởng có công một cách xứng đáng… Nhờ vậy nhà nước phong kiến ở các thời đại đã tập hợp được hầu hết các dân tộc thiểu số vào khối đoàn kết toàn dân cùng chống giặc ngoại xâm.
Mẹ tôi luôn tự hào về những trang nhật ký của Cụ ngoại Vi Văn Lý cũng là với lý do như vậy.
Theo gia phả và lịch sử Thổ ty của tỉnh Lạng Sơn thì cụ tổ Vi Kim Thăng làm quan triều Trần:
“Đến năm Hưng Long đời Trần Vi Kim Tôn do quân tịch làm quan đến chức Đô đốc dinh tước phong vạn quân truyền đến con là: Vi Kim Đính được dự quan chức ở Hoan Châu, tức Nghệ An bấy giờ và kiêm chức vận lương cho quân lính đi đánh Chiêm Thành. Vì có công trong chuyển vận lương được phong tước Hằng quận công. Đến đời con tức cháu Vi Kim Tôn là Vi Kim Thăng được tập ấm bổ chức Trực Điện Kim đạo ty. Tuổi trẻ lanh lợi được vua yêu mến cho giữ chức Kim Ngô.
Đến khi Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần, ông Vi Kim Thăng không chịu theo, ngấm ngầm chạy sang Trọng Quốc cầu cứu nhưng việc không thành ông phải ở lại Trung Quốc giáp biên giới nước ta. Người nhà Minh mời ông ra giúp việc ông cũng không nhận. Khi nhà Minh sai Lý Bân, Mã Kỳ sang xâm chiếm nước ta thì Lê Lợi (Lê Thái Tổ) nổi lên ở Lam Sơn. ông Kim Thăng cùng con trai là Vi Đình Hân giúp Lê Lợi chống quân Minh thắng lợi (1428). Có công phò Lê nên được phong chức. Riêng Vi Đình Hân được phong Đô đốc Đồng tri quận công đem 15000 tướng sĩ lên Lạng Son. Từ đó họ Vi cùng 6 họ khác đời đời làm Thổ ty tập tước bảo vệ biên cương đất Việt. Thất tộc đó là: Vi, Nguyễn Đình (1), Hà, Nông, Hoàng Đình, Hoàng Đức và Nguyễn Đình (2).
Theo Lịch sử Thổ ty Lạng Sơn lập từ năm 1850 đến năm 1921 có đoạn ghi đầy đủ các đời làm quan từ thời Trần cho đến thời Lê… Cụ Vi Kim Thăng, chiêu tập dân định cư các trại, các động theo Lê Lợi đánh giặc. Giặc tan, thưởng công, ông được liệt vào công đầu tấn phong tước Trụ quốc Thảo lộ Tả Đô đốc Mật quận công giữ chức thủ tướng.
Năm Thuận Thiên thứ 4, vua Lê lại phái con ông Vi Kim Thăng là Vi Đình Hân giữ chức Đô đốc Đổng tri Hoàn quận công mang hơn 3 vạn quân lên Lạng dẹp giặc (Hồ Kim Khuê làm vua xứ Lạng) kiêm trị các nơi thuộc tỉnh Quảng Yên”.
Mẹ tôi chỉ cho tôi xem một trang chụp trên báo cũ (từ ngày 15-3- 1940) có tóm tắt 14 đời họ Vi để tôi đối chiếu với gia phả mới dịch. Như vậy đến đời cụ thân sinh ra ông ngoại tôi được phong “Hiệp tá Đại học sĩ, Tổng đốc Lạng Sơn, Tràng Phái nam Vi Văn Lý”. Đó là đời thứ 13. ông ngoại tôi thuộc đời thứ 14.
Mẹ tôi nói sau khi tôi trả lại tập ảnh chụp: “Không phải dễ gì đời này tiếp nối đời kia vẫn giữ phẩm chất của người quan biết chăm lo việc dân việc nước. Mất cái gốc ấy khó tìm được sử sách lưu truyền muôn thuở”.
