Giăc và Winston đã tới xưởng gạch, còn lại Frank một mình trong bếp, bây giờ chỉ còn lờ mờ sáng bởi vì Giăc đã tắt ngọn đèn parafin như thói quen trước khi ông đi làm. Ánh sáng duy nhất từ ngọn nến đặt trên bàn, và ngọn lửa thỉnh thoảng loé lên làm căn phòng tràn ngập một thứ ánh sáng óng ánh trong chốc lát. Những hình bóng mờ ảo lướt qua lướt lại trong bếp, không gian ắng lặng trừ tiếng nổ lách tách của củi rít lên hoặc phùn phụt.
Frank ngồi trong một chiếc ghế dựa cao, bên lò sưởi, chiếc ghế làm người cậu như lùn đi, nó quá to, làm cậu thành nhỏ bé và mong manh hẳn. Cậu nhỏ xương, thanh tú, nhưng dẻo dai và kiên cường một cách kỳ lạ, giống như một con chó săn nhỏ.
Sáng hôm nay trông cậu hình như trơ trọi trong chiếc sơmi xám và chiếc quần lùng thùng mặc thừa của Winston, đôi chân cậu trong đôi bít tất xám mạng cẩn thận, đung đưa ở mép ghế trông tội nghiệp và quá yếu ớt để nâng đôi ủng lớn và xấu xí, cũng thừa hưởng từ ông anh trai. Nhưng thực tế mặc dù cái vẻ ngoài yếu đuối, Frank không có chút gì là trơ trọi, bởi vì cậu có một thế giới nội tâm đầy những hình ảnh đẹp, những giấc mơ bay bổng và những mong chờ làm cho cuộc sống hàng ngày của cậu hình như hoàn toàn không quan trọng. Và cái thế giới hoàn hảo này đã chở che cho cậu khỏi cái khắc nghiệt của cuộc sống nghèo khổ, nuôi dưỡng cậu một cách tuyệt diệu đến nỗi phần lớn thời gian cậu hoàn toàn quên lãng cái thiếu thốn và khắc khổ nơi cuộc sống của họ.
Đứng về thực chất, Frank là một cậu bé hạnh phúc, cậu hài lòng hoà vào cái thế giới tưởng tượng của mình, một thế giới rực rỡ, phì nhiêu. Chỉ một thời gian duy nhất cậu thấy thực sự u uất, đó là vào mùa hè năm ngoái khi cậu phải rời bỏ ngôi trường đạo trong làng. Cậu phải nhịn nhục đôi chút để chấp nhận cái thực trạng là cậu phải làm việc trong nhà máy cùng với những đứa trẻ khác, lượm những suốt chỉ đã hết. Cha cậu đã nói với cậu một cách tiếc rẻ, nhưng cũng kiên quyết là họ cần thêm một ít shilling cậu sẽ mang về hàng tuần, vì vậy cậu phải thôi học khi 12 tuổi. Cậu đã là một học sinh sắc sảo, ham học một cách kỳ lạ, vươn tới tri thức một cách nhanh chóng và thông hiểu đến độ làm cô giáo kinh ngạc. Cô giáo nghĩ cậu là nhất, và cô rất buồn khi thấy số phận của cậu là ở nhà máy. Cô biết cậu có những khả năng để có cuộc sống hơn thế nhiều lắm nếu được tạo cơ hội, nhưng cô cũng biết rằng cậu bị hoàn cảnh gia đình trói buộc.
Mặc dù Frank không còn được đi học nữa, nhưng cậu vẫn tiếp tục miệt mài tự học. Cậu đọc đi đọc lại bộ sưu tập sách ít ỏi, những cuốn sách đã sờn rách của mẹ và tất cả những gì cậu có thể kiếm được. Những từ ngữ thật đáng kinh hoàng và cũng thật thần kỳ đối với Frank, cậu yêu chúng thật là sâu sắc đến độ gần như tôn kính. Cậu sắp xếp đi sắp xếp lại những câu cú trong đầu mình và liên tục viết những đoạn văn ngắn trên những mẩu giấy quý giá mà Emma đã đem về cho cậu từ Hon. Cậu luôn luôn bắt gặp những ý nghĩ trừu tượng, nó làm cậu bối rối và thách thức cậu, bởi vì, Frank Hactơ có một trí tuệ thực sự, chân chính, một trí tuệ sẽ được phát triển một cách rực rỡ trong cuộc đời cậu sau này.
Giờ đây, cậu đang ngồi nhìn chăm chú ngọn lửa, một ca nước trà trong đôi tay vẻ sung sướng xuất thần trên nét mặt, đôi mắt mơ màng và xa xăm, nhìn thấy vô vàn những viễn cảnh trong ngọn lửa bập bùng.
