Nhắc ông Salan, sau qua đất Bắc Phi, xuýt chết dữ cũng vì chỏi với De Gaulle trì vì. Nghìn xưa gọi làm phản, ngày nay gọi làm cách mạng, danh từ đổi khác nhưng hành động vẫn như nhau. Salan lúc ở Đông Dương, qua đây từ 1924, rút về từ 5-1953, quả là một con cáo già, kinh nghiệm có thừa, biết ăn và rất sành cơm Việt, chơi với chúa xứ Mèo là Đèo Văn Long thì phải quen nhiều với Phù dung tiên nâu, từng nếm cơm canh và làm bạn với khắp nơi, ngồi máy bay viếng mặt trận không đếm xiết mấy ngàn giờ, lúc ban sơ được mời làm võ sư dạy chiến lược nhưng sau đánh không lại người tay ngang chưa học trường võ bị nào nhưng quân sĩ thảy thảy dũng cảm gan lì da sắt, quyết chí đuổi diệt quân ngoại bang về xứ, công bất thành, danh lỡ dở, thời cơm ngự với vua Bảo Đại bữa tiệc nhắp rượu đế có măng non mây giả măng tây (jeunes pousses de ro tin facon asperges), của Phan Thiết nấu với nấm, gà xáo măng, xà lách củ hủ cau(1), la sét có ổi, trái vải (lệ chi), măng cụt mà ông khen là ngon tuyệt cõi Á Đông (mangotstans si renommés, à la pulpe blanche et savoureuse, le meilleur fruit de 1 Extrême Orient pour les connaisseurs), công chiến mã gồm bao nhiêu ấy à, hoặc giả nên kể luôn bữa cơm từ giã vua xứ Lào, ông ghi lại bằng câu Pháp văn (IL.S.M. Roi de Louang Prabang me fait la surprise d un plat typiquement laotien, le Khao Boun, riz de fête qui faisait mon régal..., un riz légèrement fermenté que les femmes pilent puis transforment en un vermicelle un peu épais que l on fait bouillir dans de l eau... Dans une grande marmite en cuivre elles font mijoter, avec beaucoup de sauce, du poulet coupé menu, du poissoii, des oeufs de Pa Beuk, sorte de caviar, race, et des morceaux de cochon. Letout se cuit longuement avec des herbes connues des grand mères seules et le fumet en est très odorant. Dans les bols placés devant nous, on sert le vermicelle qu on recouvre du mélange fumant issu de la marmite en cuivre. Sur un plateau sont disposés de nonbreux bols contenant de la mang-ue en gelée, des cacahuètes, du soja, des piments rouges grillés et une sauce à base de gingembre, chacun arrose son bol suivant ses goûts, soit qu il préfère le doux ou la piquant.) (trang 389). Ông tướng xuất thân trường võ bị Santt Cyr nầy, thật là lão luyện món ăn địa phương từng các cõi Đông Dương và cả món “quốc tuý” Lào, tui xin dịch là để kết thúc bài nầy, khiến bắt nhớ các món “bún bò Huế”, “bún nêrn pra-hok Cao Miên, và đây là dịch thoát mấy câu của tướng: “Hoàng thượng, đức vua Louang- Prabang tình cờ cho tôi cùng nếm món Khao-boun, đặc biệt đất Lào, và quả tôi được nếm một món ăn cô cùng hứng thú. Đó là món bún sợi dẻo nhẹo làm bằng gạo ngâm nước lâu, giã vào cối, bún ấy trụng trong nước thật nóng, và chan trong chén với nước sốt ngọt, có đủ thịt gà xắt miếng nhỏ, thịt nạc heo, cá tươi (rút xương) và trứng cá Pa Beuk đỏ dạ, thêm rau thơm mùi ngào ngạt ngon lành. Khi chan nước sốt múc trong nồi đồng nóng hổi xong rồi thì nêm thêm gia vị, nào xoài chua, nào đậu phộng đâm nhỏ, nào đậu nành, một chút gừng chua và tuỳ sở thích nêm thêm ớt đỏ phơi khô và rang lại cho thêm thơm, thêm khoái khẩu. (Tôi dịch không theo sát nguyên văn, vì muốn độc giả thấy đây là một bữa bún nước lèo muốn gọi đó là quốc tuý Miên- Lào-Việt-Thái, đâu được cả) (ngày 17-11-83).
Việc chiến tranh đại sự mà một bên là ta, cơm lưng buộc bụng, ba ngày đường ròng rã vẫn cơm khô muối hột, muối vừng đã là sang, trái lại Tây trước Mẽo sau, vẫn sáng lên xe hay máy bay, lót dạ bằng tô cà phê nóng, đánh giặc đếm giờ, trưa về gà quay thịt nướng bánh mì trắng phau, thay phiên nhau tắm biển, nghỉ về quê thăm vợ con, và bắt tôi nhớ lại thời kỳ có mặt ông tại đây là thời kỳ vàng son “phở mát” năm đồng chêm nửa ổ bánh mì giòn, và tô phở Turc, của anh Ba, thịt lớn miếng xắt thật to thật giá hời, vì đều là thịt nhà binh, thịt nhảy dù bán lén, thảo nào của tiền tuôn như túi không đáy, Paris rên là phải, và rốt cuộc xin hoà rút lui, đã đành!
Trên tám mươi năm tiếng là “bảo hộ” mà khi giặc Nhựt đến bên đít, muốn có một chiếc xe cứu thương, phải quyên tiền dân, nhưng khi Nhựt bại trận, bọn mũi lõ trở về đây, vẫn là lão tào cáo Tây đoan đi tìm bắt đứa nghèo lấy mùng màn áo rách của lão lúc bỏ chạy, hoặc tên cò tên lính thù vơ oán chạ, trả thù bắn giết kẻ vô cố muốn an thân xin giấy hồi cư, thảo nào chẳng có việc như hôm nay mắt thấy.
(Nghĩ thám thương cho Hàn Tín, lúc cuối cùng, liệu việc không thông. Lúc Hán đế hỏi là để dò bụng dạ, nếu biết cáo bịnh mà từ chối, rằng mình không có chi dùng đặng nữa, thì hoạ may vua còn không nghi, đàng nầy lại lấy câu “đa đa ích biện” mà đáp, lại nói nếu mình có việc làm thì lành bịnh ngay, và khi luận tài chư tướng, lại phô trương muốn vua dùng trở lại, chớ chẳng biết vua đang nghi kỵ, nói chi chẳng một ai đánh lại, quả vì một lời nói mà mình hại lấy mình. Lúc vua nghi tin Tín phản, thì không tra hỏi nữa, giao cho Lữ hậu định đoạt. Sao không nhớ đường đi xưa của Phạm Lãi? Trương Lương mượn cớ giả đau, tìm đường tu thân, càng thấy vua Cao đế lúc phùng thời, ai nói nào nghe, và nói nữa chỉ nhàm tai người đọc) (17-11)
Thay lời bạt: (chuyện cặp ghế Hồng lâu mộng, Thái sư ỷ).
