Và cô Ba qua Xiêm chuộc ngải như thế nào? Về chuyện bùa mê ngải lú, ngày nay còn kể là quá hủ lậu, nhưng nó thuộc về khía cạnh của tin tưởng ngày xưa, cũng nên tìm hiểu chơi cho ra người lịch duyệt. Tôi đã viết rồi trong bộ Hiếu cổ đặc san (cuốn 1 Phong lưu cũ mới”, nay chỉ viết thêm những gì được nghe cô Ba nói lại, gọi bổ túc phần nào.
Một hôm, vào năm 1952, không nhớ rõ tháng nào, hôm ấy thuận tiện vì cô vừa trúng vài chén me khá khủm, nên kỹ sư Bảng chở cô và tôi từ giã Đại thế giới lối 11 giờ khuya, chạy xe con cóc của Bảng ra xóm Đất Thánh Chà, tìm lại động phù dung của Khang. Tôi rót cho cô một chén trà nóng, cô tiếp lấy hớp một hớp rồi nhỏ nhẹ đáp:
- Anh Sển, anh khéo bầy đặt!
Tôi nghe bao nhiêu ấy đã hoảng hồn tưởng đã không xong, nhưng cô ngó ngay mặt tôi và hạ giọng:
- Tôi tưởng anh là nhà văn, nhà khảo cổ, phải khác hơn người thường, té ra anh còn mê tín và tin dị đoan quá chừng chừng! Anh muốn biết có ngải hay không, tiện đây tôi cũng thuật cặn kẽ cho anh nghe, chuyện tin cùng không là chuyện khác không cần biết. Nhưng có mặt ông kỹ sư đây, tôi nói cho hai người biết, nếu tôi muốn bỏ bùa mê cho anh Sển nầy, anh nhớ nhé, tôi chỉ cần đem hết can tràng ra mà đối đãi với anh, rồi tự nhiên lần lần anh cảm và bị tôi chinh phục ngay, chớ ngải với nghệ là cái quái gì anh khéo hỏi! Mà nè, đừng nói lôi thôi lạc đề, ngải hay nghệ là như vầy:
Người ta nói với tôi có ba thứ ngải: 1) ngải Mọi, ở trên cao nguyên, mọi nuôi ngải bằng gà sống, thả gả vô bụi ngải, một thời gian sau xem lại gà chỉ còn bộ xương khô, nhưng ngải mọi chỉ dùng để hại cho người chết, tôi ghê quá, không dám xài. 2) ngải núi Tà Lơn và vùng Xà Tón, nhưng chưa linh chưa hiệu nghiệm cho lắm, vì các thầy ở Bảy Núi vả trên Nam Vang, tài nghệ chưa tinh thông. 3) Ngải hiệu nghiệm nhứt là ngải bên Xiêm do các thầy cao tay ấn luyện, người chuộc ngải phải nằm bảy ngày bảy đêm trần truồng cho thầy ướp phép, và người ấy phải một lòng tin tưởng và cữ kiêng nhiều bề: cữ ăn rau nặng mùi, sẽ bán phai ngải, nhứt là củ tỏi và hành lá, cấm không đi dưới dây phơi quần áo vì uế khí sẽ làm cho ngải bay mất, tránh chun lòn dưới thang gác dưới lầu mà từng trên có đặt cầu tiêu cầu tắm nhiều uế trược, trong mình nếu có đeo cà tha hay dây niệt, thì phải giữ kín không nên cho nhiều người thấy, nhứt là phải giữ tinh khiết, chỗ nào dơ dáy, phải lánh né, v.v... Tôi (Ba Trà) lúc ấy manh giáp chẳng còn, anh mái chính ở mãi Chợ Lớn không ra thăm, nợ vây phủ tứ tung, Nguyệt tiên cung vắng khách, vắng hơn chùa bà Đanh, chà sét ty than hết tiền không cho tôi vay nữa, các công tử lặn mất như sao trên trời đêm ba mươi qua mồng một, nằm gạt tay lên trán, tôi bỗng nhớ lại cứu tinh là chị Hai tóc đỏ, chỉ năm xưa khoe tài ngải bao nhiêu, nay tôi nhớ mà thương chỉ bấy nhiêu, nhưng nghe đâu chỉ có chồng bên Xiêm thì tôi phải qua bên ấy, níu lưng chỉ mà cầu cứu... nhưng rủi cho tôi là lúc ấy quân sư sắp đặt cuộc viễn du của tôi dở tệ, đã biết sa thải những người dư thừa, đã biết thu gọn cho tôi tớ phục dịch, tạm đóng cửa Nguyệt tiên cung giao cho người tin cậy coi sóc, bao nhiêu việc làm nghe trôi chảy, mà trong việc sắp đặt cho tôi qua Xiêm lại quên không biết xin trước giấy thông hành. Dở tệ là vậy. Tôi nói mà hai anh thương, tuy vậy Trà nầy còn người khuất mặt hộ trì, xe vừa bị lính Xiêm giải giao lãnh sự Pháp ở Bangkok, thì bỗng nhiên có cứu tinh xuất hiện.
