Tài sản của gia đình Fairley, hiện do Adam kiểm soát, dựa trên hai nguồn chính – đất đai và sản xuất vải vóc.
Trước hết là đất đai.
Adam Fairley có thể đi ngược lên dòng dõi của mình tới thế kỷ mười hai, và một người tên là Hubert Fairley. Một tài liệu từ năm 1155 vẫn còn tồn tại trong mái vòm ở Fairley Hall, ghi lại rằng Hubert được nhà vua ban cho vùng đất Arkwith và Ramsden ở miền Tây Riding của Yorkshire. Tài liệu này được làm với sự hiện diện của Henry đệ nhị và được mười bốn người làm chứng ở lâu đài Pontefract ký, nơi hoàng đế thường lưu lại trong những chuyến viếng thăm của người. Hubert tiếp tục làm ăn, phát đạt, được mọi người coi là người của nhà vua. Arkwith cuối cùng đã trở thành Fairley. Chính Hubert đã xây tòa lâu đài Fairley ở nơi sảnh đường hiện nay.
Tôn tộc nhà Fairley được nhận thêm đất đai và ân sủng của các vương triều của họ. Là những người theo chủ nghĩa bảo hoàng triệt để, nhiều người trong gia đình này đã cầm súng bảo vệ hoàng đế của họ và quê hương, đã được tặng thưởng hậu hĩ. Chính Henry đệ tam đã bán cho Gerald Fairley vùng đất tiếp nối khu đầm lầy Ramsden trong gia đoạn hủy bỏ các tu viện đã có công phục vụ Henry trong thời kỳ cải cách giáo hội của nhà vua. Sau đó, con gái của Henry là Elizabeth Tudor bán thung lũng Kirkton trên bờ sông Aire cho William Fairley, tức ông của lâu đài Fairley và Hamlet. Elizabeth đệ nhất, luôn hết sức cố gắng làm đầy ngân khố hoàng gia, đã tính cách bán dần đất đai của hoàng tộc. Bà nhìn William Fairley một cách có thiện cảm, bở vì con trai Robert của ông la một đại úy hải quân từng đi biển với Drake(1) tới những lãnh thổ miền Nam và Đông Nam châu Á. Sau đó thuyền của ông là một phần của hạm đội vĩ đại của Anh Quốc, do Drake gan dạ lãnh đạo đã đưa thuyền vào bến cảng Cádiz và đánh bại những hạm thuyền Tây Ban Nha 1588. Cuối cùng, nữ hoàng đã bán đất Kirkton với một giá khá hời. Chính việc bán phần đất đặc biệt trên bờ sông Aire là một yếu tố quyết định trong việc phát triển gia sản nhà Fairley vì con sông la nguồn sức mạnh của xưởng máy.
Con trai của Robert, Francis, được đặt tên theo Drake không thích nghề hàng hải hoặc tham vọng về binh nghiệp, và thực tế, từ giai đoạn này, không có người nào theo nghề binh trong gia đình, cho mãi đến tận khi Adam trong một giai đoạn vẫn trở thành quan kỵ binh Hussar số bốn. Francis, chậm chạp, kiên trì nhưng không giàu óc tưởng tượng, ít nhất cũng có đủ bản năng của một thương gia để nhình thấy trước tầm quan trọng ngày càng lớn của một sản phẩm cơ bản và thiết yếu, đó là vải vóc. Ông ta bắt đầu một nền công nghiệp dệt len cuối thế kỷ 16. Những người dân trong làng tiếp tục dệt trong nhà của họ, nhưng những cái trước đây dệt để cá nhân mình dùng thì bây giờ đem ra bán. Từ chỗ bắt đầu khiêm tốn như vậy, những nhà máy lớn của Fairley phồn thịnh, làm cho con cháu của Francis không chỉ giàu có mà còn trở thành những ông vua len hùng cường nhất Tây Riding. Đến đầu thế kỷ 17, Fairley đã là một xóm có nghề len phát triển với một cửa hàng thu hoạch, một xưởng nguội và hồ vải trên sông, và một bể chứa nước để chuội.
Francis Fairley đã nối xưởng vải với điền địa.