Từ 27-3-1984, tôi đã nghỉ xả hơi, không viết; vì viết mãi, ba lăng nhăng, mình thẹn lấy mình, chữ nghĩa bao nhiêu mà viết hoài không thôi, khi hết chuyện nói, lại lôi việc không đáng nói ra, chỉ làm tội cho tai và mắt độc giả...
Hôm nay, 12-4-84, tôi lại phá lệ, và tiếp tục viết mấy hàng nầy, có lẽ vì nghiệp chướng còn nhiều, không viết lại ngứa ngáy, vả lại viết mà không nghĩ việc xuất bản, viết để cho quên, thì tội gì mà không viết. Và rõ lại đâu có độc giả mà hòng sợ. Một điều nhận xét riêng, là tôi không thể viết trên giấy nháp trước được Mỗi khi tôi muốn gò gẫm, viết trước trên giấy nào, thì tôi bôi bôi xé xé, viết không thành câu, và tôi chỉ quen viết luôn trên máy chữ, cứ để cho mạch buồn sầu tuôn, “nghĩ sao viết vậy”, và như vậy mà có thể vơi vơi mạch sầu, và câu viết được tự nhiên như giọng nói của tôi ngày thường, tuy vẫn nhìn nhận, còn nhiều lợn cợn, hột sượng nhủn nhẳn, khi rút trang giấy từ trong máy ra, tự không bằng lòng, bụng vẫn muốn viết lại, sửa chữa lại, nhưng rốt cuộc thì vẫn đâu vào đó, trang giấy được thu xếp vào tập, đến khi dày cộm thì đóng lại thành tập, hoá ra tập nầy tập kia, bao nhiêu tập đều dồn vào tủ, chờ con mối con mọt xơi, hoặc giả chờ ngày nhắm mắt sẽ làm kén bó liệm đem theo, vả lại việc nầy càng thêm thấy tôi nay ngớ ngẩn, chớ độ nầy, “chết không đất chôn”, vẫn hoả táng là may, dễ gì có hòm có mồ hay mả? Lại lẩn thẩn nữa, lại nói đi nói lại nữa, chán quá, nhưng biết làm sao bây giờ? Sở dĩ tôi viết là để ghi lại đây mối tình muộn màng chứng tỏ mặc dầu số tuổi 83, tôi vẫn còn thèm còn muốn. Viết đến đây bỗng có khách đến nhà, đành bỏ dở, khi khách ra về thì cơn hứng đã đi qua, ngồi viết lại vẫn lợn cợn sượng chai, đời tôi, văn của tôi, ô hay, nó đứt nối bời rời, cơm nếp nết và hạt đâu sượng làm gương, cũng không phiền không trách. Lần hồi tôi rõ lại, viết gọn và hay là văn của Nhất Linh, là người tôi hằng mến phục và tôn làm thày, thế mà cũng vẫn sửa đi sửa lại luôn khi, và hỏi anh ấy, ảnh vẫn tự thú nhận cùng đồng một bệnh, và xét cho cùng, chỉ tỷ dụ là xong, ai đâu tôi không rõ, chớ chính tôi, tôi chẳng bao giờ dám sính tài viết văn mà bòng tranh giải về tứ chương bóng bảy.
Tôi nói nãy giờ mà vẫn chra vào đề, đủ thấy sự lượt bướt của tôi sự lòng thòng lễn mễn khó tránh của nghề viết, và gẫm lại, tôi tự cười lấy mình, vì biết bao người hay giỏi hơn mình nhiều mà vẫn lầm vấp và phạm vào lỗi quá ham nói cho đầy đủ chi tiết, một sợi lông không bỏ, gương văn hào Pháp Guy de Maupassant là một và nơi đây, nhơn đọc lại táp “Chân dung Nhất Linh: (Văn xuất bản số 6-66) lại thấy con khóc cha, văn luộm thuộm cà kê thi lại mấy! Cha uống thuốc độc nằm nhà, không lo chạy về lo phương cứu chữa, để đứng đụt mưa dưới mái hiên họ và ghi chép tỉ mỉ cử chỉ vô tích sự một cô gái cùng cùng đứng dưới mái để tránh mưa như mình, cho hay quả thật: “Ai như nấy, chuyện người thì đáng, chuyện mình thì quáng là thường lề và thường lề hơn nữa là “ham chỉ trích người mà quên xét lỗi mình”, và “bắt lỗi người thì được, và ai thử bắt lỗi mình” lại giận là giận làm sao? (là giận cái nỗi gì?).
Tháng giêng năm nay, nhơn đến chơi nhà một bạn nhỏ chuyện nghề mua đi bán lại đồ ngoạn hảo, tôi bỗng thấy một cặp ghế trường kỷ chạm trổ rất khéo, toàn bằng gỗ trắc màu cánh kiễng đỏ au, đúng với đanh từ “hồng mộc” (hung mu) của người Trung Hoa và đặc biệt hơn nữa là nơi chỗ dựa, có cẩn đá hoa rất đẹp. Người ấy khoe mua giá 37.000 đồng, tôi lấy tình thiệt khen hai vật nầy hiếm có và giá như vậy rất đáng.
Nag không hiểu làm sao, khi về đến nhà tôi vẫn vờ vờ vẫn vẫn nhớ mãi cặp ghế, khó quên. Ngồi ăn cũng nhớ, nằm ngủ cũng không quên, nhớ và bâng khuâng bứt rứt, tưởng còn nặng hơn nhớ tình nhân bằng xương bằng thịt. Mà đã 83 rồi tuổi gần đất xa trời, còn bao nhiêu lâu nữa mà đèo bòng, hưởng thụ được bao lăm nữa, vả lại nhà văn không tiền... Thế rồi tối lại tìm cách xuống chơi nhà bạn, để có dịp nhìn lại hai món vật, thử xem “còn thương hay đã dứt”. Nhưng càng thấy càng thêm mê, sau rốt tôi liệu cách, thú thật với bạn “mua thì không tiền mua nổi”, nhưng còn cách “đổi với nhau đồ vật” và “chung cuộc”, y lựa và lấy của tôi chín món sứ nhỏ, đựng không đầy một hộp giấy con con, vả ngày 19-2-1984 y chở lại nhà cặp ghế, nhưng than ôi, cả hai đều gãy lọi một chơn, và mãi đến ngày 2-4-84, tôi mới nhờ thợ giỏi rước từ quê nhà ở Sốc Trăng lên sửa chữa từ 7-3 đến 2-4 mới thành khoảnh hết què hết lọi. Nhưng giá không phải 37.000 mà là “một cây nguyên” tức 70.000 đồng, mẹ ôi, sao mắc quá vậy, ban đầu nói 37.000 mà, và dạ thưa, 37.000 là giá khi mua, cũng khá lâu, duy chưa có thợ chữa nên chưa bày, và nay giá vàng là vậy vậy đó”.