Đó là một thanh niên Bắc Việt độ tuổi ngoài ba mươi, nhưng lịch duyệt bặt thiệp và đa tình ra phết. Nghe đâu người cha trước đó có công giúp quân đội Pháp sanh cầm đức ngài Hàm Nghi, và để thưởng công, Pháp cho con là ông nầy (tên Đỗ H. nhưng giấu bặt về sau chỉ gọi là l’ agent X.) được học bên Pháp, khi thành tài, bổ nhiệm vào hàng cao cấp toà lãnh sự, nhưng chỉ cho làm ở xứ ngoài như Xiêm chẳng hạn, và không bao giờ cho về xứ, vì e bị cho mò tôm không kịp trối, bởi quả dòng giống “Việt gian” bán nước! Trà gặp H. như buồn ngủ gặp chiếu manh, H. mềm tình người đồng hương thêm Trà sắc đẹp không ai bì, H. niềm nở tử tế chẳng những giúp cô khỏi bị giải về bản xứ, vì xuất ngoại không giấy tờ, H. sẵn biết cô Hai tóc đỏ mà H, có quen trước, thiệt là một buổi “tha hương ngộ cố tri” đáng đích!
Nói chí tình, cô Hai Tóc đỏ đối xử với tôi thật là ngọt. Trong buổi đầu đất lạ quê người, cô đã giúp tôi gặp vị sư tổ hay nhứt của châu thành Bangkok, và phép luyện xong xả, lời thầy ngải ghi chép thuộc nằm lòng, người thứ hai cư xử tuyệt diệu đối với tôi là ông đầu phòng toà lãnh sự Pháp ông Đỗ H., tuy mới quen, và trong nước nạp chưa có chi gọi là “biết nhau”, nhưng ông đối xử với tôi còn hơn bạn tri kỷ lâu ngày xa vắng, bổn thân ông gỡ rối, tôi đã khỏi bị phạt vạ và khi tôi ngỏ ý muốn trở về Sài Gòn, chính bổn thân ông lấy xe nhà tự lái đưa tôi từ kinh đô Xiêm Bangkok, đưa đến tận ranh giới Miên Xiêm, tôi đáp xe lửa, xe thổi còi tách bến, ông mới quay xe trở về Xiêm la quốc. Thiệt là “Làm chi cho bận lòng này lắm thân” và biết thuở nào trả xong món nợ nầy cho phỉ?
Về tới Sài Gòn phen nầy, phép bùa có sẵn, ngải nghệ đầy mình, nhưng người trung tín cho tôi hay Nguyệt tiên cung đang bị chủ nợ bủa vây khắp chung quanh, đặt trưởng toà trực sẵn trông bắt cho được tôi cho vào khám “giam thâu” cho tôi mau trả dứt nợ, mà như vậy còn gì thể diện và tiếng tăm nàng tiên cung nguyệt?