Năm 1994, bác Kim Yến có trở về thăm quê. Con cháu cùng theo bác vào tận Lộc Bình, Bản Chu. Nếu mẹ tôi còn chắc sẽ không vắng mặt. Trong chuyến về quê đó, bác có dừng chân tại Lạng Sơn, cô tiếp viên có kể lại là năm 1979, thị xã bị chiến tranh biên giới phá hết, dinh Thống sứ cũng bị phá không còn dấu vết. Bác đã chỉ cho con cháu cái thềm nhà Thống sứ. Nơi đây có sự kiện mà bác không bao giờ quên. Đó là câu chuyện cụ Lý đã yêu cầu chụp ảnh lưu giữ lại dấu ấn cho con cháu mai sau về một tinh thần dân tộc. Theo Quy ước thời bấy giờ, nhà vua phong trang ấp và thần dân cho các quan cai quản, có trách nhiệm phải bảo vệ dân. Bấy giờ một tên quan ba Pháp bắt bốn người dân trong lãnh địa do cụ phụ trách, theo Quy ước thì phía Pháp trái luật. Thống sứ và cụ Lý, bấy giờ là Tổng đốc, thi hành án phạt tên quan ba trước thềm này. Bác còn nhớ như in 2 hàng quân một bên là lính Pháp và một bên là lính Cụ, tên quan ba nằm giữa có 2 người cầm roi đánh đủ số roi theo luật. Rồi bác nói: “Quy ước được thực hiện, điều đó chứng tỏ cụ Lý là người như thế nào”.
Vào ngày 14-10-1989, tôi đọc trên báo Thể thao Văn hoá số 41 về phát hiện hai bia niên đại Chính Hoà ở Lạng Sơn (1680) cao 1 mét, rộng 0,75 mét được đặt tại chùa Trung Thiên xứ Mẫu Sơn với 300 chữ khắc trên bia có đoạn viết: “Đô tổng binh xứ lý, tổng binh xứ Bác quận Đô đốc Thiên sứ Vũ quận công Vi Đức Thắng, tự là Vạn Thọ người xã Khuất Xá, châu Lộc Bình, phủ Trường Kháng xứ Lạng Sơn đạo Kinh Bắc An Nam… Tự phát công bồ đề xây chùa lô tượng… Đời đời con cháu làm phiên thần trung tận tiệt, trung hiếu song toàn. Thụ mệnh quốc vương làm nhân thần, phiên trông lại phong sắc trấn thủ nội thành, ngoại thị, chế ngự biên cương, gìn giữ quan ải, ứng phó với Thiên Triều làm cho biên cương hai nước yên ổn, cho mạch nước được vững bền.
Tôi tìm lại gia phả, đối chiếu lại lịch sử Thổ ty thì Về quận công Vi Đức Thắng chính là cụ tổ đời thứ 7 của dòng tộc mẹ tôi. Nhân tìm thấy bia niên đại Chính Hoà, ông Hoàng Giáp tiếp tục tìm hiểu hai gia phả họ Vi và họ Nguyễn Đình (cất tại nhà anh Nguyễn Đình Bảo thị xã Na Sầm, huyện Văn Lang) thì trong gia phả Nguyễn Đình có viết: “Tướng quân Đô đốc Thiên sứ Nghi quận công Nguyên Cẩm Miên đem 15 000 tướng sĩ lên Lạng Sơn làm chánh tuần phủ công người bản xứ Đô đốc Đồng tri Hoàn quận công Vi Đình Hân cũng đem 15 000 tướng sĩ lên Lạng Sơn làm phó tuần phỉ đóng tại hoàn thành cùng chia giữ biên cương chia giữ các cửa ải Nam Quan, Bình Nhi, Bình Lăng, Thân Quan, Kết Quan. Mỗi cửa quan cử 2000 lính để trân giữ quân phương Bắc”.