Trước khi mua sắm, tôi đã cẩn thận hỏi kỹ người trong gia tộc chủ cũ cặp ghế, thì quả thật, hai vật ấy vốn trong gia đình tỷ phú nầy, nhưng nay người chủ đã từ trần, và hai vật nầy, trong gia đình đã bán từ lâu, nên giá cả không biết rõ.
Khi còn sanh tiền, người chủ nầy không bao giờ khứng bán hay vật ấy - cho hay mắt xanh chẳng phải “duy một kẻ này” và giá kia, nhứt là theo thông lệ vật bán, phải sửa chữa cho xong mới bán, tôi cũng không trông mong thu hồi chút ít gì được, vì bạn tôi đã có câu hờ dứt khoát, “nếu bác có chỗ nào không ưng ý, thì cháu có thể lấy cặp ghế lại, không hề gì đâu, và “quả bác có duyên nợ với cặp ghế ấy, chớ chủ cũ của nó chẳng bao giờ chịu rời nó lúc nào”.
Thôi, phải sao chịu vậy và quả mình có phần nên vật ưng ý nay đã về tay.
Viết đến đây, tưởng nên chấn dứt là vừa, nhưng như đã nói nơi đoạn trrớc, tôi phải “tự vạch lưng cho người đếm thẹo”, và không khai ra, làm sao người khác rõ những chỗ đáng chỉ trích của tôi.
Bình sanh, tôi dốt đặc cán mai, mà có tật ham nói chữ, tuy không mê tín dị đoan, nhưng rất tin những gì trong sách cổ đã ghi lại. Trong một quyển tôi đã đọc, tôi còn nhớ câu “thiên hạ chi bửu, đương dữ ái tích chi nhơn” (của báu trong thiên hạ, thường trời hay cho người có lòng yêu tiếc được, tức là người hay ham của báu, tức người biết gìn giữ nó, thì của báu hay về tay người ấy), nói cách khác và rẻ rề hơn, là “vật quí biết tìm người” (quí vật tầm quí nhân).
Và cặp ghế nầy quí tại chỗ nào? Tôi xin phân tách:
a) Về vật chất, ghế làm bằng gỗ trắc là một thứ cây mịn thịt, màu đỏ thâm, người Trung hoa gọi “hồng mộc (hung mu) và rất quý trọng, vì mối mọt không ăn, nếu để trong bóng mát thì chẳng bao giờ hư mòn, càng lâu năm càng lên nước, thâm đen bóng như huyền hay như sừng, ngày xưa rừng ta có khế nhiều nhưng nay rất hiếm có: cây chỉ bền chắc khi đúng tuổi, và người chúng ta không biết giá trị, nên đã phá hoại, đốn chặt quá sớm và không biết dung dưỡng nên cây không lớn kịp cho người dùng.
b) Riêng cặp ghế có hai miếng đá hoa, lớn cỡ 0,45x 0,65 (mét), là hy hữu, vì khảo ra thứ đá hoa nầy chỉ Miến Điện mới có, Miến Điện trong sử, xưa gọi “Đại Lý quốc” và vào đời nhà Thanh (1644-1911) đá nầy thuộc cống phẩm quí và rất được triều đình Mãn Thanh trọng dụng, để làm vật trang trí riêng cho trong Nội phủ và hàng quan lại, phải bậc tam công (thái sư, thái bảo, v.v...) mới được dùng, vì hai mảnh đá nầy, vân màu kỳ lạ, đúng là “kỳ thạch” cỡ như Lý Hồng Chương, Cung Thân Vương, mới có trong nhà. Kể về đá hoa, bên Âu châu, đá quí nhứt là đá hoa xứ Ý đại lợi, hoặc bên xứ Nga cũng có, nhưng họ chỉ chuyên thích đá toàn màu trắng, hoặc có vân, khi thêm đen khi đỏ hồng, và không như người Trung hoa, người Nhựt hay chúng ta đây, lậm mùi Lão Thích, nhiễm nặng huyền bí của thiên nhiên, và phải biết bao nhiêu triệu năm, đá mới trổ màu ngũ sắc và vằn vện kỳ lạ như đã thấy, và tuỳ sức tưởng tượng của mọi người, muốn gọi giống nhánh mai cổ thụ quằn quèo, giống chóp núi có ẩn cây cối, nhơn vật, dã thú hay giống chi chi cũng đều có thể được. Khi lập thể phái (cubisme) trong hội hoạ, kiểu Picasso, một ngày nào sẽ nhàm chán, có khi người Âu Tây sẽ đua thua tìm chơi kỳ thạch như vầy chăng?
c) Về nghệ thuật, thì hai ghế nầy quả là điêu khắc tuyệt diệu, người thợ mộc đã khéo tay chạm hình hai lượn sóng bủa sòi, trông như hệt, sóng cuộn và vòi nước cuốn lên như thật, trông thật là hùng vĩ, và triết lý thay, cạnh đầu sóng lại có hai con chim đứng trên mặt sóng, hình như chờ cá vọt lên thì táp, và giữa ngọn thuỷ triều phong ba nổi dậy, vẫn có con thú kỳ quặc không rõ đó lả thú gì đuôi như đuôi bò, chơn có móng như móng gấu, mình đầy những vảy tách kỹ như vảy rồng, thú có lông gáy như sư tử, và đầu con thú vẫn có hai sông nhánh gạc như sừng hươu nai, và giữa hai sừng hay gạc ấy, vẫn có một sửng khác rất cao, giống như sừng tê (tê giác), và trước mặt con thú lạ lùng không biết tên gọi đấy, lại chạm một vòi nước, từ mồm con thú phun ra, nhả hai cuốn thơ nổi trên mặt sóng, chung quanh có mây bủa sòi, thôi quả đúng rồi, đây là tích “long mã đồ thơ”, ngựa dưới biển hiện lên dâng sách quí, ẩn ý chúc người nảo làm chủ vật này, phải là bậc tam công mới xứng.
Tôi không lạm dụng “công” nào, tôi chỉ là một tên già ham chơi đồ kỳ lạ, và tuy nay mai gì chưa biết, nhưng cờ đến tay thì phất, và phải tận hưởng mới nghe cho.
Nhớ thêm câu chữ nữa, còn có câu “Thiên dương chi bì, bất như nhứt hồ chi dịch”, (một ngàn cái da dê, chẳng bằng một da nách con chồn), và nhớ thêm một câu nầy, thầy dạy từ lớp nhứt trường tỉnh Sốc trăng, “Ban môn lộng phủ”, xưa thày cắt nghĩa rằng: Tích đời trước có một người thợ mộc khéo, ở gần nhà ông Lỗ Ban (là tổ nghề mộc), nhưng lão thợ ta chưa biết tài ông khéo đến bực nào, cho nên một ngày kia, lão ta đẽo một lát rìu ngọt xớt, cái dăm dài đến mấy thước, và lão thợ biểu thằng con trai nhỏ kéo cái dăm ấy qua cửa ông Lỗ Ban chơi, cốt ý khoe tài hay khéo của mình. Bất ngờ ông Lỗ Ban thấy và biết tên thợ muốn khoe tài với mình, nên chi ông kêu thằng nhỏ vô nhà, rồi ông lấy cái rìu, nắm chóp thằng nhỏ, đẽo cái đầu nó sạch tóc, trơn tru như sọ dừa chỉ chừa cái chóp lại, (còn sạch và khéo hơn lúc nhỏ tôi bị chú Hỉ dùng dao cạo đầu) đoạn ông nói với thằng nhỏ ấy rằng: “Mầy đem cái đầu về nói với cha mầy rằng tao đây đã đẽo cái đầu giùm kẻo cha mầy tốn tiền mướn thợ cạo!”.