Nhưng không có điền địa thì cũng không có vải vóc. Vị trí của Fairley ở Tây Raiđing, địa thế của nó, khí hậu của nó, tất cả đã góp phần to lớn vào thành công của nghề sản xuất len vải của gia đình.
Làng Fairley nằm dưới chân đồi Pennine Chain, một dãy đồi lớn cuồn cuộn đổ về trung tâm của nước Anh từ Cheviots(2) trên biên giới Scottish tới vùng Peak(3) ở Derbyshire được những người sống ở vùng này gọi là xưong sống cua nước Anh. Địa thế của Pennine Chain thay đổi. Ở phía bắc Yorkshire, đồi đá vôi trắng, cỏ ngọt mọc lên trên. Nhưng có ít mùa xuân ở vùng đá vôi, chỗ nào cũng là đá vôi. Phía dưới chân là một chỗ ngắt đột ngột gọi là Aire Gap, sông Aire chảy qua về phía Leeds. Nó ở phía Nam Skipton(4) và Aire Gap nơi bắt đầu vùng Tây Riding. Ở đây những ngọn đồi Pennine gồm những sạn cát đã vôi đen và cứng, bọc ngoài là một lớp than bùn hoặc đất sét. Rất ít thứ mọc trên sạn cát đá vôi. Cỏ lúa mạch là hoa màu duy nhất của nó. Tuy nhiên, đó là loại hoa màu mà cừu lông thích ăn nhất. Vả lại, vùng đất than đá và sạn cát có rất nhiều suối ít khi cạn nước, nhờ những trận gió ẩm từ Đại Tây Dương lướt qua núi đồi đem đến những cơn mưa quanh năm. Nước ở những con suối nhỏ không có đá vôi. Nó mềm và tốt cho tơ sợi. Lông cừu và nước mát là hai cái cần thiết để làm vải vóc, mà ở Tây Riding thì cả hai đều thừa thãi.
Với những yếu tố tự nhiên thuận lợi đó, công việc làm len ở Fairley phát đạt, nhất là vào thế kỷ 18. Nhưng sự phát triển của ba đời nhà Fairley - cha, con và cháu - Joshua, Percival và David. Tất cả đều là những người tiền phong trong công việc làm len, và vốn là những người sắc sảo tinh khôn, họ nhận ra tầm quan trọng của ánh sáng tạo thành hình, điều này giúp tăng sản xuất một cách hữu hiệu nhất. Trong khi một vài nhà công nghiệp đối địch ở Tây Riding lúc đầu không chịu chấp nhận sự cải tiến kỹ thuật của nó làm thay đổi cơ cấu kinh tế và xã hội của nước Anh, gia đình Fairley không hề phản đối. Họ hăng hái mua những máy móc mới lạ, những người lái buôn kém tiến bộ hơn thường mệnh danh chúng như vậy, và lập tức dùng chúng ngay.
Gerald,người thừa kế gia sản khổng lồ hiện nay đang ở trong tay Adam Fairley, đã thừa hưởng một nét đặc biệt của tổ tiên, một nét hoàn toàn không có trong Adam. Đó là tình yêu của họ đối với nghề len dạ. Nó gợi lên trong con người Gerald một nỗi mê say được thúc đẩy bởi tiền và thức ăn. Khi Gerald đứng tên sành nhà máy, giữa những tiếng lách cách của máy móc, cậu ta trở thành con người thật của mình. Cậu cảm thấy bối rối với một sức mạnh tràn đầy. Tiếng động rầm rầm của máy móc khiến Adam chói tai, nhưng không hề làm Gerald khó chịu, cậu ta cho rằng đó là âm nhạc đẹp nhất đời. Mùi gây gây khó chịu của len độc hại với cha cậu thì đối với Gerald lại là một hương thơm say người. Khi Gerald nhìn thấy hàng trăm chồng len chất cao ngất của nhà Fairley, cậu ta thấy một nỗi rung động, không giống với bất cứ một nỗi rung động nào trong cuộc đời trai trẻ mười bảy năm của cậu ta.
