Valéry và Gide ở HuếNhững năm 1935-1936 ở Huế có một “phong trào” một thời thượng thì đúng hơn, xem thơ Valéry và đọc các sách, truyện của Gide. Valéry lúc đó được coi là nhà thơ siêu việt của văn học hiện đại Pháp; còn Gide thì lúc đó được xem là nhà văn độc đáo, đang có chiều hướng tiến bộ, xích gần lại với phong trào cộng sản nhất là sau khi Gide cho xuất bản quyển “Những thức ăn trần gian mới” (Les Nouvelles Nourritures), mà một phần lớn đã trích đăng trong báo Marianne, là tờ báo có xu hướng cộng sản. Việc đọc sách của hai tác giả này trở thành thời thượng đến nỗi một anh bạn học lớp tôi anh Phan D. viết thư cho Gide, tâm sự với Gide về những nỗi băn khoăn của mình trước cuộc sống, và được Gide trả lời bằng một bức thư ngắn gọn trong đó Gide tỏ sự đồng cảm với một tâm hồn băn khoăn ở xứ Đông Dương xa xôi. Lại có một bác sĩ người Pháp ở bệnh viện Huế là bác sĩ Tribouillet cho xuất bản liền hai quyển sách nghiên cứu về Valéry và Gide. Bác sĩ đã diễn thuyết về nhà thơ và nhà văn này, được giới trí thức Huế rất hoan nghênh, mặc dù có khi thính giả cũng không hiểu hết bác sĩ phân tích những gì trong thơ Valéry và trong văn Gide. Trước mỗi buổi diễn thuyết, nhà bác sĩ nghiên cứu văn học giới thiệu cho mỗi người xem hai bức ảnh lớn mà Valéry và Gide đã gởi tặng ông, với những lời đề tặng rất trân trọng khích lệ. Bác sĩ lúc đó trạc ngoại tứ tuần, khỏe mạnh đẹp theo kiểu một người trí thức quen suy nghĩ. Bác sĩ là “bác sĩ riêng” của Nam Phương hoàng hậu, và mỗi tuần bác sĩ vào hoàng thành để thăm sức khỏe của bà Hoàng. Người ta kể nhiều chuyện về những buổi thăm sức khỏe hoàng hậu của bác sĩ, vì nó kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Nhưng hoàng hậu đủ khôn ngoan để không gây ra tăm tiếng; đã có một bà hoàng hậu trước kia đã có con với quan khâm sứ. Dầu sao thì bác sĩ cũng gây được cảm tình với giới trí thức, học sinh ở Huế, và cũng có góp phần làm cho thành phố Huế có vẻ là một thành phố “trí tuệ” không thua gì Hà Nội hay Sài Gòn. Nói về thời thượng tôi nhớ anh Hoài Thanh lúc đó cũng đã dịch một bài văn dài Gide nói về văn học nghệ thuật đăng dày cả hai trang báo Tràng An. Tất nhiên anh dịch đăng mấy trang này của Gide vì lẽ nó rất phù hợp với quan điểm nghệ thuật của anh trong cuộc bút chiến sôi nổi “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”. Lời văn dịch của anh khá hay; chắc rằng anh đã gởi cái rung động của anh vào mạch văn vốn đã xúc động của Gide.
Làm quen với Hoài Thanh Như trên kia đã nói, sau khi xem bài của Hoài Thanh viết về Thế Lữ, tôi có cảm bình với tác giả bài phê bình, vì tôi đoán hiểu ở anh một tâm hồn tế nhị có rung cảm, và có phần nào đồng điệu với những nhà thơ mới lúc bấy giờ. Tôi liền viết một bài nói về
Thế Lữ, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, bài bình luận văn học theo lối ấn tượng, và tôi gởi cho anh Hoài Thanh. Thế rồi tờ báo Tràng An tuần liền đó đăng bài của tôi với một lời giới thiệu ngắn khích lệ.
Tôi lại gởi tiếp một bài bình luận quyển Tiếng suối reo của Khái Hưng. Bài ấy cũng được đăng liền. Tiếp đó tôi không gởi những bài bình luận nữa mà gởi vài bài thơ mà tứ thơ là những ước vọng, những hoài bão của một thanh niên trước cuộc đời. Hai bài thơ này cũng được đăng trong hai số báo. Tất cả các bài bình luận và thơ, tôi đều ký tên Hán Quỳ, tức là lấy chữ Huy Cận sắp xếp lại. Cho đến đó, tôi vẫn chưa gặp anh Hoài Thanh. Mùa hè 1936, tôi lại viết mấy bài bình luận văn chương gửi đăng báo Sông Hương do Phan Khôi làm chủ nhiệm, và do Hoài Thanh làm biên tập. Lúc bấy giờ anh Sanh và anh Tám báo tôi nên đến thăm toà báo và hỏi tiền nhuận bút. Tôi và Xuân Sanh một buổi chiều đến thăm toà soạn Sông Hương, ở phố nào tôi quên mất (hình như ở phố Gia Hội). Anh Hoài Thanh tiếp và nói chuyện với chúng tôi rất niềm nở, rất hợp “gu” chúng tôi với những suy nghĩ về triển vọng phát triển của văn học nước nhà.
Nhưng khi chúng tôi nói với những lời rào đón quanh co nêu vấn đề nhuận bút thì anh cho biết là rất tiếc, báo rất nghèo, phải có sự ủng hộ mạnh mẽ của người đọc và của cả người viết thì báo mới có thể tiếp tục ra đời. Tóm lại báo đăng những bài của tôi như là những bài lai cảo. Tôi và Xuân Sanh trở về tay không nhưng câu chuyện văn chương ở toà soạn cũng làm chúng tôi nức lòng. Đó là mối duyên văn đầu tiên giữa tôi và anh Hoài Thanh. Về sau này, trong kháng chiến chống Pháp, cũng như trong những năm chống Mỹ cứu nước có nhiều điểm tôi chưa thống nhất với anh Hoài Thanh về cách nhận định văn học nghệ thuật, về cách nhận định phong trào thơ văn của ta về chức năng, nhiệm vụ của văn nghệ, của người văn nghệ sĩ. Nhưng không phải vì vậy mà tôi quên cái êm ái, cái thân tình của buổi đầu gặp gỡ. Với lại bên cạnh những quan điểm, những cách suy nghĩ của anh mà tôi không đồng tình, anh cũng có những suy nghĩ mà tôi tán thưởng sâu sắc, như khi anh nói về tấm lòng của Nguyễn Du đối với vận mệnh của con người hoặc khi anh nói “Có một nền văn hoá Việt Nam”.