Vì vậy tôi đến Hôtel des Nations đường kinh lấp Charner, mở phòng tạm ẩn mặt, chỗ tôi lánh trần chỉ có bác tài xế trung tín biết và ngày ngày có phận sự báo tin tức, giờ xuống dùng bữa cũng phải chớ không có người khả nghi, tôi mới xuất hiện trong chốc lát cơm nước xong tôi lại rút về động hay phòng, nằm khoanh tôm luyện phép chớ thời. Hai anh nãy giờ nghe tôi kể thuật dông dài và trông nghe sự hiệu nghiệm của ngải. Hai anh có tin củng không, tôi không cần biết, mà người đầu tiên làm vật hy sinh cho tôi thí nghiệm phép Xiêm lại là một người xa lạ, thuở nay chưa quen biết bao giờ? Tôi có ngờ đâu bữa trưa hôm ấy tôi dùng bữa ngó thoáng qua tôi giựt mình tưởng đâu anh Toàn xuống bắt tôi để chở về Phan Rang, người ấy trao cho tôi một danh thiếp nhỏ và xưng là mãi biện của nhà băng Cần Thơ, chi nhánh của Đông Dương ngân hàng Sài Gòn: “Lâm Kỳ Xuyên, comprador de la Ban que de l’Indo-chine, annexe de Cần Thơ” sau tôi rõ lại ông là cơn nhà tỷ phú chủ hãng rượu công ty ở Châu Đốc có đại lý bán rượu nếp gần khắp các tỉnh miệt Hậu giang, và rượu trắng hãng Pháp Distillerie francaise de l’ Indochine làm không lại vì hãng Pháp đặt rượu bằng phương pháp mới, gọi “rượu máy” bằng cám, uống không “mát” không êm giọng bằng rượu hãng Hóc-Tchai Châu đốc, nấu bằng nếp tinh anh vừa bổ, gọi “rượu công-ci” tức rượu công ty, nói theo Tàu. Chưa chi Lâm Kỳ Xuyên để một bao thơ chẵn chòi mười tấm giấy xăng (Cent piastres) cắt chỉ, mà không nói một lời cắt nghĩa đó là tiền gì, hai anh nghĩ xem khi ở bên Xiêm tôi lạy lục thầy Xiêm chỉ xin “cho có tiền”, và nay tiền thinh không đến cách nầy, do Lâm Kỳ Xuyên mê tôi về nhan sắc, hay “sa bẫy” vì ma lực của ngải, đố hai anh giải thích cho êm. 1.000 đồng thuở ấy dùng làm lễ ra mắt, trong lúc một đốc phủ sứ trật hạng gần ngày về hưu mới lãnh được 250$ mỗi tháng, tức 3.000 đồng mỗi năm, hai anh nghĩ xem 1.000 đồng to tát đến bực nào? Mà có phải cho bao nhiêu ấy rồi thôi đâu? Nói tắt một điều, chính người ấy hình như in được giấy bạc “nhà băng” hay sao mà ông ta xài tiền như nước ai cầm chĩnh mà đổ, dẫu nước trong chĩnh cũng luôn có hạn, đàng nầy tôi muốn ngàn nào là được ngàn nấy, trả nợ cho các chỗ tôi thiếu, trở về Nguyệt tiên cung, có một lần ông ấy ở nhà băng Cần Thơ đang làm việc trong khi tôi đang đổ “con mèo” gọi chơi xí ngầu lác (đổ hột “tứ ngũ lục” nói theo giọng Tiều, khi nào hột lật mặt nhứt nhì tam thì thua, nhứt là khi hột lật ba mặt nhứt, gọi tục là “lỗ đít gà” thì thua tróc đít!) Bữa ấy tôi đổ hột nơi nhà 108 Bonard, nhà bác Năm Hy chủ tiệm vàng, tôi sai người gọi điện thoại xuống Băng Cần Thơ xin năm ngàn bạc và bốn giờ sau, quả nhiên có tài xế cổ áo mang chữ tắt “B.I.C.” đem lên tôi kính cẩn năm chục tờ giấy xăng bon bon cắt chỉ, tôi nào chường mặt và cũng không bổn thân nói téléphone mà tiền lên nhấp nháy, hai anh muốn hiểu sao thì hiểu. Ấy thế mà bỗng lúc sau tự nhiên tịt ngòi như phong tên bị cúp nước, chờ không thấy mặt, thơ viết gởi đi không thấy thơ trả lời, sau biết được là vì ông bắt được tôi ngồi chung xe với thầy Sáu Ngọ để vô Chợ Lớn chơi me, ông bặt, ông ghen và “ái ân chỉ có một lần”! Bạc đúc cũng không ai dám xài đến bực ấy, và tôi bị cắt đứt viện trợ, không hiểu tại ông ghen hay một lẽ khác, tại vì tôi không giữ gìn kỹ lưỡng để cho ngải lạt, phép nọ “mất linh”!