Ngày 14-10-1989, khi tìm thấy văn bia niên đại Chính Hoà thì mẹ tôi đã ra đi tròn một năm (13-10-1988). Nếu mẹ tôi mà biết được hẳn là vui mừng lắm. Chắc mẹ tôi cũng sẽ làm như tôi, lật mở Thổ ty Lạng Sơn để biết về cụ Vi Đức Thắng:
“Vào đời Lê Huy Tông đã được trao chức cao nhất là Đô đốc Thiên sứ được quyền phân xử mọi việc xứ Lạng kể cả giao hiếu với Trung Quốc. Sau khi đi sứ nước Tầu về, được thưởng binh lương hai huyện Bảo Lộc và Lục Ngạn làm thái ấp”.
Ông Hoàng Giáp tìm dịch toàn văn hai văn bia và dịch sắc chỉ Chính Hoà năm thứ 1 (1680) gửi cho cụ Vi Đức Thắng nhận lệnh dẹp giặc. Đồng thời ông lần tìm ngọn nguồn hai danh nhân trong bia: Vi Đức Thắng và Thân Công Tài thì càng thấy rõ hai vị tướng được nhân dân ca ngợi công lao như sau: “Hai vị tướng một bản xứ họ Vi, một khác xứ họ Thân, một Tày, một Kinh, một chánh, một phó tướng đã khéo hoà nhập với nhau cùng một lòng yên nước thương dân nên giữ yên biên giới, chú ý nông nghiệp, phát triển thương mại, làm cho dân giầu móc mạnh…” Ngay từ ngày ấy các ông đã có công xây dựng làm nên phố Kỳ Lừa ngày một phát triển. Mẹ tôi thường tự hào về cụ Vi Văn Lý (ông nội của mẹ tôi) về những chiến công hiển hách của cụ. Mẹ tôi thường viết nhật ký: “Suốt đời vai khoác áo nhung trên lưng ngựa chinh chiến với quân phương Bắc”. Trong gia phả có riêng vài trang tóm tắt chiến công oanh liệt của cụ Vi Văn Lý: “Năm Tự Đức thứ 6 (1854), bấy giờ ta 24 tuổi, thưa lệnh đem quân Thổ ty đi tiễu phỉ ở phố Đồng Nhân. Lần này được thưởng Phi Long ngân tiền. Năm sau phòng ngự ở xã Thạch Bi, lần này cũng được thưởng… Đến năm Tự đức thứ 10 (1857), được bổ thụ Thiên Hộ.
Năm Tự Đức thứ 12 (1859), đi tiễu phỉ ở xã Yên Lập thuộc tỉnh Quảng Yên, sau khi dẹp yên, được thưởng.
Năm Tự Đức thứ 13 (1860), đi chặn đường biên giới, được thưởng hai lần Phi Long ngân tiền và tiền 16 quan…
Năm Tự Đức thứ 15 (1862), khi giặc cướp nổi dậy ở nhiều nơi, làm cho nhân dân không yên ổn làm ăn… Tất cả tám chín trận tiễu phỉ đều được công trạng, được hưởng kỷ lục và 7 đồng ngân tiền…
Tháng 3 năm Thành Thái thứ 5, phụng chuẩn hực thụ tuần phủ. Hàm hưu đường là thường Long Bội Tinh hạng 5. Lại gia tặng cho Cha Mẹ. Cha được tặng Thái Thượng bộc tự khanh, Mẹ được tặng Tòng tam phẩm Thục nhân…”.
Vào dịp con trai Kim Hiền, cháu ngoại của bà sang Pháp học (1995- 1996) có lại thăm ông Hoàng Xuân Hãn. Cháu có ghi âm đoạn kể về cụ thân sinh ra ông Hãn đã cùng ông ngoại tôi sang tận Trung Quốc chuộc hài cốt của cụ Lý bà. (Nay mộ cụ Lý đặt tại Lộc Bình quê hương họ Vi).