Khi tôi đang thực tập kỹ sư ở đồn điền canh nông trên tỉnh Tuyên Quang (1941) thì tôi nhận được quyển Thi nhân Việt Nam (trong đó bài anh viết về tôi rất đằm thắm, thiết tha, sâu sắc biểu hiện một sự đồng cảm từ đáy lòng). Nhận được sách, tôi đã thắp một nén hương để đọc, vì có cái câu của Nguyễn Du anh để ở đầu trang sách làm tiêu đề Của tin gọi một chút này làm ghi. Tôi đồng cảm sâu sắc với anh trong lòng tin đó, tin ở tiền đồ của tiếng Việt, tin ở tiền đồ của nền văn học, của nền văn hoá nước nhà. Tên khai sinh của anh là Nguyễn Đức Nguyên, nhưng anh lại đặt tên văn học của mình là Hoài Thanh, chắc là với cái nghĩa nhớ tiếng, nhớ tiếng mẹ đẻ là nỗi niềm chung của chúng tôi lúc đó.
Những bài thơ dịch của Song Nam Nguyễn Văn ThuộcTrở lại một chút về những năm học tiểu học, tôi đã làm quen với thơ lãng mạn Pháp qua những bản dịch của Nguyễn Văn Thuộc đăng ở báo Thành chung (Huế). Nguyễn Văn Thuộc dịch nhiều thơ của Lamáctin phần nhiều dịch theo điệu song thất lục bát, lời thơ trôi chảy, mà nhiều đoạn như là phóng tác, đọc lên nghe réo rắt, có âm hưởng của câu thơ Việt Nam. Tôi nhớ nhất là bài Tình hận đầu tiên bắt đầu bằng những câu sau đây:
Biển Sở Giang sóng cồn xanh biếc
Khách nhàn du ai biết chăng ai
Một non một nước một trời
Kia kìa trên bến mộ người cửu nguyên
Cây cam mọc một bên mộ chí
Đã một vừng ghi để ngàn thu
Qua chơi, hỏi khách giang hồ
Vạch vùng lau sẽ thấy mồ hồng nhan
Tuổi hai tám suối vàng sao vội
Khách xem bia khôn nỗi thờ than
Than hoa chưa nở đã tàn...
Ai run rủi cho ta tới đó
Để lòng này nhớ chỗ năm xưa
Giấc chiêm bao khéo hững hờ
Người xưa cảnh cũ bây giờ là đâu
Trong mây nước hạt châu tầm tã
Nỗi bi ai khôn tả nên lời...
Những bài dịch như thế được lưu truyền trong các thầy giáo và đám học sinh, gần như là những bài sáng tác Về sau này tôi tìm hiểu Nguyễn Văn Thuộc là ai và ông có để lại một sáng tác nào không, hoặc một tập thơ dịch đã xuất bản nào không, nhưng tôi chỉ được biết ông là một ông tham tá công chính, làm việc đâu ở phía Nam Trung bộ, về sau sống ở đâu và mất lúc nào cũng không ai biết.
Quả thật, ở nước ta có truyền thống dịch hay dịch hay những bài thơ hay, truyền thống đó bắt đầu từ bà Đoàn Thị Điểm dịch Chinh phụ ngâm của ông Đặng Trần Côn, và từ ông Phan Huy Vịnh dịch Tì bà hành của Bạch Cư Dị. Có một bài dịch nữa mà tòi cũng cho là đạt, là bài thơ tình của Arvers do Khái Hưng dịch, chắc nhiều người còn thuộc, nhưng tôi cũng xin ghi lại đây:
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm cơ hầu không hay
Hỡi ơi người đó ta đây
Mà ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng dám dễ một lần hé môi
Người thì ngọc nói hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên khôi tình
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong.
Gạn gùng lòng sẽ hỏi lòng:
“người đâu tả ở mấy dòng thơ đây”.
Nhân đây, tôi cũng xin nhắc một điều, mà anh Xuân Diệu và tôi thường hay trao đổi với nhau. Trong hàng trăm, hàng nghìn bài thơ thất ngôn bát cú đăng trong báo Nam phong, phần lớn là bài dở, cũ mòn mòn lời, mòn tứ, nhưng thỉnh thoảng cũng có đôi bài thơ dịch hay. Có lẽ các nhà nghiên cứu văn học rồi cũng phải để công tìm kiếm, cứu vớt những chút hay ấy khỏi bị mai một trong mớ bụi của thời gian. Chẳng hạn như bài sau đây mà tôi còn nhớ 6 câu:
Thầy lý làng ta khăn mỏ rìu
Vườn trồng đầy ngô chưa thật nghèo
Chim vì thóc vãi quanh thềm đậu
Tre đón người quen trước ngõ reo
... ba thước lũ
... một ao bèo
Trúc xanh, cát trắng, vừng trăng nhạt
Tiễn khách bên sông ngán cảnh chiều
Nhân nói chuyện dịch thơ, tôi cũng nhớ lần đầu tiên đọc bài thơ ngụ ngôn Con ve và con kiến của La Phongten do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, bài dịch hay đến nỗi có thể tường là nguyên tác của ông Vĩnh. Sau đó tôi đọc lại La Phongten trong nguyên tác tiếng Pháp so sánh nguyên văn và bán dịch mới càng thấy tính sáng tạo của bản dịch, và càng thấy cái thần của tiếng Việt ta, và tôi cứ nghĩ nếu La Phongten sinh ra là người Việt Nam thì chắc ông ta làm thơ ngụ ngôn bằng tiếng Việt cũng hay bằng thơ tiếng Pháp của ông, và biết đâu lại không có phần lý thú hơn. Ông Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã dịch Ba người ngự lâm pháo thủ của A. Dumas rất đạt; bởi có nhiều đoạn ông dùng lối phóng tác, giúp cho người đọc dễ cảm thụ cái hay của câu chuyện. Tôi nhắc nhiều câu chuyện dịch văn dịch thơ vì tuổi nhỏ của tôi đã được hưởng nhiều bài dịch hay... Dịch hay là một sự tái tạo, một sự giao cảm.