Cánh cửa kêu két, làm cậu giật mình ngẩng phắt lên nhìn quanh quất. Emma bước vào phòng lặng lẽ. Frank bắt đầu nhấm nháp nước trà, đôi mắt màu hạt dẻ nhìn lên trên mép ca, dõi theo những cử động của chị. Cô dừng lại bên cửa sổ, vén rèm nhìn ra ngoài nói mà không nhìn cậu: "Bên ngoài trời vẫn còn tối, chúng ta chưa cần phải đi vội. Chúng ta có thể đợi thêm chút nữa cho trời sáng hơn và chúng ta sẽ chạy một đoạn đường tới Hon, như vậy chị sẽ không bị chậm".
Frank đặt chiếc ca lên lò sưởi và nói: "Ba đổ nước sôi vào đầy ấm và dặn em làm cho chị một bánh sandwich, ở trên chảo đó".
Emma nhìn chiếc bánh một cách mệt mỏi, nhận thấy vẻ mặt chị, cậu nói một cách chống chế: Em không phết mỡ vào đâu, em đặt mỡ lên rồi gạt đi, đúng như chị đã bảo mà, chị Emma".
Một nụ cười giấu trên nét mặt Emma, mắt cô nheo lại một cách thích thú trong khi cô rót cho mình một ca nước trà và để chiếc bánh lên đĩa. Cô mang cả hai tới bên lò sưởi và ngồi đối diện Frank. Cô nhai bánh một cách lơ đãng, lòng vẫn còn lo lắng cho mẹ.
Cậu em trai nhìn cô một cách tư lự và hơi tò mò, bởi vì cậu có nhiều xúc cảm với Emma, người mà cậu kính phục. Cậu luôn tìm sự tán đồng của cô, nhưng trong lúc cố gắng chiều lòng cô, cậu thường làm những điều tức cười một cách ngu ngốc khiến cậu cảm thấy bực tức. Tuy nhiên, điều đó cũng qua nhanh thôi. Có một sự thán phục trong đôi mắt xám khi cậu ngả người về phía trước, nói một cách tâm sự và hết sức nghiêm trang: "Em mừng là chị có thể ngăn được ba và anh đánh nhau. Em rất sợ khi họ la hét, chị Emma ạ".
Cô nhìn em lơ đãng, lạc đi trong những suy tư trong khi cô để đĩa xuống bệ lò sưởi: "Chị biết, nhưng mọi chuyện qua rồi mà em".
"Ờ, nó vẫn làm em sợ", cậu nói nhanh. "Chính vì thế mà em mới phết mỡ lên quá nhiều, chị biết không. Em run quá mà", cậu nói hết, cố gắng gỡ tội cho mình.
Emma cười lớn: "Mù! Thật là nói láo không biết ngượng mồm, Frankie", cô mắng.
Cậu bé sửng cồ, thân hình gầy gò của cậu căng thẳng, đôi mắt hiền lành đột nhiên trở nên dữ tợn trong khi cậu kêu lên một cách hăng hái: "Mẹ đã bảo chị không được gọi em là Frankie cơ mà, chị Emma".
Emma thấy cậu nghiêm chỉnh thực sự, cô mỉm cười nói: "Xin lỗi em, em nói đúng. Mẹ rất ghét những cái tên giễu cợt".
Frank ngồi thẳng người trên ghế, làm vẻ tư thế quan trọng: "Mẹ nói em là con trai đã lớn, còn Frankie là cái tên trẻ con", cậu thốt lên bằng giọng the thé những hết sức nghiêm nghị.
"Đúng, em đã lớn rồi", Emma trả lời và mỉm cười âu yếm. "Nào, chúng ta chuẩn bị đi".
Cô mang cái đĩa ra chậu, rửa và lau khô thật nhanh, rồi quay lại bên lò sưởi. Emma cầm đôi ủng từ lòng lò nơi cha cô đã để vào cho ấm, đi ủng vào một cách kiên quyết. trong khi buộc dây, Emma liếc nhìn Frank và nghĩ một cách sốt ruột: "Đấy, nó lại mơ mộng rồi, nhưng mà những giấc mơ của nó sẽ rất tốt đối với nó". Emma thì ít có thời giờ đưa mình vào mơ tưởng, nhưng những lúc có thời giờ, những mơ tưởng ấy nó chắc chắn, thực tế và không hề lãng mạn: áo ấm cho tất cả bọn họ; thật nhiều than đen đẹp trong hầm; một tủ thức ăn đầy ắp thịt hun, những khoanh thịt bò, từng dãy hoa quả và rau đóng thành chai giống như phòng để thức ăn ở Hon. Và những đồng tiền vàng rủng rỉnh trong túi, đủ để mua tất cả những thức cần thiết và đồ xa xỉ cho mẹ cô, ủng mới cho cha cô. Cô thở dài. Frank mơ ước có thật nhiều sách và đi thăm London, ngồi trên những chiếc xe sang trọng, đi xem hát, mơ ước những cuốn hoạ báo thỉnh thoảng cô mang từ Hon về. Và Winston thì mơ ước vào Hải quân, được đi khắp thế giới và những chuyến phiêu lưu ở những miền đất lạ. Frank và Winston mơ ước vui thú và vinh quang, Emma khi có thì giờ để mơ thì mơ ước được sống cho ra sống.