Đến đời ông ngoại thì Tây không để ông tôi làm quan trên biên giới nữa. Đó là chính sách điệu hổ ly sơn của thực dân Pháp. Mới đầu chúng đưa ông tôi rời quê làm tuần phủ Cao Bằng (1920), sau rồi chuyển về làm Tuần phủ Phúc Yên (1922). Rồi từ Phúc Yên chuyển về làm Tuần phủ Hưng Yên (1925). Ngày ở Hưng Yên bác Kim Thành đã lấy chồng chỉ còn ba chị em Kim Yến, Kim Ngọc và Kim Phú đi theo cha mẹ. Tại nơi đây mẹ tôi đã được học cô giáo Yến sau này là Hiệu trưởng trường Trưng Vương Hà Nội. Tháng 8 năm 1928, ông ngoại tôi được thăng Tổng đốc về nhậm chức ở Thái Bình.
Bác Kim Yến kể rằng ông rất có kiến thức lãnh đạo, bác đã chứng kiến ông làm lợi cho dân như khai thác dẫn thuỷ nhập điền, vớt bèo Nhật Bản để khỏi ảnh hưởng mùa màng. Sáng lập ra bãi biển Đồng Châu. Mùa hè bác thấy rất đông công chức, quan lại ra tắm… Bác kể rằng hồi ấy ngoài lính cơ, ông ngoại tôi còn có một đội quân riêng là người Thổ (Tày). Ông đón một thầy võ người Tầu về huấn luyện cho đội quân này. Bác Vi Văn Lê cũng đã động viên bác Kim Yến và mẹ tôi tham gia tập võ. Mẹ tôi thường nói với tôi: “Chẳng cứ cầm kỳ thi hoạ mà cả võ nghệ, cưỡi ngựa mẹ cũng luyện tập chẳng thua ai”.
Thỉnh thoảng chúng tôi cùng mẹ tôi sang thăm hai bác Tú Cương ở 13 Lý Thường Kiệt. Bác lại kể cho chúng tôi nghe vài mẩu chuyện về ông ngoại. Lượm lặt được chuyện nào tôi lại ghi vào trang giấy để hôm nay chép ra. Khoảng năm 1932 - 1933 gì đó, lúc bấy giờ bác Lê vẫn còn (bác mất năm 1934), ông đã kể cho các con nghe về vụ Cộng sản định ám sát ông. Có một người muốn gặp cụ Tổng đốc, nghe báo vậy cụ cho gặp riêng ngay trong phòng làm việc không cần lính canh. (ông không thích gọi bằng cụ vì ông muốn dùng từ “ông” kiểu Pháp - bác nói vậy). Người đó ngồi đối diện bàn, hai tay đút túi quần. Ông nghĩ là có vấn đề nên ông cũng kéo ngăn kéo ra và tay sẵn sàng khi cần đến súng… Sau cuộc đối thoại giữa hai người thì người kia nói: “Tôi được lệnh ám sát ông, nhưng sau khi đối thoại, tôi hiểu ông. Kể từ nay chúng ta hiểu nhau là sẽ làm như tinh thần đó”. Kể rồi bác Yến nói: “Bác chỉ tiếc là không nhớ tên người đó. Nhưng mà làm Cách mạng thì có biết bao nhiêu là tên!”. Bác tự giải thích như vậy. Tôi cho đó là ông Ba Ngọ nhưng bác bảo không phải, vì nếu vậy thì ngày gặp nhau ở phố Ngô Quyền năm 1946, ông Ngọ đã ôn lại việc này rồi!
Bác Tú Cương thấy tôi quan tâm muốn hiểu về ông ngoại. Chợt nhớ lại chuyện gì thì kể: “Có lần chính trị phạm bị mất tích. Thực ra là trốn mất. Nhưng nó vu cho ông là thủ tiêu, đưa ra toà. Về sau chúng bắt lại được thì nó lại ve vãn mời ông lên. Khi về ông giơ mấy đồng xu cho mọi người xem mỉa mai nói “tiền bồi thường danh dự”. Sau vụ này ông ngoại tôi viết đơn xin từ quan về hưu trước tuổi. Đó là vào năm 1942.
Bác Tú Cương kể rằng ông là người tiến bộ, kịch liệt chống phong tục tập quán xấu như mê tín dị đoan đốt vàng mã. Ông đặc biệt ghét cờ bạc, trộm cắp. Đến đâu làm quan ông cũng lo làm giầu cho địa phương mình cai trị, không để Tây khinh miệt.