Tìm gặp Thế Lữ ở hội chợ HuếGần Tết năm 1934, ở Huế có mở hội chợ gần Viện dân biểu, bên bờ sông Hương. Có một tin làm cho chúng tôi náo nức, là nhà thơ Thế Lữ sẽ vào thăm hội chợ. Lúc bấy giờ chúng tôi đã đọc các bài thơ của Thế Lữ đăng trên báo Phong hoá, và lúc đó tập Mấy vần thơ của Thế Lữ cũng vừa mới phát hành. Một bạn đọc lớp tôi đã đặt mua được một bản Mấy vần thơ giấy đẹp (giấy De Rives), giấy trắng, xốp rất đẹp. Quyển Mấy vần thơ là quyền đầu tiên trong loại sách mỹ thuật của nhà xuất bản Đời Nay, do kỹ sư ấn loát Đỗ Văn trình bày, và do hoạ sĩ Trần Bình Lộc minh hoạ.
Xuân Sanh và tôi suốt cả một buổi chiều đi đi lại lại trong hội chợ cốt để gặp cho được Thế Lữ, để chào anh, để nói với anh vài lời, tỏ lòng hâm mộ của chúng tôi Không khí hội chợ gần Tết rất phơi phới, có cái gì như xui lòng người ta rạo rực, nghĩ đến những tình duyên đẹp, những cuộc hội ngộ đằm thắm. Rồi xế chiều Thế Lữ đi vào hội chợ, đi theo có vài người bạn.
Thế Lữ lúc đó còn trẻ lắm, nhưng như anh đã nói trong một bài thơ, Nỗi gian truân trên bước đường đời đã làm cho nét mặt anh có một vẻ trầm tư xa hơn cái tuổi của anh. Bọn tôi ngắm anh từ đôi mắt nhìn thắng mà vẫn mơ mộng, đến hai bàn tay thon như bàn tay của các cụ đồ ngày xưa, đến dáng đi rất nhẹ của anh với thân hình mảnh dẻ, dáng đi như lướt trên đường, không nghe tiếng chân ấn xuống đất. Chúng tôi chào Thế Lữ, không nói được gì nhiều, một phần vì chúng tôi cảm động, một phần vì anh cũng có vẻ phải đi vội. Nhưng anh cười với chúng tôi một cách rất bè bạn, tỏ ý thông cảm lòng yêu văn thơ của chúng tôi. Sau này gặp lại Thế Lữ ở Hà Nội, tôi có nhắc việc chúng tôi đi lùng tìm anh ở hội chợ Huế thì anh nói có nhớ mang máng hai chàng học sinh đến đón anh, và nhớ mãi cái ấn tượng lòng say văn thơ của thanh niên, học sinh ở Huế. Trong chuyến đi thăm Huế lần này, anh đã nảy cái tứ làm bài thơ Nghe đàn nguyệt trên sông Hương, một trong những bài thơ hay của anh, xin nhắc qua đây mấy câu:
Đêm khuya vắng thêm gợi thời xa vắng
Tiếng bi ai như vẽ hình cay đắng
Của những chia phôi, thương tiếc, đợi chờ
Trong bao thiên tình sử não nùng xưa...
Thuốc độc êm đềm, ôi! Giọng đàn kiều mị,
Bời vì đâu gieo mãi xuống lòng ta
Những giọt nồng cay, tê tái, say sưa...
Quen Tế Hanh
Tế Hanh cũng học ở trường Quốc học, nhưng sau tôi ba lớp, (tôi ở đệ nhất niên ban tú tài, thì Tế Hanh mới ở đệ nhị niên ban thành chung). Tế Hanh cũng bắt đầu làm thơ từ đó, và biết tôi có làm thơ nên tìm gặp tôi, ở trong trường, và nhất là ở nhà trọ của tôi năm tôi học đệ nhị tú tài, phải đi làm gia sư, sau khi bị cắt học bổng (vì đi đón Gô-đa). Thường buổi chiều đi học về, chúng tôi hay đi dạo trên con đường Khải Định, hai bên đường trồng cây hoa phượng, lúc gần hè hoa phượng nở từng chùm đỏ rực, cả một lùm cây đỏ rực, hoa phượng hồn của mùa hè xứ Huế, náo nức mà nhớ nhung: Rưng rưng hoa phượng màu thương nhớ, và Tưng bừng lựu đỏ trà non nớt, - Chắc nắng chiều qua phượng nở rồi.
Tế Hanh làm được bài thơ nào thường có đem cho tôi xem và nhờ tôi góp ý kiến. Tôi cũng đã góp ý cho Tế Hanh sửa chữa một số câu thơ, một số bài thơ. Tất nhiên là tôi chỉ gợi ý, và Tế Hanh tự sửa chữa lấy. Tôi nhớ những gợi ý chủ yếu của tôi là làm sao cho bài thơ gọn lại, làm sao tăng sức khêu gợi của những câu thơ, do đó nên chọn những từ có nhiều âm hưởng trong tâm tình người đọc, những từ có mang sức vang động bên trong tâm hồn. Chúng tôi bàn với nhau nhiều về cách biểu hiện mới trong thơ, biểu hiện mới để nói được tứ mới, nhưng lại phải được biểu hiện thế nào để dính với truyền thống cảm xúc của dân tộc. Chúng tôi say sưa bàn cái hay của những câu thơ Kiều, cái sức khêu gợi của câu thơ lục bát Nguyễn Du. Chúng tôi ngạc nhiên tại sao câu thơ của Nguyễn Du cứ mới thế, cứ trẻ thế, dường như Nguyễn Du sáng tác ở thời đại chúng ta, như cảm xúc ở thời đại chúng ta. Chúng tôi cũng thán phục cái tài dùng chữ của bà Đoàn Thị Điểm trong bản dịch Chinh phụ ngâm. Những câu như: Ngòi đầu cầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non và câu: Giã nhà đeo bức chiến bào, Thét roi câu Vị ào ào gió thu cứ làm chúng tôi tấm tắc mãi. Bài học nghệ thuật của cha ông gắn bó chúng tôi.