Và đó là phen “nhị xuất Kỳ sơn” tôi phải trở lại Xiêm quốc kỳ nhì, để tìm thầy thay bùa niệt và cho tôi ngải mới. Nhưng chuyến nầy tôi đã học khôn được rồi, đã xin cấp giấy thông hành hợp lệ (tire d’ identité thời đó, tiền lệ phí chỉ có năm cắc bạc (0$50) mà hiệu nghiệm vô cùng, có lá thông hành tuỳ thân, đi khắp xứ từ Nam chí Bắc khỏi cần xin phép).
Chuyến nầy tôi đã thuộc đường đi nước bước, đi tìm gặp vị thầy cũ, tôi giải bày cặn kẽ sau khi cột tay cho thầy một sợi tim đèn bằng chỉ vải có vấn một khoanh vàng y năm chỉ mà thời ấy giá không tới ba chục bạc (30$00) và thầy tôi đã dẫn đường đưa tôi ra mắt vị tổ sư, thầy của thầy tôi, tức nói ví dụ, tôi đã gặp Chí Thiện thoàn sư của phái võ Thiếu Lâm, thầy của “mình đồng da sắt” võ sĩ Phan Thế Ngọc anh hùng bạt tuỷ trong truyện Tàu “Càn long hạ Giang Nam”, nhưng Chí Thiệt thì tay chân lành lẽ mới thí võ di quyền được, còn vị sư tổ nầy không phải cùi cũng không phải phung hủi, mà mười ngón tay và mười ngón chơi đều rụng sạch không còn ngón nào, vì ngải quá linh quá mạnh, đã ăn hai chục ngón của thầy trụi lủi! Sau khi nghe tôi giải bày “nhưng phải thoát y vũ trước bàn Tổ”, vị sư cả trao cho tôi đủ số ngải và thần chú lại còn cho một đồ đệ cao tài theo tôi về Sài Gòn, mà vị đồ đệ nầy không ai khác là ông thầy ngải tôi đã quen kỳ nhứt ở Bangkok. Việc đưa người Xiêm qua Nam Việt không khó vì tôi đã có cố nhân họ Đỗ lo cho tôi giấy tờ hợp lệ. Đến Sài Gòn tôi phải ăn chay nằm đất và thoát y vũ đủ bảy ngày nữa là thầy tôi gói phép trở về Xiêm, còn tôi, đạo giới đủ điều, ngải mê ngải quyến rũ “đầy mình”, khi ấy tôi mới dắt một chị đầm chơi thân (Madame Pit) cùng xuống Hậu giang thử phép hay là đấu phép.
Lúc ấy Cần Thơ chưa đúng là kinh đô xinh đẹp miền Tây, như sau nầy báo chí tôn lên, và chị em tôi bị cụ bị nồi ống xuống tới đó không chọn lữ quán Bungalow vì bày binh bố trận có bàn đèn chủ Tây nó không vui, nên chúng tôi lựa Hôtel de l’Ouest, tức nhà ngủ Trần Đắt Nghĩa đóng đô ở đường kinh lấp, nhớ mang tên Pháp là boulevard Delanoue, khiến cho buổi ấy có câu: “Rộn ràng một đoá trà mi, ngoài đường nô nức ong đi bướm về” (lảy Kiều)
Ngày nay chuyện cũ nhắc lại, tôi lấy làm hối hận cho cử chỉ thiếu đẹp của tôi lúc ấy. Mãi biện ân nhân là người rất tốt, thế mà tôi trả ơn bằng hai chữ “đoản hậu” thiệt vô duyên. Tôi xuống tới nơi, ngỡ ngàng bỡ ngỡ, viết thơ mời ông lại phòng, trong khi nói chuyện bằng lời nói trổng điệu đánh dây thép:
- Xuống hồi nào?
- Mới tới!
- Xuống chi vậy?
- Thua quá, thiếu nợ nhiều, xuống kiếm anh...
- Nhiều bao nhiêu?
- Bốn chục ngàn?
- Chớ một giờ nữa được không?
- Được.