Có lần mẹ tôi nhắc bác Tú Cương kể cho chúng tôi nghe về trận đòn của chú Vi Văn Kỳ khi làm quan tri phủ. Vì chơi bạc thua đem bát nhang “ông đầu râu” nhốt vào lô cốt - ý nói là đã không phù hộ để chú thắng bạc. Ông đã gọi về đánh cho chú Kỳ một trận và từ đó chú không bao giờ đánh bạc nữa.
Ngày bé tôi cũng láng máng nghe được là ông đánh đến nỗi ảnh của mẹ chú Kỳ treo trên tường phải rơi xuống đất (bà đã mất). Đối với quân trộm cướp ông trị thẳng tay. Ông thường đem nhốt vào lô cốt.
Nhưng mẹ tôi kể chính trị phạm thì ông chỉ giam ở nhà tắm và buổi trưa lên đọc báo cho ông nghe. Chính ông Ba Ngọ và ông Vũ Đình Huỳnh đã từng đọc báo cho ông kiểu ấy. Một lần tôi đến thăm cô Phượng người cùng cơ quan ở phố Khâm Thiên, biết tôi là con cháu họ Vi, bố chị đã kể cho chúng tôi nghe về ông ngoại tôi đã lo xây dựng dẫn thuỷ nhập điền cho vùng Thái Bình. Mỗi kỳ đắp đê và làm mương cụ Vi còn khoác áo dân để tuần tra xem dân làm ăn. Và chính ông kể cho tôi về công ông ngoại tôi cải tạo xây dựng bãi biển Đồng Châu. Mẹ tôi tả về cảnh đường quê rợp bóng mát cũng là do ông đôn đốc chăm lo. Bố chị bạn tôi cũng kể như vậy với một tình cảm chân thành kính nể.
Mẹ tôi đưa cho tôi xem gia phả, giải thích cho tôi hiểu về lòng yêu nước của ông bắt nguồn từ nhiều đời truyền lại với một nhiệm vụ trấn ải biên cương. Mẹ tôi chỉ cho tôi xem di chúc ông làm vào ngày 11 tháng 5 năm Bảo Đại thứ 15 ở Bản Chu, tức ngày 16-6-1940. Sau khi các con ký đầy đủ, cuối bản di chúc có đoạn viết: “Sau khi ta mất, đám ma phải làm rất đơn giản, không được bày lễ nghi phiền phức, phí tổn và đọc discours lôi thôi. Nhất thiết không được làm chay, làm đàn đốt vàng đốt mã. Ký tên Vi Văn Định.
Ông ngoại tôi đã mất vào ngày 20 tháng 10 năm ất Mão, tức là vào năm 1975. Sau khi làm di chúc 35 năm ông tôi thọ 96 tuổi. Như vậy ông ngoại tôi đã sống gần được một thế kỷ sống trong hai chế độ.
Ngôi nhà “Ha le”
Bà ngoại tôi chịu cảnh năm thê bảy thiếp cũng là tình trạng chung của xã hội phong kiến. Ông ngoại tôi tuy đa thê nhưng đối với các con và các cháu thì ông là người cha, người ông hết mực quan tâm đồng thời hết sức vì nể bà ngoại.
Bác Kim Yến kể rằng: ngày ấy bác và mẹ tôi được ông cho lên Hà Nội học piano. Bấy giờ cô Kim Phú mới 10 tuổi nên chưa được theo học đàn Hai chị em được ông cho học thầy người Pháp giỏi nhất có tên là Poinsigon. Lên Hà Nội học, hai chị em còn nhút nhát không biết phố nào ngoài phố Cột Cờ. Học xong theo ông lái xe về ngay. Ông chăm con mà lại nghiêm khắc giáo dục theo nếp gia phong phải lễ độ tôn ti trật tự, sai một tý là ông cho mấy roi ngay. Cho nên bác viết:
“Chúng tôi sợ bố lắm”.
