Chúng ta hãy lần nữa trở về ngôi nhà đơn độc trên sông Alamô, nơi mà những con bạc đã tới làm cuộc đỏ đen dưới mái nhà khi chủ nhân đi vắng.
Gần tới trưa ngày hôm sau mà chủ nhà vẫn chưa quay trở lại. Tên hầu ngựa cũ xứ Balibalax vẫn là người độc nhất ở trong ngôi nhà. Hắn vẫn còn nằm lăn lóc trên sàn nhà như trước. Thật ra, từ lúc chúng ta nhìn thấy hắn lần cuối, hắn đã kịp tỉnh lại, nhưng giờ đây hắn lại say như chết sau khi lại hướng tới tửu thần.
Để giải thích tất cả, cần phải kể lại những gì xảy ra tiếp tục từ cái đêm mà những kẻ lạ mặt phải chạy ra khỏi nhà một cách bất ngờ.
Hình ảnh ba tên da đỏ man rợ, ngồi quanh bàn say sưa cờ bạc làm Felim tỉnh rượu.
Mặc cho sự khôi hài rõ ràng của những gì đã trải qua, Felim chẳng hề thấy tý gì buồn cười và hắn đã chào đón bọn khách không mời mà đến bằng tiếng rú hãi hùng.
Nhưng những gì tiếp theo thì không có gì đáng buồn cười. thêm nữa, những gì cụ thể tiếp theo thì hắn không thể nào tưởng tượng nổi. Hắn chỉ nhớ rằng ba chiến binh mình mẩy loang lổ kia bất ngờ chấm dứt cuộc chơi, vứt tung những lá bài ra sàn. Sau khi nhảy xổ đến chỗ hắn, chúng vung dao lên. Người thứ tư đột nhiên nhập bọn, và cả lũ chen lẫn nhau chạy ra khỏi lều.
Tất cả những điều đó chỉ diễn ra trong khoảng hai mươi giây. Khi hắn hoàn hồn thì trong lều chẳng còn một ai.
Hắn mơ hay tỉnh? Khi say hắn nhìn thấy tất cả những điều này trong mơ ư? Điều này đã xảy ra thật hay là một hiện tượng siêu tự nhiên không thể nhận thức được, giống như các hiện tượng khác đã xảy ra vào những ngày hôm ấy?
Không, mọi sự không thể đánh lừa hắn được. Hắn nhìn thấy những người rừng quá gần. Hắn nghe rõ bọn chúng nói chuyện với nhau bằng một thứ ngôn ngữ lạ tai. Ngoài ra, những lá bài còn nằm la liệt trên sàn nhà.
Felim không dám nghĩ đến chuyện nhặt lên dù là một trong những lá bài đó để xác định là chúng có thực hay không. Hắn đủ tỉnh táo nhưng không đủ can đảm để làm việc đó. Có lẽ hắn tin những lá bài này sẽ đốt cháy những ngón tay của hắn chăng? Hắn cho rằng những lá bài này chính là của bọn ma quỉ dữ.
Mặc dầu những ý nghĩ lẫn lộn trong đầu, Felim vẫn nhận thức được rằng ở lại trong lều là nguy hiểm. Những con bạc bôi mặt kia có thể quay lại để tiếp tục cuộc đỏ đen. Chúng để lại không chỉ những lá bài mà còn có cả những trang bị của những kẻ đi săn. Đúng ra có một cái gì đó buộc chúng bỏ đi bất ngờ, nhưng chúng có thể quay lại cũng bất ngờ như vậy.
Nghĩ vậy người Iếclăng quyết định hành động. Sau khi tắt nến để không ai chú ý, hắn len lén lẻn ra khỏi lều.
Hắn không dám đi qua cửa. Mặt trăng chiếu sáng bãi cỏ trước nhà. Bọn người rừng có thể ở đâu đó rất gần.
Hắn chui qua bức tường sau nhà, sau khi gỡ những tấm da ngựa gắn vào giữa những cây cột.
Lọt ra ngoài rồi, Felim trườn đi trong những bóng cây tối.
Hắn chưa kịp đi xa thì đã để ý thấy phía trước có cái gì đó đen đen. Hắn nghe thấy tiếng những con ngựa gặm hàm thiếc và gõ móng. Felim dừng lại và giấu mình sau gốc cây trắc bá.
Người Iếclăng nhanh chóng xác định rằng đó là những con ngựa. Hắn cảm giác hình như có bốn con. Chúng, không còn nghi ngờ gì nữa, thuộc về bốn gã chiến binh đã đánh bạc trong lều của chàng Muxtanger. Rõ ràng lũ ngựa bị buộc vào những gốc cây. Có thể chủ của chúng ở đâu đó gần đây…
Nghĩ vậy, Felim muốn quay lui. Nhưng bỗng nhiên hắn nghe thấy những tiếng rú vọng đến từ phía đối diện. Những tiếng rú thất thanh và khiếp đảm.
Sau những tiếng kêu khủng khiếp là tiếng chó sủa. Sau đó là sự im ắng, tiếng cành cây gãy răng rắc. Rõ ràng là có những người nào đó đang chạy ào ào qua các bụi cây trong cơn kinh hoàng.