Kỷ niệm về nhà thơ Phạm HầuPhạm Hầu là con vị thượng thư Phạm Liệu của triều đình Huế. Phạm Hầu cũng học ở trường Quốc học, sau tôi 2 lớp. Lúc học đệ tứ niên thành chung Phạm Hầu đã làm thơ, và đã có đăng một số bài ở tạp chí Tao đàn hồi đó. Phạm Hầu thường hay trao đổi bàn chuyện thơ với tôi ở trong trường, sau giờ học buổi chiều, trước giờ ăn cơm. Anh người mảnh dẻ, giọng nói rất nhẹ, gần như nói thầm, nhưng thỉnh thoảng cũng cười to lên, khi gặp một ý thích thú tâm đắc. Mắt Phạm Hầu như nhìn xa đi đâu, không phải là khóe mắt mơ mộng thường gặp ở các thiếu nữ mới lớn lên, mà là nét nhìn xa vắng, xa trong tưởng tượng của anh, và vắng với cảnh vật trước mắt. Tôi rất mến anh, quí anh. Hồi tôi ra Hà Nội học Trường cao đẳng Nông lâm, anh cũng ra học Trường cao đẳng Mỹ thuật. Anh ở phố Bôvet (nay là phố Yết Kiêu), số nhà 32, trên gác. Tôi thường đến thăm và đàm đạo thơ ca với anh. Chúng tôi rủ nhau đi thăm cảnh chùa Hương, đi lễ đền Hùng. Và khi tôi thực tập kỹ sư canh nông ở đồn điền Tuyên Quang (1941), thì anh lên chơi với tôi 1 tuần và dịp ấy anh làm được hai bài thơ mà hiện nay tôi còn giữ bản chép tay nguyên bản của anh. Phạm Hầu thường tâm sự với tôi: “Cận đã có tập thơ Lửa thiêng và đang có đà làm thơ, đáng mừng cho Cận. Còn mình thì chưa biết sao đây? Phải có sự nghiệp gì trước tuổi 30, nếu không thì chả sống làm gì?” Rồi anh say sưa vẽ, thỉnh thoảng làm thơ, trong vẽ, trong thơ anh cốt tìm lý tưởng. Dạo ấy anh có vẽ một bức tranh tặng tôi, tranh theo lối lập thể. Trung tâm bức tranh là một cái quạt mở rộng (lấy ý “lòng anh mở với quạt này” trong bài Ngậm ngùi của tôi), và xung quanh chiếc quạt là chim, bướm, cây cỏ, mây cuốn ráng chiều, có cả thấp thoáng, ẩn hiện những hình thiếu nữ lẫn với hoa lá, như từ hoa lá mà nở ra. Rồi dần dần tôi thấy anh hao gầy đi, mắt đôi khi như lạc đi, có nét ngơ ngác. Đầu năm 1942 tôi vào Sài Gòn học nốt học kỳ chót của trường Kỹ sư canh nông, thì được tin anh đã bị điên, và người ta đã đem anh vào nhà thương Vội ở Bắc Giang (nhà thương điều trị những người điên). Mặc dù người anh ruột hết sức chăm sóc anh, bệnh tâm thần của anh không khỏi và anh đã mất tại nhà thương năm 1942, vào tháng nào tôi không nhớ rõ, và gia đình đã đem thi hài anh về chôn ở Huế, gần chùa Từ Đàm. Người yêu của anh là một nghệ sĩ đánh đàn tranh rất hay nhưng tiếng đàn yêu thương ấy cũng không đủ sức bồi lại sức sống cho anh, không đủ sức lập lại sự cân bằng trí não cho anh. Phạm Hầu đã điên, nhưng không phải cái điên thường, mà là điên vì đi tìm lý tưởng mà tìm không ra, rồi tắc nghẹn tâm tư, loạn cuồng trí tuệ. Phạm Hầu si tình thì được người yêu yêu lại thắm thiết. Nhưng Phạm Hầu si lý tưởng thì khổ cho anh. Anh đã bị cái chất điên nó ngấm vào anh năm này qua năm khác, còn hơn là bệnh ung thư gặm nhấm tế bào.
Nhớ thương Phạm Hầu, tôi đã tạc anh thành người “thanh niên điên vì lý tưởng” trong bài thơ sân khấu Người thợ ảnh (trong tập Bài thơ cuộc đời), xin trích ra đây đoạn thơ nói về anh:
Người điên (nói với bác thợ ảnh già):
Tôi đã chết, tôi cũng về thăm bác.
Tôi chết điên, hồn không lìa khỏi xác
Nên tôi còn tha thẩn mãi trần gian.
Bác nhớ không, cứ mỗi buổi chiều vàng
Tôi vác giá ra ngoại ô đứng vẽ
Mặt trời lặn, và vẽ hồn tôi xế...
Thuở ấy tôi học đàn, đàn không đủ bình tâm,
Nhạc không dủ yên hồn, tôi đi vẽ ba năm,
Trộn hết sắc màu không thấy màu lý tưởng.
Người yêu tôi đánh đàn tranh, âm hưởng
Gọi hồn tôi tỉnh về như chị gọi em thơ,
Như tiếng quê hương gọi kẻ giang hồ...
Bên người yêu tôi thấy hồn quang tạnh
Nhưng giữa phút yêu đương có khi hồn trắng lạnh.
Tôi lại ra đi tìm tuyệt đích đời tôi.
Tuyệt đích đâu. Tôi hoá điên rồi
Điên thấm vào tôi như dòng nhựa độc...
Người yêu tôi chỉ còn ôm đàn khóc;
Nhưng khóc, em ơi! Không cứu được đời anh...