Bác còn nhớ những ngày bác cùng mẹ tôi theo bà ngoại cùng ông cưỡi ngựa vào rừng săn bắn. Bà ngoại tôi thạo ngựa, cho nên lần bà giận ông đã bỏ về Lạng Sơn, bà bị ngã ngựa chấn thương sọ não và qua đời ngày 24 tháng 11 năm Dần, tức là đầu năm 1939. Cô Kim Phú sợ khi mẹ tôi đi lấy chồng sẽ phải thay mẹ theo bà ngoại học tập nội trợ quản lý gia đình. Khi chú Hồ Đắc Di hỏi là cô không chờ mẹ tôi lấy chồng đã nhận lời liền. Chính vì vậy năm 1936, sau khi lấy cha tôi, mẹ tôi vẫn muốn ở gần bà vừa là để đỡ đần bà ngoại vừa để bà đỡ cô đơn Sau khi sinh tôi (năm 1937) thì năm 1939 bà ngoại mất. Ông tôi giữ mẹ tôi ở lại bên cạnh ông để quản lý gia đình, giúp ông tiếp khách và chăm sóc đàn cháu (từ các nơi gửi về học ở Hà Nội). Đó là lý do vì sao gia đình nhỏ của cha mẹ tôi lại về ở 59 Trần Bình Trọng. Ngôi nhà ông vừa mới xây dựng xong. Đó là ngôi biết thự cao 3 tầng trước mặt là Hồ Thiền Quang (có một thời là Nhà Khách Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam). Bên hồ có hai ngôi chùa Thiền Quang và Quang Hoa. Hình như vì sức khỏe, mẹ tôi đã bán khoán tôi cho cửa Phật mang họ Ngô cũng ở ngôi chùa này. Mẹ tôi kể bán khoán rồi ra Kháng chiến không chuộc lại nữa và như vậy cho đến nay tôi vẫn là con nuôi cửa Phật. Chúng tôi gọi ngôi nhà (59 Trần Bình Trọng) hiện nay của ông là “nhà Hale”.
Trong 10 năm đầu ra làm việc, cha tôi miệt mài với sự nghiệp nghiên cứu và dạy học, còn mẹ tôi thì lo toan gánh vác việc nhà. Không những mẹ tôi lo toan gánh vác gia đình nhỏ mà tôi còn tận mắt nhìn thấy mẹ tôi đảm đang gia đình lớn của ông ngoại tôi như thế nào. Hoạt động của mẹ tôi tại nhà Hale thì bận bịu liên tục. Khi thì đón bác Cả, chú Dư từ Lạng Sơn về, khi lại đón bác Chinh từ Yên Thế sang. Mỗi lần đón rất đông các anh chị cùng về. Mọi người mang cam, bưởi, nhãn, vải về biếu ông mùa nào thức ấy. Rồi những dịp tết cổ truyền, lết Đoan ngọ, bác Cả, chú Dư mang về các loại rau lá đông trùng hạ thảo (loại cây mùa đông thành sâu mùa hè là cỏ) rất lạ. Mọi người dùng các loại lá thổi xôi tím, xôi vàng rất đẹp. Những ngày ấy nhà “Hale” nhộn nhịp hẳn lên và mẹ cũng bận bịu vô cùng. Ngôi nhà Hale rộng lớn, nhiều phòng. Riêng vườn cây rất đẹp, có bể nước giữa sân, xung quanh bể có vài cây quế. Đôi lúc tôi hái trộm nhai thử lá quế ngọt ngọt… Sau vườn có một chuồng thú nhỏ. Trong đó có nhiều thú lạ. Tôi chỉ nhớ có lần bác Cả Diệm mang về biếu ông con công, con gà gô…
Cha mẹ tôi được chia ở trên tầng ba là tầng cao nhất. Tôi chẳng nhớ có mấy phòng song chắc chắn là có phòng cha mẹ và tôi ở, một phòng của Bích Hà và Nữ Hiếu và một phòng làm việc của cha tôi. Bên cạnh là phòng của cô Kim Quý và chị Vi Nguyệt Hồ (con gái bác Cả Diệm). Bước qua sảnh đường là sang phòng ông ngoại. Ông tôi còn một phòng ngủ ở tận trên tầng thượng. Thỉnh thoảng tôi mới lên trên đó, còn phòng ông ở tầng ba thì tôi vẫn thường tự do vào khi có ông ở nhà. Mặc dầu còn bé nhưng tôi lờ mờ hiểu các anh chị em họ sống tại nhà “Ha le” rất sợ ông. Sau này mẹ tôi luôn nhắc lại là mẹ tôi không chấp nhận thái độ và hành vi gia trưởng đối với con cháu của ông. Ông luôn áp đặt, võ đoán và đánh đòn. Cái lối cư xử đó chỉ làm cho con cháu sợ hãi mà vâng lời mù quáng, cũng như mọi người rồi sẽ trở nên yếu đuối hoặc phản kháng ông mà thôi!