Rồi ông ra về, xuống lầu, quá nửa giờ sau, tôi nóng ruột, sai tài xế cầm thơ tay viết mấy chữ vắn tắt, chưa tàn điếu thuốc, bác tài xế xách về một bao bố nhỏ, mở ra, mẹ ôi, giấy một trăm la liệt đầy bàn, đếm đúng 40.000$00. Thình lình anh Tư Phước (Phước Georges theo gánh hát) bỗng xô cửa bước vào, và xui xẻo là hai đứa tôi đang ôm nhau tỏ tình cách mặt theo Tây, chưa kịp buông nhau ra thì khiến có họ Lâm cũng vừa bước vô bắt gặp. Thế mà ông không giận, vẫn bắt tay chào Tư Phước như thường, và Tư Phước ra về rồi, khi ấy anh Lâm có ý bảo tôi sửa soạn để lát nữa anh đem xe lại rước tôi cùng đi Rạch Giá vì anh phải xuống nơi ấy điều tra việc công. Chẳng lành mà chớ, tôi nằng nặc đòi ôm bạc về Sài Gòn trả nợ. Anh buồn rầu bảo đưa tiền bà Pit mang về cho má tôi cũng được còn tôi phải theo anh xuống Rạch giá. Tôi cương quyết một hai cũng đòi về Sài Gòn cho được, anh không nói gì bà Pit khuyên dỗ tôi cũng giả điếc, thế rồi chia tay không thấy mặt nhau từ buổi ấy. Bây giờ tôi nhớ lại việc cũ, không biết tại tôi thiếu tình thương hay tại ngải hành, ngải nầy làm cho ra tiền chớ không phải đẻ ra tình yêu, tôi đểu giả và tàn nhẫn quá, không xứng đáng là có máu giang hồ khí phách, đành lòng nào nuốt của anh Lâm ngót 70.000$: 10.000 ra mắt, 20.000 gầy lại Nguyệt tiên cung, 40.000 nói láo thua bài, một người ngọt đến thế, quân tử đối với tôi đến thế mà tơ duyên ngắn ngủi chỉ một lần giao hoan, nhắm lại sao Ngưu sao Chức có một lần mỗi năm, tệ bạc trời dành hay tôi thiếu sót không hiểu chữ”ân” chữ “nghĩa”? Anh Lâm tha tội cho tôi! (Chỗ nầy cô Ba thuật với tôi thì nhơn vật ấy là họ Lâm, Tàu lai rất giống Toàn, tình nhơn buổi đầu, còn báo Tiếng Dội, thì gọi đó là phó giám đốc ngân hàng Cần Thơ, một Pháp lai đã có vợ người Pháp và si mê nhan sắc của Trà đến thế)
Tôi xin không kết luận và để cho độc giả tự trả lời có ngải mê thật hay là không, chỉ xin nhấn mạnh ngày nay còn sờ sờ gương đàn bà đi xe lam hay xe đò bị thổi bùa mê lột vòng vàng “cho điếm lạ mặt”, chừng tỉnh lại là sự đã rồi, và thiếu chi chuyện ngờ ngợ người tai mắt có học thức vẫn thương người không có chút gì hấp dẫn và khi tỉnh ngộ thì gia đình đổ nát sự nghiệp tan tành, cũng vì một lúc say mê lầm lạc không giải thích được. Cô Ba kết thúc buổi bàn luận bằng bùa ngải mê tín với câu đầy triết lý: “Trai mê gái hay gái mê trai, cũng tuỳ, và ngải linh nghiệm nhứt, nhứt là đối với hàng thức giả, ngải ấy là mối chân tình, nói cách khác là tình thương chân thật, một sự âu yếm thẳng thắn bằng pha nước nóng lau chơn cho chàng đánh tơ nít vừa về, lột giày bổn thân đem cất, lo bữa ăn lo giấc ngủ, nhưng những ấy Trà nói được mà không làm được, Trà là đứa hư rồi! Tại xã hội, tại thiếu giáo dục, tại cha mẹ không biết dạy con hay gì gì nữa? Nghĩ cho má tôi cho tôi ăn củi đòn và mỗi lần đánh là nhiếc “cho tiệt dòng đản hậu (đoản hậu), đến phiên tôi, không đánh đòn không mắng nhiếc, tôi trả thù gián tiếp cho mẹ tôi, mà ân nghĩa anh thầy thuốc và của anh mãi biện họ Lâm, quá là quá ác, và gẫm lại dùi đánh đục, đục đánh săng, cá ăn kiến, kiến ăn cá, Trà nầy quả là đứa không ra gì!