Bác nghe không? Có tiếng đàn tranh
Đang nức nở, run từng dây máu đỏ...Phạm Hầu chết đã 44 năm, mà tôi nhớ anh rõ mồn một: cái dáng đi của anh rất nhẹ, lời anh thỏ thẻ, mắt anh xa vắng... Tôi ghi mấy dòng kỷ niệm nhớ anh, thương anh, tiếc hồn thơ tế nhị của anh chưa đủ tháng năm để nở hết hương sắc. Phạm Hầu đi qua đời như một cái bóng, cái bóng trong quá, nhẹ quá không đậu bám được ở cuộc đời, như “du khách giây phút dừng chân Vọng hải đài”. Nhưng mấy vần thơ ít ỏi mà anh để lại vẫn còn in dấu trong thơ ca:
Chẳng biết trong lòng ghé những ai
Thềm son từng đội gót vân hài
Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài
Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Đưa tay ra vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai.
(Vọng hải đài)Một kỷ niệm về anh Lưu Trọng Lư
Lúc đó (1940) tôi và anh Lư cùng ở số nhà 40 Hàng Than, Hà Nội. Tôi ở trên gác cùng một số bạn sinh viên, anh Lư ở dưới nhà với chị Lư (tức là chị Thanh Thuỷ, người vợ đầu của anh) và cháu Hải. Lúc này anh Xuân Diệu đã vào Mỹ Tho làm tham tá nhà Đoan. Một chiều thứ sáu tháng 10 (hoặc tháng 9) tôi vừa đi học ở trường đại học về, vừa đặt chiếc xe đạp ở cầu thang, đang lên gác, thì anh Lư bước vội lên gọi tôi: “Huy Cận ơi? Hay lắm, thú lắm? Đi ngay với mình!”.
- Cái gì thế?
- Bài thơ Tràng giang của cậu đã đăng ở báo Ngày nay, hay tuyệt!
- Thế à? Tôi chưa được xem báo...
- Đăng rồi! Chiều nay, ông Ngô Tất Tố cùng xem với bọn mình, ông Tố rất khoái và thốt lên: “Giọng thơ Đường, thịnh Đường, mà hay hơn thơ Đường!”...
Tôi nói:
- Ồ thế thì thích quá...
Anh Lư rủ tôi: “Bây giờ Cận đi với mình đến hiệu Xuân Nghi (phố Hàng Quạt) ăn bữa phở ngon, mừng bài thơ của Cận”. Tất nhiên là tôi đi, với cái phấn khởi trong lòng, được bạn thơ tán thường, cổ vũ mình và với cơn đói nữa, vì trưa hôm ấy tôi ở lại trường không về ăn cơm trưa ở Pôpốt. Hai anh em đạp xe đến hiệu Nghi Xuân, anh Lư dõng dạc gọi phở tái gầu, rồi lại phở xào với cải làn... Anh Lư có uống tí rượu, còn tôi thì không uống được rượu, chỉ uống nước chè. Anh Lư vừa ăn vừa hào hứng bình luận thêm bài Tràng giang, anh say sưa bàn như là thơ của anh, tôi nghe cảm động. Rồi chúng tôi bàn đến nền thơ nói chung, bàn đến cái hay của tiếng Việt, đến cái cô đọng của thơ phương Đông... Rồi anh Lư gọi người hầu bàn tính tiền để anh trả. Anh sờ túi ngoài, túi quần, túi ngực đều không có ví tiền, cả túi trong của áo vét tông cũng không có... Thì ra anh quên mang tiền, theo tính đãng trí “truyền thuyết” của anh (người ta còn bảo anh quên cả số con của mình!). May mà tôi vừa lãnh học bổng, nên không phải chịu nợ hiệu phở “Nghi Xuân”.
Rồi hai anh em vẫn chưa hết cơn hào hứng, anh Lư rủ tôi đi thăm chùa Bích Câu, gần Văn Miếu. Tôi nhớ tối hôm ấy trăng mờ, trăng lu thì đúng hơn, cái ánh trăng rất hợp với việc khêu gợi những truyện xưa, những truyền thuyết dân gian, rất hợp với câu chuyện tình nửa trần, nửa tiên Bích Câu kỳ ngộ. Hai chúng tôi dạo hồi lâu trong sân chùa, đọc thơ xưa, thơ nay, càng thấy cái hồn xưa của cha ông đẹp quá, đằm thắm quá. Tôi nhớ tôi còn đọc cho anh Lư nghe bài thơ Hồn xa của tôi trong đó có mấy câu:
Tự buổi tiên đi, sầu cũng nhỏ
Nhân gian thôi nhớ chuyện trên trời
Đại bàng vỗ cánh muôn năm trước
Ai biết trời xưa rộng mấy khơi...
...
Bích Câu đâu nữa bóng chàng Uyên
Sông núi thô sơ bặt tiếng huyền
Có lẽ hồn ta không đẹp nữa
Nét thần thôi hoạ bức thiên duyên.
Anh Lư và tôi còn ở chung nhà Hàng Than một năm nữa. Cũng cuối năm 1940, anh cho ra tập thơ Tiếng thu, và tôi cho ra tập Lửa thiêng, hai anh em cùng mừng cho nhau đứa con đầu của sự nghiệp văn chương (con đầu về thơ, vì anh đã cho ra tập Người sơn nhân từ năm 1933).
Kỷ niệm về Thạch Lam
Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Lân là em trai Nguyễn Tường Tam (tức là Nhất Linh). Thạch Lam đậu tú tài toàn phần (tú tài tây), rồi chuyên làm báo và viết văn, không như Hoàng Đạo làm tham tá, hoặc Tường Bách là bác sĩ. Thạch Lam người gầy, mặt xương xương, mùa đông hay đội mũ dạ mốt xăng, vành bẻ cụp xuống. Anh thường đi bộ từ nhà đến toà báo Ngày nay, ở số 80 đường Quán Thánh. Nhà anh là một ngôi nhà nhỏ, mái gianh, vách toóc-si ở sát bờ Hồ Tây, ngay bên cạnh đình Yên Phụ, mùa hè khá mát, mùa đông thì rất rét, gió hồ thổi vào từng hồi lạnh buốt. Nhưng Thạch Lam thích ở đó hơn là ở phố, một phần vì đấy là cái nhà, miếng đất do anh dành dụm mà tạo được. Nhưng cái chính là vì ở đó hợp với tính tình của anh thích yên tĩnh, thích sống gần thiên nhiên; và dường như sống giữa xóm nghèo, gần gũi những người bình dân mà anh có cảm tình là một điều thoải mái mà anh tìm kiếm.