Và cũng từ ấy tên thợ mộc mới kiêng tài ông già lối xóm và chịu ông là tổ nghề. Tuy vậy chớ làm gì cho hết bọn láu cá biết nhom nhem và khoe tài ỏm tỏi, mà tôi đây là một. Và cũng vì tôi chẳng bao giờ giấu nghề, nên hôm nay vọc vạch viết lại bài nầy cảnh cáo nhưng ai ưa “ban môn lộng phủ” và không biết lựa chỗ mà múa rìu, hễ cái gì của mình là quí là hay, là đắc tiền, và “văn có mùi, mà khoe văn thơm phân phức, mít lùi vẫn không bì” (viết ngày 12 và 13-4-1984). (Người Tàu biết chơi đá từ hèn lâu, truyện Tàu đều nhắc đến ngọc, Tây Du, Tôn Ngộ Không từ viên đá thành hình, Thuỷ Hử, Thái Kinh chơi ngọc, Dương Chí giải đáp Tống Địch Thanh có ngọc oan ương, Bảo Ngọc khi sanh cũng cầm ngọc và Mễ Phi bái thạch, v.v..., thật là làm sao kể xiết)
d) Còn một đoạn chót, vì có tật viết không giấy nháp nên xuýt bỏ sót, là ghế chạm kiểu “mắt tre” nơi đai dựa mới rõ rệt mắt trúc mắt tre rõ ràng, vì ngày xưa bên Trung hoa, đổ từ từ khí và vạn vật trong nhà, đều bằng tre và trúc, vừa dễ kiếm, rẻ tiền, thêm bền chác vô song, vừa chạm “trước” (tra), thêm chạm “mai và điểu” cho đủ bộ vận “mai trúc điểu” và chạm vách thành xây gạch kiên cố một bên là cửa vòng nguyệt có cẩn đá hoa, một bên là cửa “bán nguyệt” vẫn có đá hoa lộng khéo, trên có nóc đình tạ lộng lẫy, đúng là gợi kiểu “hồng lâu mộng” và một lần nữa, với lối chạm nầy, tôi mạnh dạn quả quyết cặp ghế nầy là của một đại thần cuối Thanh (lối 1880-1900) khi bộ tiêu thuyết và lối lãng mạn của Tào Tuyết Cần đang thạnh hành bên Trung hoa, tức thuở Mạt Thanh và đã hơn nay ngót trăm năm không sai.
Cặp ghế nầy là hai vật ngoạn hảo tốt, thay cho lời bạt của tập ngô nghê nầy.
Tái bút. Bài viết nầy dứt nơi trên với câu: “Cặp ghế... thay lời bạt”.
Đó là lộng ngôn, lộng bút. Hôm nay, 14-4-1984, tôi lấy các trang đánh máy, góp lại định đóng thành tập, tôi mới thấy cái lớn gan của tôi, dám “lộng giả thành chơi”, viết hổ lốn, nay sắp xếp lại cũng không có trật tự chút nào, bài viết trước, để lại sau, và bài viết vừa xong lại đời ra trước, vì vậy trong lời bạt nầy, xin cho tôi lựa nhan và đặt lại là “Tạp pín lù”, một món ăn đặc biệt của Miền Nam, khảo ra, gốc của người Tàu, họ dồn chung lòng gà lòng vịt, sứa giòn và gan heo tươi, nấu đỏ, gọi đó là ăn cù lao, tạp pín lù. Lù là cái lò lửa, nói nghe dài dòng không bằng thấy tận mắt, thử đến các cao lâu khách thì biết ngay!
Những bài tôi viết đây là tuỳ hứng, gặp đâu viết đó, và mỗi bài, thường có ghi ngày cao hứng viết để mà quên sự đời. Tỷ như tôi thuở nay tôi vốn rất ké về thi phú, nhưng vừa rồi, nhơn sắm được cặp ghế tôi thích thú quá, nên đã nghĩ ra tám câu như sau, đóng dấu “khúc quanh năm tuổi 83” và cũng xin chép lại đây để cùng cười cái ngông của một tên già không sợ chết. Thơ rằng:
Đường còn khuỷu chót, bỗng long đinh!
Qua khỏi “83” tiếng nổi phình!
Vách sến treo thơ “cây gậy quéo”
Cửa sài, thượng bảng “lão thư sinh”.
Hỏi ai hay thích câu kỳ cú,
Còn nhớ hay quên chuyện chúng mình.
Việc lớn việc con trăm việc phế.
Chậu đồng nuôi thúc, nấu hay ninh?
Nhơn lục soạn giấy má cũ, tôi bỗng gặp một bức vẽ đề ngày 16-2-1921 tôi mừng quá lấy treo lên vách trên cặp ghế nọ, vì bức vẽ ấy vốn là của tôi phác hoạ từ năm còn học nơi trường Chasseloup và đã được giáo sư dạy vẽ là Mn Gioan chấm điểm 8/10, tôi không ngờ đó là tiền định, năm 1921 tôi đã tưởng tượng và nghĩ ra canh năm nay 1984, tôi đây 83 tuổi, và trên bức vẽ, mặc dù nét còn non nớt nhưng đã nói đủ những gì tôi ao ước và đã thành tựu, này ao cỏ lác có mấy lá súng lơ thơ, cạnh bên ao là một túp lều “lý tưởng”, lợp lá xệch xạc nhưng chứa biết bao hy vọng của một tên thư sinh chưa đầy 19, xa xa có mấy cây cau mơ mộng, và đặc biệt hơn hết là khúc quanh vô định, xen giữa hai lùm cây đen ngòm, rõ là cái “virage à 83” mà tôi đang vui hưởng. Hai đời vợ cưới đều đi đến kết quả ly thân, một cuộc “chắp nối” bất ngờ lại thành công mỹ mãn, (xin lỗi em Năm Sa Đéc), bao nhiêu của tiền dành dụm đều theo Tư trở về cát bụi, công danh cũng chẳng ra gì, có còn lại chăng là mớ sách cũ, mớ đồ cổ “trái mùa”, mớ sách đã in, mớ tóc bạc và mớ giấy lộn này, rứt bỏ chưa đành mà xé đi thì uổng, uổng. Rõ là lẩn thẩn, rõ là lời bạt vô duyên (viết ngày 14-4-1984).