Chuyện bùa ngải làm cho chúng tôi ngẩn ngơ, suốt một tuần vô sở tôi không làm gì cho nên thân, chỉ chấm công ăn tiền, qua thứ bảy sau, chúng tôi hội lại nữa, cũng một mâm đèn, một ống hút trúc Hạ châu quí giá và một nồi hút, Khang khoe là của một ông hoàng ở Huế kỷ niệm, tròn như trái thẩu, vốn bằng đất châu sa Mạnh Thần, có chạm một ông già tay xách gậy đi trước theo sau là một tiểu đồng tay ôm một chiếc đàn tranh và câu chữ nhỏ rí: “Át Tỵ vân vân...” chữ hán tôi không đọc được trọn, vì tôi là một thằng dốt, chỉ biết dọc tẩu nầy chế tạo năm Ất Tỵ đời Kiền long, đến niên hiệu vua Mãn mình thuộc cháo chan, đó là năm dương lịch 1785, tức năm thứ 50 Kiền long (sau tôi nài được mà không phải của Khang và có bạc triệu tôi không cho rớ, vì rõ lại đó là báu vật ngót hai trăm năm, dễ gì gặp!). Hôm ấy tôi lo le một hộp thuốc điếu giẹp bằng đồi mồi Hà Tiên, cô Ba vừa thấy vụt nói:
- Anh Sển cũng biết hút thuốc lá à? Chớ chi tôi gặp anh sớm, tôi có một vật quí tặng anh mà tôi đã làm mất tại ngã tư Cai Lậy, vì bị đụng xe đến bất tỉnh nhơn sự, khi hoàn hồn thì chúng đã chọt mất cái bóp vàng đựng thuốc thơm có nạm hai chục hột kim cương lớn bằng hột đậu, do một ông hoàng “lưỡi đen” ở Xiêm kỷ niệm cho tôi buổi gặp mặt trong khoảng khắc tựa hồ chiêm bao. Nhưng chuyện ấy còn dài và còn lâu mới tới, nay tôi kể tiếp bước đường truân chuyên của tôi cho đủ đầu đuôi cái đã!
Tôi thiệt là không biết điều, anh Lâm đối xử với tôi như đã nói, mà tôi còn hại anh cách khác thật là tàn nhẫn và đáng trách. Tôi ôm bạc kè kè về Sài Gòn, trả được mớ nhắm cho các chủ nợ may mà gặp được tôi, còn lại gần hai chục ngàn, tôi ôm vô cúng trong sòng me sạch bách! Thiệt là đồng tiền phi nhơn phi ngải, làm không chút đổ mồ hôi, nó bội bạc hơn tôi nhiều, và cầm chưa nóng tay nó đã vù bay qua tay khác. Tưởng anh Lâm đi Rạch Giá như lời nói, nào dè anh bốc xe lái thẳng lên Nguyệt tiên cung nằm chờ tôi thẳng thét hai ngày một đêm, trong lúc tôi đang mài miệt say mê trong canh bạc, đi cặp với vua cờ bạc Sáu Ngọ (để lọt mắt anh Lâm thấy mà tôi không dè), và tôi cặp bồ với người khác không đáng gì, và đã bỏ rơi một người đủ tình đủ nghĩa, đủ ân đủ đức như anh Lâm, ông trời có mắt sau nầy, hành hạ tôi như hôm nay cũng đáng!
Tôi xui quá, thua me sạch túi, một thời gian nằm nhà trốn nợ, bổng thần tài chiếu mạng, tôi gặp một công tử xứ Trà Vinh trùng tên với cậu chủ rạp chớp bóng Cần Thơ. Nhưng B. đã có vợ là cô Tám B. để cho ở nhà ở Tiểu Cần, bất hạnh cho tôi, ngày B. đưa tôi lại hãng Auto-hall kéo cho tôi một cái xe cắt chỉ bốn chỗ ngồi Citroen, thì cô Tám lên Sài Gòn tìm chồng, bắt gặp tôi tại trận, báo hại hai đàng gấu ó đến đưa nhau xuống bót quận Nhì, B. xấu hổ, biệt vợ nhà, dắt tôi lập ổ uyên ương xài không mấy tháng, đổ nợ lung tung, B. bị bắt giam thâu vào khám, tôi lo tròn cho B. đủ cơm đen cơm trắng, ít lâu sau B. được tha, nhưng sạch túi, cả hai đành chia tay, B. về xứ, tôi vừa đói vừa bơ vơ lạc lõng...