Riêng tôi tuy lớn lên ở trong bối cảnh xã hội nhỏ của ngôi nhà rộng lớn này nhưng tất cả đều khắc sâu trong tâm trí tôi và đều rất đẹp. Bởi lẽ tuy sống trong cộng đồng này tôi vẫn là đứa trẻ được cha mẹ dành cho tôi sự yêu chiều tự do phát triển hoàn toàn. Không có hình bóng bị ông áp đặt trong tôi. Và hình như ông ngoại vì nể cha mẹ tôi thì phải. Tôi vẫn lớn lên như tôi vốn có. Mẹ tôi nổi tiếng trong họ nội ngoại là yêu chiều con. Tầng hai dưới phòng ông ở là phòng tiếp khách nhỏ. Ở đây ông thường xuyên tiếp khách. Phòng bài trí theo kiểu Á Đông, có sập gụ tủ chè bóng hoáng. Còn hai phòng lớn chiếm cả tầng hai là phòng ăn và phòng khách, có thảm trải giữa phòng là da con hổ, ngoài cửa tại sảnh đường cũng trải bộ da báo lớn. Xung quanh phòng có giá gỗ thấp, có tủ kính bày đồ mỹ nghệ. Trên đó có ảnh cụ Lý. Tấm ảnh Cụ chụp lúc còn trẻ, trên đầu còn có búi tó. Mẹ tôi chỉ tấm ảnh cụ Lý cho tôi xem cái búi tó củ hành. Về sau này mỗi lần nhớ về cụ tôi hay liên tưởng tới câu: “Búi tó củ hành làm anh thiên hạ”. Nơi đây ít mở cửa. Nhưng mỗi lần mở cửa tiếp khách tôi đều theo mẹ vào và chạy chơi trong phòng. Những buổi tiếp khách của ông ngoại tôi rất uy nghi và thịnh soạn. Lần nào khi tiếp khách Tây cũng thấy ông bà Nô được nhắc đến. Tình cờ một hôm bác Kim Yến chỉ cho tôi là ông bà Nô trong ảnh cưới cha mẹ tôi ở Thái Bình, tôi mới hỏi hai lịch vợ chồng người Tây mà ông ngoại tôi chơi thân. Đó là giám đốc Nha học chính Bắc Kỳ. Nhờ sự giao lưu đó ông ngoại tôi đã cho tất cả các con cháu trai, gái di học.
Tầng một có rất nhiều phòng, là nơi ở chính của các anh chị em họ. Tôi đã lớn lên trong ngôi nhà này cho đến tuổi lên 7. Dù trong thời gian không dài, nhưng khu vực cộng đồng gia đình này cũng đã ít nhiều tạo nên tâm tính cho một đứa trẻ. Trước tiên là mối giao tiếp giữa người thân trong họ được nhận biết từ sớm để rồi học ở các anh các chị cách sống chan hoà, nhịn nhường lẫn nhau. Biết lẽ đời thông qua chăm sóc người ốm, trẻ nhỏ của mẹ tôi tuy cần phải công bằng nhưng phải giữ tôn ti trật tự kính trên nhường dưới, ưu tiên những người gia yếu, bệnh tật…

<< Nhận bằng tiến sĩ | Sống cùng anh chị em họ >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 564

Return to top