Chú thích:
(1) Tôi tiếc không đọc được bản chữ Hán, duy nhờ may thời mua gặp sách dịch sẵn, câu nầy nguyên văn là “Tướng quân chi dịch, bất quá phong hầu, tướng quân chi bối, quí bất khả ngôn”. Câu nầy nói theo chữ nghe kêu và sướng hơn dịch ra nôm. Chữ “bối” là lưng ẩn ý hiểu day lại tức là bội phản, rõ ràng Khoái Triệt thấy xa, xui Tín trở mặt, làm phản, chia ba thiên hạ với Hạng vương và Hán vương, sướng hơn giết Võ, để bị hại về sau, uổng công dày dọn chỗ cho người khác nghị... (Về sau khi Hàn Tín bị phơi thây ngoài chợ, chỉ có Khoái Triệt dám đến ôm thây khóc tiếc, ai dám nói bên học trò (mưu sĩ) nhát gan? Duy Tiêu Hà, đứng trong Tam Kiệt, làm ra luật, không một lời, rõ là thỏ đế.
(2) Củ hú dứa, theo tôi ngon ngọt hơn. Củ hù cau, dùng nhiều, làm chóng váng, gọi say máu ngà
14. Ý tưởng vụn, nhớ đâu viết đó
(viết ngày 15-9-1989)
Đã là ý tưởng vụn, nhớ đâu viết đó, xin độc giả đứng hỏi tôi vì sao quá hổ lốn, không khác cơm nếp mắc mưa. Xin thưa: “Đã là tạp pín lù, thì trách chi món ăn hỗn tạp”, “thập cẩm” là nói văn hoa theo Bắc, trong Nam dùng chữ “xào bần”, nghe dường như bình dân và tập thể hơn”. Tôi nhớ ông bạn đàn anh năm xưa là Đoàn Quan Tấn, học ở Sorbonne về, dạy tôi, khi viết văn, đứa nào không biết đẽo gọt thí bớt là chưa biết viết, nguyên văn câu Pháp là “qui ne sait pas sacrifler, ne sait pas écrire” nhưng đối với tôi là nhà sưu tập và mê chơi đồ cổ, tôi thuở nay không bỏ một chéo giấy vụn nào, và lâu ngày lấy ra xem, đều có chỗ hữu dụng. Hiện tôi có dưới tay hai trang đánh máy sẵn, trang 8 và 9 của tập này, tôi đã thay bằng hai trang mới, nhưng bỏ không đành, và vẫn ghim vào nơi đây, nối thêm lời bạt.
2) 13 février 1918- 1er carnet- Page 15- Au 57.
Le 57, c est le numéro de ma maison d affaires, rue La Boétie.
Seize heures cinq- Boni de Castellane, époux divorcé de la riche Américaine Anna Gould. Sa Poitrine est trop bombée, ses épaules trop carrées, sa taille trop pincée. Il est très dandy, très blond, encore vert, trop vert, très charmeur, trop poupée, et très grand seigneur.
Seize heures huit.- Anna Gould, épouse divorcée du comte Boni de Castellane. Elle a quarante ans. Petite, difforme. Son corps a la ligne d une gourde, tandes que sur sa figure a poussé, en place de nez, une pomme de terre vineuse. Elle est accompagnée de son nouveau mari, le duc de Talleyrand-Périgord, cousin de Boni. Après son divorce, qui le rejetait dans la gêne mais qui laissait à sa femme des millions de dettes, sa seule plainte fut: “je me suis trompé, Anna Gould n était pas assez riche pour moi”. Avec Talleyrand, elle est heureuse. Grand, effacé, le dos voûté, près de soixante ans, il traine ce grand air respectable et plein d aménité de l homme qui a fait les cent coups(1).
Ils ne se rencontrent pas avec Boni.
Dịch cho mau hiểu, số 57 là môn bài của nhà buôn đồ cổ của chúng tôi, toạ lạc nơi đường La Boétie.
Vào 16 giờ 5 phút, tiếp hầu tước Boni de Castellane, tục là chồng cũ của nữ tỷ phú Mỹ Anna Gould. Hầu tước ngực quá no tròn, vai rộng đến hoá vuông, và lưng eo thắt đáy, bảnh bao không ai bì, nước da trắng trẻo, tóc hoe hoe, còn bô trai lắm bô đẹp tươi xanh, còn khuyến rủ đắc mèo bỏ bùa được lắm, nhưng quá ẻo lả tựa hồ con búp bế của mấy bà thiếu chồng, và vẻ sang trọng hơn ông hoàng quí tộc. Qua 16 giờ hơn 8 phút, chúng tôi tiếp bà Anna Gould, bốn chục xuân thì, tức Boni de Castellane phu nhơn, nhưng đã cũ thôi, đã ly hôn với nhau rồi. Nhỏ người thêm xấu. Vóc hình như trái bầu hồ lô, điểm trên mặt một củ khoai, tẩm nực mùi rượu vang, đóng ngay chỗ thừa đáng lẽ cho mũi dọc dừa. Cùng đi theo bà là đức phu quân “tân lang” - anh em thúc bá với tiền phu, và đó là quận công de Talleyrand-Périgord lưng khòm, tuổi độ lục tuần, cao lớn, dáng người ẩn dật, đã từng hư đốn trăm phần nay đúng một ông hoàng ông công, với chàng sau, bà được hạnh phúc. Sau cuộc ly hôn ông trước tuột dốc, lâm cảnh túng hụt, nợ như Chúa Chổm, ông để lại cho bà trả không biết bao nhiêu triệu nợ, ông chỉ than: “Tôi đã lầm, nàng Anna Gould không đủ sức giàu cho tôi xài cho phỉ chí”.
Giải thích. - Dịch như vậy là ôm cua theo sát máy câu văn Pháp, độc giả nghi trên xe do tôi lái, bị nhồi như hột gạo trên sàng cung may, tôi còn giữ được tập báo Illustration số 29 octobre 1932, tờ “Đại hoạ báo” này ghi lại như sau (tóm tắt): Boni de Castellane vừa tạ thế ngày 20 tháng 10 nầy, xuân thu 65, măng đèn, mơn mởn 65 cái xuân già. Dòng Tallcyrand - Périgord. Năm Boni được 27 xuân xanh, bỗng gặp nàng Anna Gould là ông vua xe hoả bên Mỹquốc (roi des chemins de fer). liền clụp lấy cơ hội, từ giã Paris theo nàng sang Mỹ, làm lễ thành hôn, đổi tước hầu ra bạc tỷ đưa nhau về Paris, xây một biệt thụ nơi hoa lâm Bois de Boulogne, lấy kiểu theo cung điện Petit Trianon, và xây toàn bằng thứ đá vân thạch màu hường quý giá. Xây xong để chưng diện toà lâu đài nầy, ông quy tụ hết tất cá những gì cao sanh quý trọng của bao nhiêu nhà buôn từ kinh đô Paris qua đô thành Londres, nào bàn giường ghế xưa, cổ đồng, ngoạn vật, nhưng phải nhìn nhận ông dọn dẹp dinh thự ông với một ngọc nhãn thiên tài không ai bì kịp.
Thử tập dịch văn Pháp.
“Chez Berenson, critique d art.