Cô lại thở dài. Cô mong có thừa được một vài shilling một tuần để giúp đỡ họ, chẳng cần phải là những đồng tiền vàng. Cô đứng lên dứt khoát, mặc áo khoác vào và gọi Frank: "Đừng ngồi đó ngây ra mà nhìn như con vịt con nữa, em. Mặc áo khoác vào. 6h kém 20 rồi đấy, và nếu chị không gấp lên thì chị bị chậm mất".
Cô đưa cho Frank áo và khăn quàng, cậu quấn khăn quanh cổ. Emma chặc lưỡi, lắc đầu, lập tức tháo khăn của em ra rồi cuốn quanh đầu, buộc chặt dưới cằm cậu. Cô nhặt chiếc mũ phớt đội chặt lên khăn, mặt kệ cậu dãy và phản đối.
"Ôi, chị Emma, em không thích quàng khăn cái lối này", cậu kêu lên. "Những thằng khác cười em, gọi em là thằng thò lò mũi".
"Nếu không thì nó không ấm cái tai, và chị đã bảo với em là không cần phải để ý đến những gì người ta nói về mình cơ mà, Frank. Nào, thôi nhanh nhẹn lên".
Cô quàng khăn của mình vào, đưa cho Frank chiếc hộp, nhìn quanh phòng một lần nữa rồi thổi tắt nến. Nắm chặt lấy tay Frank, cô kéo em ra khỏi nhà.
Chúng ngập ngay vào trong một buổi bình minh đen, cái lạnh quất vào chúng từng đợt gió đầy sương giá. Hai đứa trẻ vội vã đi xuống con đường lát đá, đi qua những bụi uất kim hương và tử đinh hương héo hon băng giá trong khu vườn nhỏ gầy guộc. Đất lạnh lẽo, cứng và trơ như đá. Âm thanh duy nhất là tiếng rên rỉ của gió và giầy ủng của chúng nện trên đá lạnh. Căn nhà trong ngõ cụt nơi chúng sống ở cao trên làng Feli, phía sau là cái nền cao hơn của vùng đồng hoang mênh mông, quạnh hiu và không mến khách, chỉ có những ánh sáng xanh xao loé lên nơi cửa sổ vài ba ngôi nhà là cho được người ta một ý niệm có người ở. Khi chúng ra tới đầu đường, Frank ngước bộ mặt nhỏ bé giá lạnh sang Emma và nói: "Em đến nhà dì Lily nhé".
"Ừ, em nói với dì đến thăm mẹ sáng nay. Nói với dì là mẹ có mê sảng một chút, nhưng khi chị em mình đi thì mẹ đã yên rồi. Mà đừng nói chuyện với dì lâu quá đấy, em biết là đốc công của nhà máy đóng cửa lúc 6h đúng. Nếu em bị khoá ở ngoài thì em sẽ phải đợi cho đến 8h và họ sẽ trừ lương của em đi đấy. Chóng ngoan nhé. " Cô hôn em rồi kéo chiếc mũ của cậu xuống cho chặt.
"Chị có đợi cho đến khi em tới nhà dì Lily không?", Frank hỏi, hết sức cố gắng để khỏi tỏ ra sợ hãi. Emma gật đầu: "Ừ, cưng, em cứ đi đi".
Frank chạy vào sương mù, thỉnh thoảng lại trượt chân trên đá sỏi rất trơn. Cô nhìn theo hình bóng nhỏ nhoi của em lướt xuống phố cho đến khi cậu chỉ còn là một cái bóng mờ trong làn ánh sáng đục. Nhưng có thể nghe thấy tiếng đôi ủng của cậu nện trên sỏi và khi chúng dừng lại, cô biết là em đã tới nhà dì. Tiếng gõ cửa to cùng với chiếc hộp thiếc làm cô an tâm là em mình đã thực sự đến nơi, cậu làm ồn đến nỗi đánh thức được cả người chết lẫn bà dì Lily, cô nghĩ, rồi lai ước giá như mình đừng nghĩ tới cái chết. Emma run lên khi cô quay đi hướng khác, đi về phía đồng hoang.
Cô là một hình bóng cô đơn nhưng thanh thoát trong chiếc váy dài màu đen và chiếc áo khoác cũ đã trở nên quá nhỏ, khi cô bước đi một cách lì lợm và can đảm về phía Feli Hon, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn bầu trời nặng như chì và vùng đồng hoang u tối trải dài thành một đường bất tận trước mắt.