Trong số mấy anh em Nguyễn Tường, anh là nhà văn gần gũi nhất với những người nghèo. Mà bản thân anh cũng nghèo, vợ anh cũng nghèo phải buôn bán tần tảo, không như Hoàng Đạo mà vợ là con nhà tư sản giàu có.
Tôi thường gặp Thạch Lam tại toà soạn Ngày nay vào buổi chiều, lúc tôi đi học về, và cũng là lúc anh đến toà báo để đưa bài hoặc đi chữa bài. Tôi thích nhất là ngồi nghe anh đánh đàn tam thập lục trong một phòng xép bên cạnh phòng họp của toà báo, phòng xép này nhìn ra đường Quán Thánh, có bóng mấy cây bàng che mát.
Tiếng đàn anh thánh thót, hai cần tre nẩy trên những dây đồng vang lên một âm hưởng rất tình cảm; dường như mỗi lần anh cứ đánh đi đánh lại có vài bài ấy thôi nhưng tiếng đàn anh đánh rất nội tâm, chứ không phải chỉ quen tay, quen điệu. Đánh đàn xong anh rít một điếu thuốc lào, người hơi ngả ra phía sau trên lưng ghế mắt mơ màng một hồi lâu. Thạch Lam tỏ ý rất thích thơ tôi, cho là hợp với tâm hồn anh, hợp với điệu cảm xúc của anh. Thế rồi một hôm gần Tết anh mời tôi đi ăn ở hiệu Mỹ Kinh, một hiệu Tàu khá sang hồi đó. Đối với tôi đó là một điều thích thú, ít khi được vào hiệu ăn ngon và sang, vì anh đâu có nhiều tiền, bữa ăn thết bạn đồng nghiệp như vậy có lẽ cũng mất đi nửa nhuận bút của một cái truyện ngắn. Thạch Lam nói chuyện thỏ thẻ dường như e lệ, mắt nhìn chứa đầy cảm tình miệng mỉm cười rất tươi với đôi môi đỏ thắm. Thạch Lam rất sành ăn, sành các món ăn dân tộc mà anh đã mô tả một cách tinh vi và đầy chất thơ trong cuốn Hà Nội 36 phố phường. Vừa ăn anh vừa giới thiệu cho tôi biết các đặc sản của Hà Nội, của từng phố, thậm chí của cả người bán rong các món ăn bình dân, như cháo lòng, bún ốc, mà anh quen. Anh còn nói chuyện nhiều với tôi về Hà Nội cổ, về Thăng Long ngày xưa, vì anh biết tôi ra ở Hà Nội chưa bao lâu và cũng có tấm lòng quí những gì là di sản của cha ông. Lúc tôi tập hợp các bài thơ đã đăng báo và chưa đăng báo để in thành tập Lửa thiêng, tập thơ đầu của tôi, Thạch Lam ngỏ ý muốn viết tựa cho tôi. Đó là một lời ngỏ ý trân trọng với tình cảm quí mến nhau rất chân thật. Tôi hơi khó xử. Nhưng khi tôi nói là anh Xuân Diệu đã chuẩn bị viết tựa Lửa thiêng từ lâu rồi, thì Thạch Lam hiểu ngay đó là điều tự nhiên, “tất yếu , không hề phiền lòng.
Các bài thơ của tôi in trên báo Ngày nay, anh đọc thích thú và thường bình luận. Tôi còn nhớ về bài Tràng giang, anh rất thích thú với cái không khí rộng lớn bát ngát có khi được mô tả bằng cái nhỏ bé, như trong hai câu:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa.
Tôi đã tặng anh bài Đi giữa đường thơm vì cảm thấy bài đó rất hợp với tâm hồn anh. Còn mỗi khi anh ra sách, anh đều tặng tôi, với một cái tên ký và chữ M ngoắt lên được vẽ thành một cây nến đang cháy. Tất nhiên đó là một cách chơi bút của nhà văn nhưng không hiểu vì sao tôi cứ nghĩ đến những cây nến trên các áo quan khi sắp đưa đám... Thạch Lam mắc bệnh ho lao, gia đình hết sức chạy chữa nhưng lúc đó bệnh này là bệnh nan y; anh chết năm 1942 trong cảnh nghèo, mới 33 tuổi.
Làm báo Thanh niên
Năm 1942, sau khi tôi tham gia hoạt động Việt Minh, tôi vào Sài Gòn cùng một nhóm bạn sinh viên như anh Lưu Hữu Phước, anh Đặng Ngọc Tốt anh Huỳnh Văn Tiểng, anh Huỳnh Bá Nhung, tham gia làm báo Thanh niên mà anh Huỳnh Tấn Phát chủ trì, và bỏ tiền ra in. Anh Xuân Diệu cũng tham gia viết bài cho báo. Mục đích của tờ báo là gợi lòng yêu nước cho thanh niên, nhắc lại những truyền thống vẻ vang của cha ông, truyền thống chống ngoại xâm, truyền thống văn hoá độc lập. Tôn chỉ mục đích thì như thế, nhưng cách viết bài thì phải khéo léo, phải viết nhiều bằng ẩn dụ, và xen vào những bài vô thưởng vô phạt trên báo Thanh niên này, Xuân Diệu cũng vậy. Tôi còn nhớ cũng trên báo này, chúng tôi đã cho đăng một bài thơ mà chúng tôi rất thích của anh Huỳnh Văn Nghệ, mở đầu bằng bốn câu sau đây:
Ai đi về Bắc, ta theo với
Thăm lại giang sơn giống Lạc Hồng
Tự buổi mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long...
Bài thơ có tiếng vang trong thanh niên trí thức của Sài Gòn lúc bấy giờ, và tờ báo tuy số in ra không nhiều cũng có tiếng vang, làm chúng tôi phấn chấn định mở rộng ảnh hường của tờ báo, chạy thêm tiền để in nhiều hơn, tìm thêm đại lý thì tờ báo bị đóng cửa. Tính ra báo mới ra chưa được 10 số nhưng nó là một hoạt động hào hứng của chúng tôi. Gần đây tôi được biết một bạn Việt kiều ở Bỉ chuẩn bị làm một luận án về tờ báo Thanh niên này, xem đó là một tờ báo có tác dụng trong giai đoạn ấy.