“Si les tigres qui sont petits et vifs parlaient, ils auraient ta voix et ton intaiïig ence, Polonais félin. Sous ta douceur calculée, tu étouffes tes rugissement. Pattes de velours et griffes exécutrices d acier. Si tu laisses pousser barbe, c est pour nous cacher que tu es un homoncule. Tes yeux sont bleus... comme pour tromper. Eduqué en Amérique, peut-être y es-tu né. Qui le sait? Tu vis en Italie et certains veulent que tu sois Anglais; Ton ambition (qu elle t a consumé!) fut qu on te reconnaisse comme le plus grand expert au monde en primitifs italiens et tu as atteint ton but depuis trois ans. Tu es mourant mais pour longtemps. Tu ne fais pas d affaires et n acceptes pas de commissions, mais tu partages les bénéfices.
- Voici vingt-cing mille francs, monsieur Berenson.
- Merci, Gimpel.
Tu es venu depuis peu de temps t installer à Paris. Tu accours, dis tu pour travailler pour la Croix Rouge américaine. La vérité:
tu as peur que, rompant le front italien, les Boches ne viennent jusqu à Florence te déranger en ta ville et l on murmure que l Angleterre te refuse l accès de son territoire. Tu connais tous les mondes, toutes les sociétés, et dans l univers tu n as que des ennemis. Si tu hais, on te le rend bien, mais si on te mettait dans une cage avec un critique, c est lui qui serait mangé. Ton plus mortel ennemi est Bode, le directeur du musée de Berlin qui a osé étudier et comprendre la sculpture italienne!”
(René Gimpel, - journal d un collectionneur, marchand de, tableaux).
Vừa tập dịch vừa giảng những chỗ gút mắt. (viết luôn trên máy không giấy giáp)
Berenson, nhà phê bình và giảo nghiệm đồ mỹ thuật Ý. Nếu hổ, thường nhỏ con nhưng lanh lẹn, nếu hổ biết nói tiếng người thì ắt hổ có một giọng như mi, và cùng một thông minh như mi, ớ nầy lão Ba lan giả hổ. Mi có dáng bộ nho nhã cân xứng, giỏi che giấu tiếng gầm, móng vuốt bén nhọn như thép, luyện bọc trong nhung lụa. Mi để râu mọc là cố không cho thấy mi là con vật có phép biết tàng hình biến hoá của bọn pháp sư phù thuỷ. Mắt mi trong xanh màu biếc, tinh xảo, quỷ quyệt vô song. Được giáo hoá bên Mỹ quốc, có lẽ mi vẫn sanh đẻ bên ấy, nhưng đố ai biết được rõ ràng. Mi sanh sống bên nước Ý, nhưng có người định mi là người Anh. Lòng tham vọng vô biên, hiện nó đang đốt cháy mi bên trong, lòng tham vọng ấy đã khiến mi được suy tôn là một nhà phê bình giảo nghiệm độc nhứt về cổ vật nước Ý, và đã ba năm nay, mi được đoạt tới đích ấy rồi. Duy mi đang đau ốm rề rề, nhưng còn lâu, mi chưa chết bây giờ đâu. Mi chẳng làm gì cho động móng tay, cũng không lãnh bắt mối ăn tiền còm, nhưng ai chia lời mi biết táp.
- Ông Berenson, nầy là lai mươi lăm ngàn quan, đây ông.
- Cám ơn Gimpel.
Mới đây, mi đến trú ở Paris. Mi rằng đến để góp công làm việc cho hội Hồng thập tự Mỹ quốc. Kỳ trung, đó là vì mi e một ngày kia bọn Đức tặc đạp vỡ ranh giới nước Ý, tràn xuống Glorence khuấy rầy mi và biệt thự của mi, và người ta thì thầm nước Anh không khứng cho mi qua xứ họ. Giới nào, hội nào trên hoàn cầu, mi đều quen biết, nhưng trên hoàn cầu mi chỉ có thù địch, mi ghét chúng bao nhiêu, thì chúng cũng ghét mi không vừa, và nói cho cùng, thoáng thử nhốt mi vào chuồng hổ cùng với một phê bình gia khác, thì dám chắc lão gia bị hổ xơi ngay, chớ hổ vẫn chừa mi mà? Kẻ thù không đội trời chung của mi, lại là ông Bode, tức ông quản thủ viện bảo tàng kinh đô Đức Berlin, ông này tại sao dám nghiên cứu và hiểu sâu về cổ hoạ và điêu khắc Ý? (hơn mi và biết dư những mánh khóe của mi trong môn sở trường nầy) (12-9-1983).
Hai trang 8 và 9 cũ ấy, vốn chẳng hay ho gì, và nay đọc lại thật là “đầu Ngô, mình Sở”, nhưng như đã nói, tôi vẫn tiếc và cố chép lại nơi đây, để cho thấy tật “ưa để dành” và quả số kiếp của tôi là chó chôn xương, để moi móc lên gặm lại những buổi đói lòng mà không sẵn thức ăn dưới tay.
Ngày nay gẫm lại mà giựt mình, đời của tôi, đời một tên thơ ký quèn trào Tây còn sót lại, chỉ được cái sống dai, nay lên lão, và nếu sự nghiệp còn, sách vả còn, và đồ xưa, ngoạn hảo không mất ai át, ấy chẳng qua là nhờ vận may, và cũng nhờ và vẫn không quên ơn nhà nước biết xét cho một người lương thiện và vô thưởng vô phạt. Hôm nay tôi đã được 88 tuổi và trong vài mươi ngày nữa, đến 27-9 ta, tức 26 octobre tới đây, sẽ lên tuổi 89, thử nhìn lại những khúc đời đã qua, vui có, buồn có, và nếu phải trở lại cuộc đời, tưởng sẽ y đường cũ mà bước, và không thay đổi chút nào. Tại sao phí phạm quá nhiều sức sống? Nhớ lại, và ngày nay mỗi lần có dịp đi qua chỗ cũ, bỗng giựt mình, năm 1920, học xong năm thứ nhứt (première année) trường Chasseloup, nhơn dịp bãi trường, mãi ham về nhà ở Sốc Trăng, tái hiệp cùng cha già mà quên lấy về đôi giày tige drap bỏ quên dưới ngăn tủ trên lầu ngủ nhà trường, đêm ấy, vào khoảng tám giờ tối, sửa soạn mặc đồ vía đi xem chớp bóng rạp Casino, mới nhớ đôi giày giá đặt mười hai đồng (12$00) nơi tiệm Nguyễn Chí Hoà đường Catinat, tiệm giày này là của bà quả phụ Lê Thị Gẫm, mẹ của hai nhà giàu lớn, Nguyễn Chí Mai và dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều, chẳng lành thì chớ, quên giày thì lên bỏ qua, nếu kỳ nhập trường tới, còn gặp giày lại thì may, bằng không thì thôi, đàng nầy tôi lúc ấy tiếc của không chịu bỏ qua, lại mời rủ anh em, cùng nhau trở lại trường và tôi noi theo góc đường Lê Quí Đôn và Trần Quí Cáp leo qua hàng rào sắt nhọn, vả đeo theo ống nước máng xối, lên được mái ngói và noi theo một cửa sổ không đóng kín, đột nhập lầu ngủ mà lấy cho được đôi giày, ngày nay trở lại chỗ cũ; nhìn cảnh xưa không thay đổi mà tự giựt mình, quả tôi phí phạm sức sống, vì ống máng xối nào có chắc, rủi thời lúc ấy tôi sa chân xẩy bước, té từ trên cao rớt xuống mà mạng mất thì chẳng là uổng công sanh dưỡng của mẹ cha?