Sáng hôm nay, khi Gerald lái xe xuống con đường chạy từ sảnh đường qua thung lũng, cậu nghĩ tới xưởng máy, hay chính xác hơn là nghĩ tới cha cậu và Edwin những người có dính dáng tới nhà máy. Cậu ta không nhìn thấy phong cảnh hoặc chú ý đến thời tiết, hay cảm thấy cái giá rét cắt da cắt thịt. Cậu ta lạc trong mê lộ của những ý nghĩ đan xoắn vào nhau. Edwin đã bị gạt bỏ hoàn toàn trong bữa ăn sáng nay. Và ngay cả trong những giấc mơ cuồng dại nhất, cậu ta cũng không hề mong đợi một điều như thế. Không phải vì Edwin là một mối đe dọa thật sự. Xét cho đến cùng, cậu Gerald, là người thừa hưởng và theo quyền con trưởng thì mọi thứ đều là của cậu ta. Nhưng gần đây cậu ta lại thường xảy ra ý nghĩ là Edwin có thể cũng muốn bước vào công việc len dạ, và cật ta cũng không thể ngăn chặn được điều này. Thật là một nỗi phiền toái không cần thiết. Bây giờ thì cậu ta không cần phải lo ngại gì về Edwin nữa. Đứa em trai của cậu giờ đã mất hết sức manh mà lại do chính nó tự nguyện. Còn đối với cha cậu... ờ! Có một cái gì hủ bại trong con người Gerald, lòng cậu sôi sục niềm căm ghét bố. Vốn là một kẻ thiếu nhạy cảm, Gerald chỉ cảm thấy một cách mơ hồ rằng tình cảm này nảy sinh từ một nỗi ghen ghét, nung nấu, khủng khiếp. Cậu ta luôn luôn làm giảm giá trị của cha cậu trong đầu óc của cậu. Cậu ta nhặt ra một số điểm của Adam, thực tế là những điểm nhỏ nhặt, không có gì là ghê gớm rồi đem thổi phồng quá mức cho đến khi chúng trở thành khuyết điểm không thể tha thứ được. Tằn tiện đến mức bần tiện, hẹp hòi, Gerald căm giận ngấm ngầm về khoản tiền cha cậu tiêu vào quần áo, những chuyến đi London và ra nước ngoài của ông, cậu bực bội và thậm chí hung dữ khi thấy cha đổ bao nhiêu tiền mặt vào tờ báo.
Gerald suy gẫm tất cả những điều đó trong khi lái xe xuống xưởng máy. Đột nhiên cậu cười lớn khi chợt hiểu là cha cậu thờ ơ đối với công việc làm ăn buôn bán và thái độ của ông nói chung đã mở đường cho cậu và lại còn sớm hơn điều cậu ta mong ước.
Giờ đây khi nghĩ tới điều đó, cậu thực sự không còn một giải pháp nào khác mà phải nắm lấy công việc trong tay mình khi cha cậu hành động như vậy. Cậu quyết định chính mình phải nói chuyện với ông buôn len người Úc sáng nay. Wilson đã nói cậu hôm qua là Bruce McGill mà họ có thể cần, và bất kể thế nào, kết bạn với McGill một trong những nhà chăn nuôi cừu giàu nhất và mạnh nhất nước Úc.
Cậu ta cũng quyết định khuyến khích cha nên tiếp tục vắng mặt hơn là đấu tranh với cha về chuyện này. Như vậy sẽ phù hợp với ý đồ của cậu hơn. Cậu ta không thể đợi đến ngày cha cậu về hưu. Như vậy thì lâu quá.
Chú thích của người dịch:
(1) Sir Francic Drake? 1540-1596, nhà hàng hải và là hải tặc người Anh đầu tiên đi biển quanh thế giới (1577-1580) ông chỉ huy một hạm đội chống lại hạm thuyền Tây Ban Nha (1588) và góp phần to lớn vào việc làm thất bại những hạm thuyền này.
(2) Cheviot Hills, một dãy đồi trên biên giới giữa nước Anh và Ecost.
(3) Peak District – một vùng ở Bắc Anh, phía bắc Derbyshire gồm những sình lầy ở phía bắc một cao nguyên đá vôi.
(4) Skipton- Một tỉnh buôn bán ở bắc nước Anh, bắc Yorkshire.