Đến gặp anh Hoàng Xuân Hãn
Tháng 4-1942, sau khi tôi đã tham gia hoạt động Việt Minh, một hôm tôi đến gặp anh Hoàng Xuân Hãn tại nhà ở phố Tràng Thi bây giờ. Dưới nhà là hiệu thuốc tây của chị Hãn. Tôi gặp anh Hãn ở trên gác, có hẹn trước. Anh Hãn vốn là thầy dạy toán của tôi ở Trường cao đẳng Nông lâm, anh dạy toán cao cấp khi tôi học năm thứ nhất của trường cao đẳng.
Tôi có cảm tình với anh, không phải chỉ vì tình thầy trò, mà vì tôi đặc biệt cảm tình với tờ báo Khoa học mà anh chủ trì, với sự tham gia của các anh Tạ Quang Bửu, Nguyễn Xiển, Nguỵ Như Công Tum... nhóm báo Khoa học có một mục đích rất rõ rệt là tạo ra, là chuẩn bị một tiếng Việt Nam khoa học, khả dĩ truyền bá tất cả các kiến thức khoa học, kỹ thuật cho đồng bào ta bằng tiếng nước nhà, không phải nhờ tiếng nước ngoài nào nữa. Tinh thần và mục đích, tôn chỉ của nhóm có thể nói là tập trung nơi anh Hoàng Xuân Hãn, người đã tự một mình làm ra quyển Danh từ khoa học đầu tiên của nước nhà. Vì tôi đoán hiểu ở anh một tinh thần dân tộc nồng nàn, nên tôi đến gặp anh để thăm dò anh, có thể mời anh tham gia hoạt động với chúng tôi trong Mặt trận Việt Minh, dưới một hình thức này hay hình thức khác không. Gặp tôi anh rất niềm nở tiếp chuyện, với cả tình đồng hương nữa, vì cả hai chúng tội đều là người Hà Tĩnh. Trong gian phòng rộng, nơi anh tiếp tôi có hàng tủ sơn màu đen, có rất nhiều hộc, là những ô hồ sơ nghiên cứu của vị giáo sư. Điều đó cũng tăng thêm cảm tình của tôi đối với anh. Tôi gợi ý rõ ràng chuyện muốn mời anh tham gia hoạt động bí mật với chúng tôi, ngụ ý rằng uy tín của anh khá lớn trong đám sinh viên trí thức, nếu anh tham gia thì có thể lôi kéo thêm nhiều người, hoặc là làm một thứ hậu thuẫn cho chúng tôi dễ hoạt động. Anh nói hết sức cảm động được anh em thanh niên tín nhiệm anh mà tìm đến anh vì việc nước, việc dân như thế này, và anh hoàn toàn ủng hộ những hoạt động yêu nước của anh em, trong khi vận nước có thể có những biến chuyển. Nhưng, anh nói anh đã hơi có tuổi, xin để cho anh đứng phía sau làm vai trò ủng hộ, còn xông ra hoạt động phía trước thì để nhường cho anh em trẻ tuổi còn sức, đang lòng hăng hái... Nhưng anh em có thể tin cậy ở sự ủng hộ tinh thần phía sau của anh và những người như anh.
Tôi cáo từ ra về, được anh tặng một quyển Danh từ khoa học mà tôi còn giữ cho đến ngày nay, mà tôi vẫn quí.
Một năm làm gia sư
Như một đoạn trên đã kể, cuối năm học đệ nhất niên tú tài (tháng 4-1937) tôi bị cắt học bổng vì đi đón Gô-đa (Justin Godart). Vì thế lên năm thứ hai, tôi không còn được ở nội trú trong trường Quốc học, mà phải đi làm gia sư để có thể tiếp tục học. Tôi đến ở nhà bác sĩ B. D., nhà là một biệt thự giữa một khu vườn rộng, có trồng mấy cây dừa, có nhiều cây cao bóng mát. Đặc biệt có một cái giếng rất sâu, nước rất trong, những đêm hè, tôi tha hồ tắm và giặt quần áo và ngắm bóng trăng ở đáy giếng... Tôi được bố trí ở một cái phòng con sát liền với ga-ra, vì bác sĩ B. D. có một ô tô riêng để đi khám bệnh. Cái nhà lớn, nơi ông bà chủ và gia đình ở, thì thỉnh thoảng tôi mới lên để lấy sách vở quí hoặc vài thứ vật dùng tôi cất trong cái rương mà tôi gởi ở phòng ăn. Học trò của tôi là một cậu con trai học dốt, một cô con gái chăm học nhưng không sáng dạ lắm, và một cậu con út khôi ngô và khá thông minh. Tôi phải dạy ba học trò của tôi bằng ba thời khắc biểu khác nhau; còn ngày chủ nhật thì tôi để cả buổi sáng để dạy toán và Pháp văn cho cả ba đứa. Vợ chồng bác sĩ cũng biết là hai con của mình dốt, nên thường động viên tôi cố gắng dạy thêm giờ.
Nhưng có điều không ngờ là cuối năm kết quả học tập của ba học sinh đều tốt, ngoài cả dự kiến của gia sư. Hai đứa con đầu của bác sĩ thì học trường trung học Tây ở Hà Nội, một cậu thông minh, còn cậu cả thì cũng thường thường bậc trung. Đến Tết về nhà hai cậu công tử ăn diện lắm, nhưng nói thật gặp tôi cũng nể, không dám lên mặt, một phần vì biết tôi học giỏi, phần nữa là tôi đã bắt đầu nổi tiếng trong đám trí thức học sinh Huế với những bài thơ của tôi đăng khá đều trên báo Ngày nay. Nhưng mà tôi cũng hơi thèm những đôi giày da của hai cậu công tứ này có đôi là đóng mới, cũng có đôi mua giày cũ chữa lại nhưng đối với tôi vẫn là sang và quí. Lúc đó đi học tôi chỉ đi một đôi giày làm bằng săm bánh xe hơi dán lại màu đỏ gạch, mùa đông thì ấm chân, nhưng mùa hè thì bí hơi, cứ phải rửa chân luôn. Các cô học sinh trường Đồng Khánh gặp tôi thì mỉm cười, có lẽ vì có cảm tình với nhà thơ trẻ, nhưng có lẽ cũng vì thấy đôi giày ngộ nghĩnh, độc đáo của tôi. Tôi không muốn lập dị, nhưng cực chẳng đã tôi phải đi đôi giày cao su đỏ đến hết năm thứ hai tú tài. Vừa rồi có anh bạn trước cùng học ở Quốc học gặp tôi lại nhắc “chàng thi sĩ đi đôi giày đỏ” trên đường Khải Định... Bên cạnh phòng tôi ở có một cây ổi, có mấy cành là là, có thể mắc võng nằm, có thể đánh đu... Với cái thói quen có từ thuở nhỏ, tôi hay ra ngồi trên cây ổi đọc sách, làm thơ và nhất là những đêm trăng sáng, tôi nằm trên cành ổi nhìn mấy ngọn lửa sáng loáng của nhà tôi ở và của vườn bên cạnh. Bên đó có mấy cô nữ sinh trường Đồng Khánh thỉnh thoảng lại cất cao tiếng hát, hát mấy bài hát trong các phim Pháp hồi đó.