Năm 1924, cưới vợ để chín tháng sau, vợ bỏ nhà, cuộc vợ chồng dở dang, chưa nóng một chiếc chiếu, ắt cũng tại mình phần nào... để rồi trở lại cảnh sống độc thân, buông lung sa đà, hai lần vô nằm nhà thương Chợ Rẫy, rồi kết hôn với một vợ nữa, tốn hao tiền bạc của cha mẹ, làm mất luôn dấu tích mười lạng vàng nữ trang của mẹ để lại và của ấy nơi ba tôi ra công tự làm lấy, dấu tích của mẹ và cha mà, tôi không gìn giữ được, tôi như vậy nên hay là hư, khỏi nói,... để rồi 19 năm sau, người vợ nầy cũng ôm cầm sang thuyền khác, cuộc ly dị đã có toà án làm chứng, nhưng nay phải nhìn nhận đôi bên đều có lỗi và lỗi của tôi, tôi tự trách, tôi mê đồ cổ hơn người chán gối và phải chăng mê đèn sách hơn mê đàn bà tôi đành chừa cho công luận xét soi, và tôi nhìn nhận, có hư nên chúng bỏ...
Mấy phen quen biết cảnh Sài gòn, từ năm 1919, chưn ướt chưn ráo, lên đây học hành, năm 1928, đổi về tỉrh Sa Đéc, vợ thơ, tiền túi, nhẹ bồng..., năm 1932 đổi về Sốc Trăng, ở gần được với cha già mấy niên, chữ hiếu chưa tròn, năm 1935 đổi lên Cần thơ, hạnh phúc trong tay mà không biết tận hưởng, năm 1938 đổi trở lại Sài gòn tùng quyền nơi dinh thống đốc, để rồi thấy thời cuộc bất an, xin đổi về quê hương là tỉnh Sốc Trăng vui sống mấy năm dưới chơn cha già mà vẫn chữ hiếu còn thiếu nhiều bề, kế lại xảy ra cuộc biến thiên, tôi không sống yên thân được nơi nhau rún, cũng tưởng một gói một xách lên Sài gòn nương náu tạm chờ ngày lui về quê nhà là Sốc Trăng, ngờ đâu nay dính gốc dính rễ, từ năm 1947, tôi thiệt thọ làm con dân tỉnh Gia Định như vầy, việc nghe việc thấy cũng chán chê, và nào đâu cánh “tái hồi cầu thị bách nên xuân”.
A! Ha! Tuổi chúng chờ ta, nay chỉ chờ ngày xuống lỗ! Tóm tắt lại, không như Thăng Long là chốn “ngàn năm văn vật”, cũng không như Huế đô là đất thiêng liêng nhà Nguyễn, Sài Gòn chưa được hơn tuổi ba trăm năm, kể từ ngày Dương Ngạn Địch, Trần Thắng Tài, năm 1679-1680 kéo binh Minh qua đây xin đùm đậu, theo mắt tôi dự kiến: Sài gòn năm 1919, vẫn lèo hèo dân cư thưa thớt, mười sáu giờ chiều tan chợ là chợ Bến Thành trơ trẽn đìu hiu như nhà ma mạt chủ, vì phong tục thời Pháp thuộc, đêm hôm từ 16 giờ cho đến 6 giờ sáng, nhà chợ phải để trống, không cho người vào ở, vả lại lúc ấy đèn đuốc lèo hèo, nhà tư nhân còn dùng đèn dầu hoả, nhà sang và nhà thợ thầy mới biết dùng khí đá (carbure) và sau hơn nữa dùng đèn có manchon hiệu Tito-Landy, và chỉ cơ quan nhà nước và các đường phố lớn mới có đèn điện vân vân, xuống đến những năm 1930 đến 1945, qua cơn khủng hoảng kinh tế sau trận đệ nhứt thế chiến 1914-1918, từ những năm 1921 về sau, Sài Gòn mới bắt đầu lại nghỉn, kinh tế phát triển, ruộng trúng mùa, có cuộc cho con sang du học bên Pháp địa, tiền rừng bạc biển, sắm mua xe ô tô, từ xe mủi sập Citroen, đến xe mui hòm Delagé, Renault, Peugeot, vân vân, và mọc như nấm đầu mùa mưa, nào nhà hàng cơm Tây, nào rạp chớp bóng, từ bóng câm rạp Casino ngày nay vẫn còn tồn tại qua rạp Eden và rạp Majestic, sau rốt là rạp Rex, vân vân, nhà phố khuếch trương thêm đồ sộ, người Việt ta biết tranh thương cùng khách kiều cư chà Bom bay, chệc Quảng, chệc Tiều, rồi vượng lên một lúc thật thịnh vượng, buổi binh Mỹ qua đày vãi tiền quến rủ gái nhà quê quẳng gánh, không gánh nước mướn nữa, tập dồi phấn thoa son, học khiêu vũ, lây người ngoại bang, rần rần một lúc, để đến năm 1975, tháng tư ngày 30 đạo binh giải phóng vô đây, thành phố để mặt thật, phấn son bỏ dẹp như đã thấy và nay bặt bén trở lại nhưng như tôi chưa rành và hiện không dám viết...
Phong tục rạp quán, xin hãy giở báo hàng ngày ra đọc, tôi nói bằng thừa: nhớ lại buổi không xa gì lắm, là buổi chúng tôi vừa ra trường, đóng vai làm mọi cho Tây, thơ ký có anh Phát, lanh lợi đi trước thời cuộc, Phát cặp với một nữ lai, con của một cảnh sát trưởng ở Chợ Lớn, Phát tình nguyện ưng ra Côn Đảo làm việc giấy nơi văn phòng viên chủ ngục, để có dịp dẫn dắt nàng vị thành niên đầm lai con ông cò ra đó hưởng tuần trăng mật, nực cười ông Cò mất con, làm tờ có tìm con, đơn thưa quan chướng lý toà Pháp đình gởi qua dinh Thống đốc lại gặp Thống đốc tên là Ba Ghẹ, có máu 35, thống đốc phê câu Pháp ngữ, tôi nhớ mãi là phàm có con gái thì bổn thân phải biết gìn giữ và gà mái sút chuồng thì chủ chuồng tự tìm lấy, chớ thơ ký Phát, không có lỗi đối với phận sự, vả lại đã đến chốn Côn Đảo là cùng tột, thì còn chỗ nào sai đi được nữa, chuyện là chuyện gia đình, chuyện tư gia (affaire privée), không thuộc quyền Thống đốc xét xử v.v... Tuy đơn phê làm vậy, nhưng ông Ba Ghẹ vẫn ra một huấn thị và ra chỉ thị dặn tự hậu đàn bà có chồng công chức tùng sự tại Côn côn, muốn ra đó thăm chồng phải đợi tuỳ tờ hôn thú chánh thức mới đáp tàu ra đó được và thàa dịp ấy một thơ ký khác tên Ba, bị người chăn gối làm bực bội quấy rầy, để cho rảnh sự thoát vòng nữ quái, Ba làm đơn tình nguyện thế cho Phát, Ba ra hứng gió Côn Đảo một ít lâu, nàng tình nhân y hẹn xách va ly định đi tìm chồng nhưng đến bến tàu, vì thiếu tờ hôn thú hợp lệ, nên cô Mười ở lại Sài Gòn, dặm chăn nghêu ngao lỡ khóc lỡ cười và Ba khoái trá, việc như vậy, tôi cho rằng thú.
Một việc khác, nói về lương tâm ông bác sĩ chuyên nghề cứu nhân độ thế, tôi biết một bác sĩ người bòn bon da màu cà phê sữa, có bằng nội trú dưỡng đường Paris (interne des hôpiteaux de Paris) trước tùng sự tại dưỡng đường tỉnh Sa Đéc, sau thuyên chuyển qua nhà thương đô thành Cần Thơ, về chuyên môn thì phải nhìn nhận ông vững nghề trị bịnh, nhưng tại sao ông hám tiền quá độ, lúc ở Cần Thơ, tôi nằm nhà thương nên biết rõ chuyện ông nhóng tiền, có một cô gái Việt đau chứng lên sốt nóng vùi, cha của cô được chủ Tây cho lấy xe nhà chở cô gái vào nhà thương, bác sĩ thấy cô nầy đi xe nhà lộng lẫy, nên nhóng tiền, cô chỉ có đường kinh, máu ra nhiều, tấm trinh chận máu ứ lại, giá thử chích cho rách tấm da mỏng kia thì máu hết ứ, nhưng ông bác sĩ vẫn đế cô nhỏ rên la đau đớn, lỗi vì đi xe nhà mà chậm lòi tiền...
Và cũng thì ông bác sĩ da cà phê sữa nầy (Bourbonais), Dr. L....., tôi vẫn gặp lại ở tỉnh nhà, Sốc Trăng, năm ấy, (nay quên năm nào), có một vị cai tổng chủ ruộng, ban đêm đi mò vợ tá điền bị đâm đổ ruột, chở kịp ổng ra nhà thương tỉnh lỵ băng bó, bác sĩ người Ba Lan Dr. Mickianowsky, trị cho ông đã gần lành, ông cai tổng ỷ giàu, sai lấy xe nhà đem lên Cần Thơ rước cho được ông bòn bon xuống khám bệnh cho ông, bác sĩ cà phê sữa, sẵn xe lên ngồi, vừa hóng mát ngoã nghê, xe tới Sốc Trăng, ông vào nhà thương, sai tháo cuộn băng, ông bác sĩ ban đầu lấy xà bông rửa sạch hai bàn tay, rồi lấy rượu cồn rửa tay lại thoa đi thoa lại rượu 90 chữ không biết mấy lần, đoạn ông bước lại gần giường thầy cai đang nằm, ông nhìn vô chỗ bị thương, ông gật đâu và sai nghịch chỗ bị thương lại y như cũ, đoạn ông lên xe trở về Cần Thơ, tiền khám bịnh lúc nãy, đúng là sáu trăm bạc (600$00), năm ấy Nhựt Bổn có mặt tại Sốc Trăng, và sáu trăm bạc, xin độc giả ngày nay tự định lấy giá trị.
Còn một chuyện nầy nữa, cũng xảy ra ở Sốc Trăng. Lúc ấy có một quan toà là người Việt, quê quán ở Cao Lãnh, ông có vợ là con của một nhà giàu lởn ở Trà Ôn (Cần Thơ), bà nầy đeo vàng xoàn đi xem hát, khi trở về nhà, bà giao cho chị vú xẩm tháo vòng xoàn cất giữ trong một tủ trang sức gỗ, sáng ngày, cả hai, chủ nhà và chị xẩm Quảng Đông, không tìm ra nữ trang, hô hoảng bị trộm, cách ít lâu, quan toà đi ngang một tiệm thợ bạc, thấy bà cai tổng có chồng bị tá điền đâm đổ ruột mà không chết trên đây, bà đang ngồi chờ gắn xoàn vào chiếc vòng, quan toà bước vào, hô lên là xoàn ấy là xoàn của vợ ông bị mất trộm, bà cai phải nhờ luật sư bào chữa và tốn hao không ít mới khỏi vụ nghi oan ấy, việc đã nguôi ngoai và cách không lâu, quan toà có lịnh thuyên chuyển qua tỉnh khác, quan bán cái bàn gỗ trang sức cho một người chủ tiệm làm đồ mộc, người nầy khi đến nhà quan chở tủ, kéo ngăn hộc ra, thì té ra vàng xoàn nữ trang nghi là bị mất trộm vẫn nằm yên dưới đáy tủ, vì kéo ra kéo vào, vàng lọt tuốt xuống kẹt đáy mà vừa chủ nhà vừa chị ở Tàu, sớn sác, không xem xét kỹ, báo hại bà cai hao tài tốn của và ông quan, vì thiếu lương tâm, đã nghi oan cho kẻ bị oan tình là bà cai nọ.
Mấy chuyện nầy đều là chuyện tào lao, chuyện chó bị xe hơi cán, chuyện không đáng kể, nhưng tôi vẫn kể lại đây, vì trong tập Sài Gòn tạp pín lù nầy cũng nên ghi lại những vặt vãnh đánh dấu buổi suy vong thời Pháp thuộc. Một chuyện nhỏ nữa là chuyện quan phó tham biện Pháp ở Sốc Trăng, tên là Mabé ông bị lính Nhựt bắt giải làm tù binh lên Cần Thơ, trước khi bị bắt, ông giấu nữ trang của vợ trên kẹt hóc nhà lầu ông ở, thanh niên tiên phong chiếm nhà nầy một thời gian khá lâu, thế mà sau đó quan Tây nầy trở lại nhà cũ và tìm gần y nguyên số vàng giấu kín, những việc dường ấy, nên hỏi thanh niên tiền phong làm việc tắc trách, xem xét kiểm tra không kỹ, hay là nên hiểu như tôi là mỗi người, mỗi vật, đều có số, có vận may, không ai giống một ai, và cũng không nên tìm hiểu cho nhiều thêm mệt trí óc... cho vào Sài Gòn tạp pín lù là vừa.
(Ngày 16-9-1989).
CHUNG
Chú thích: (1) fait les cent coups: mener une vie désordonnée. Tôi dịch “hư đốn một trăm lần”