Chẳng biết có tình ý gì không, mà thường khi tôi ra nằm ở cây ổi đọc sách hoặc làm thơ thì lại được nghe tiếng hát vườn bên kia cất lên sau những lá dừa... Bà chủ nhà có một cô em gái khá đẹp, mà nhất là có duyên, thỉnh thoảng đến thăm các cháu tức là học sinh của tôi và cũng nói chuyện với thầy, nói chuyện thơ văn, cũng tỏ ý có cảm giác rằng cái cầu đã được bắc, nếu tôi đi tới một bước thì có thể đã thành duyên thành nợ... Nhưng không hiểu tại sao, bước ấy tôi không đi, và mối cảm tình cứ lửng lơ, không chín thành tình cảm được. Về sau này tôi biết người con gái ấy đã có một cuộc đời tình duyên rất đau khổ gần như tủi nhục, đến nỗi có lúc cô ta muốn tự tử. Được tin, tôi bàng hoàng và tự nhiên cảm thấy tôi có một phần trách nhiệm trong sự đau khổ của người đẹp xấu số...
Nhưng kỷ niệm sâu sắc nơi vườn dừa cây ổi của tôi lại là bà chị của bà chủ nhà, lúc đó đã gần 50 tuổi mà vẻ người còn duyên dáng, mượt mà. Cái giọng nói Huế vốn đã êm ả, trữ tình, mà riêng cái giọng của bà chị này lại càng êm thấm, càng nội tâm. Bà ta nói chuyện với tôi hoặc với bất cứ ai khác mà cứ tưởng như bà tự nói với mình. Mắt bà rất đẹp, nhiều lúc như ngẩn vào trong, đôi lông mày cứ nhíu nhíu lại, chắc hồi trẻ cái nhíu lông mày đã làm chết điếng nhiều chàng trai. Dần dần tôi mới hiểu bà thất tình, và bà đến cây ổi của tôi bà ngồi lên cành, hai tay nắm hai cành con đu đưa như đưa võng, rồi khe khẽ hát những bài ca Huế, nhất là điệu Nam bình buồn sâu lắng...
Tôi đã gặp nhiều người điên, nhưng chưa bao giờ thấy một người điên lại biết điều như bà, thật ra bà ngẩn đi vì tình hơn là điên, bà sống bằng kỷ niệm mà không sống bằng hiện tại, bà thuộc vào loại người mà thiên hạ gọi là si dại. Thỉnh thoảng bà tự nói một mình, nói mạch lạc, lời trau chuốt, làm cho tôi nghĩ rằng những màn độc thoại trong sân khấu cổ điển của các nước là hiện thực, là rút từ trong đời chứ không phải là một ước lệ của các thầy tuồng. Sống với những người bình thường, có trí não lành mạnh tôi hiểu được nhiều về cuộc đời, nhưng tiếp xúc với những người điên, người si, dường như tôi được hiểu bổ sung về cuộc đời, về sự sống, vì đây là một thứ toán ảo giác, làm bằng những ảo số.
Một năm làm gia sư cho tôi được hiểu nhiều về tính cách của nhiều con người, của ông bác sĩ quá thực tế, cứ muốn dạy con sống theo các nhân vật của Marcel Pagnol, những nhân vật rất “thực dụng chủ nghĩa”, cố vụ lợi vật chất, xem đời sống tinh thần, văn hoá là một thứ xa xỉ thậm chí là không tường... Được biết tính tình bà chủ nhà thương con, lo sắm đủ thứ cho con, nhưng không dám tiêu pha gì cho mình, và chắt bóp từng xu đối với bà con thân thích. Hai vợ chồng sống rất tương đắc trong cách quản lý gia đình, trong cách đối xử với họ hàng nhưng dường như đời sống nội tâm của họ có một khoảng trống, đó là điều tôi đoán hiểu nhưng cũng được xác định qua câu chuyện của bà chị thất tình và của cô em gái... Còn tâm lý của ba đứa học sinh của tôi thì chưa có gì đáng nói, mà tôi cũng không thèm để ý. À, mà cũng đáng nhắc điều này: cái cậu con trai học dốt cứ cười tôi là thầy quá mơ mộng quá ảo tưởng... “cuộc đời nó không đẹp như thầy tưởng đâu? Cuộc đời nó như trong các vở kịch của Pagnol ấy!”. Ông bố đã đúc cậu con theo cái khuôn của ông không sai một ly. Có điều nói thế thì nói, chứ trò vẫn trọng thầy và nể thầy. Xã hội vẫn còn cho phép có những người mơ mộng, có những người không tưởng cậu học trò quá thực dụng của tôi cũng dần dần hiểu ra điều đó.
Sau này, trong thời gian chống Mỹ cứu nước, tôi có hỏi thăm tin tức về gia đình ông B. D. thì được biết hai cậu con học trường Tây Hà Nội đã làm công chức cho chế độ Mỹ nguỵ, nhưng cũng không phạm tội ác gì. Còn cậu học trò dốt thì nghe đâu đi buôn cốt kiếm tiền, không tham gia hoạt động chính trị, đúng với tính cách của anh hồi nhỏ.