Felim tiếp tục lắng nghe. Tiếng động lớn dần. Những kẻ chạy trốn chạy về phía cây trắc bá. Cây mọc đầy chồi non, Felim trốn trong bóng tối của chúng.
Tên hầu chỉ vừa kịp ẩn mình thì bốn tên lạ mặt hiện ra không hề dừng lại, chúng bổ nhào tới bầy ngựa.
Khi chạy ngang qua, chúng lắp bắp với nhau những lời mà gã Iếclăng này không thể hiểu được, nhưng trong giọng của chúng nghe rõ sự kinh hoàng. Sự vội vã cuống cuồng của bọn người này càng khẳng định sự nhận định của hắn. Rõ ràng chúng đang chạy trốn một kẻ thù nào đó làm chúng sợ chết khiếp.
Cạnh cây trắc bá là một khoảng trống không lớn lắm được ánh trăng chiếu sáng. Bốn tên chạy trốn phải đi qua khoảng trống để đến nơi buộc ngựa. Và khi chúng rơi vào dải ánh sáng của mặt trăng, Felim nhìn thấy rõ những tấm lưng màu đỏ của chúng.
Hắn nhận ra đó là bốn tên da đỏ đã xộc vào căn lều của chàng Muxtanger.
Felim ẩn mình cho đến khi tiếng vó ngựa của chúng đã leo lên đỉnh dốc, rồi xa dần về phía đồng bằng cho đến lúc không còn nghe thấy nữa. Rõ ràng rằng bọn người kia không còn ý định quay trở lại.
Bấy giờ hắn mới rời nơi trú ẩn, văn vẹo đôi tay và than thở:
- Thánh Patric vinh quang! Thế này là thế nào? Bọn quỉ này cần gì ở đây? Mà ai đuổi theo chúng cơ chứ? Rõ ràng đã có kẻ nào đó đã dọa chúng. Không lẽ là nó? Ta thề, chính là nó. Ôi Chúa, đó là cái gì chứ?
Nỗi sợ gặp người kỵ sĩ khó hiểu kia khiến Felim lại chúi đầu vào gốc cây. Hắn run lên và đợi thêm một lúc nữa.
- Rốt cuộc, chắc đấy chỉ là một trò đùa của cậu Moric. Cậu trở về nhà, cậu muốn dọa ta. Thật là hay, cậu đã kịp thời hù cho bọn da đỏ kia một mẻ, chính chúng đã cướp và giết chúng ta. Cầu Chúa, đấy chính là cậu ấy! Chỉ có điều lâu quá rồi ta không nhìn thấy cậu… Bao nhiêu thời gian rồi nhỉ? Ta nhớ rằng, ta uống cũng đã khá, đến bây giờ vẫn còn choáng… không biết chúng có tìm thấy cái chai của ta không nhỉ, cái bọn da đỏ ấy? Ta nghe nói chúng cũng ưa thứ nước này không kém gì chúng ta, những người da trắng. Ôi chà, nếu chúng tìm thấy cái chai ấy thì chắc rằng chẳng còn lấy một gịot! Cần phải quay lại kiểm tra mới đươc. Bây giờ ta chẳng còn sợ chúng nữa. Chúng chạy xa đến nỗi dấu vết của chúng đã mất hẳn.
Ra khỏi chỗ nấp, Felim quay lại lều.
Hắn đi thận trọng, một vài lần dừng lại xem có ai ở gần đây không.
Vừa đi hắn vừa trấn an trí tưởng tượng còn khá tốt của mình. Felim vẫn sợ cuộc gặp gỡ mới với kỵ sĩ không đầu, người đã hai lần xuất hiện bên cạnh căn lều và bây giờ, có thể đã ở trong lều rồi.
Nếu không có cái hy vọng sẽ tìm được “một vài giọt” có lẽ hắn đã không dám về nhà cho đến tận sáng, nhưng sự mong muốn được uống dù sao cũng mạnh hơn nỗi sợ hãi, và Felim, mặc dù còn do dự, cũng cứ bước vào căn lều tối om.
Hắn không đốt nến – mà điều này cũng chẳng cần thiết: hắn biết khá rõ căn lều, và đặc biệt là nơi để chiếc chai.
Những chiếc chai không còn ở chỗ cũ nữa.
- Quỉ bắt chúng đi! - Hắn kêu lên buồn bã – Hình như chúng đã mò ra rồi! Nếu không, tại sao nó không chòn ở chỗ cũ nữa? Ta đã để nó vào đây cơ mà. Ta nhớ rất rõ là ta đã để nó vào đây… Chà, ra mi ở đây, của quí của ta! – Hắn nói tiếp, sau khi đã sờ trúng chiếc giành liễu – Chúng làm cạn khô mất rồi, quân súc sinh đểu giả! Cầu cho quỉ sứ thiêu đốt sạch cái bọn trộm cướp da đỏ đi! Ăn cắp rượu của người đang ngủ! Trời ơi, ta biết làm gì bây giờ? Lại nằm ngủ nữa ư? Làm sao mà nhắm mắt được nếu không có một hớp với những ý nghĩ bậy bạ? Mà lại không còn lấy một giọt… Hượm nào! Nữ thánh vinh quang, thánh Patric và các vị còn lại! Ta nói gì nhỉ? Còn một bi đông đầy! Ta chả giấu một bi đông vào trong rương đó ư. Ta đã rót đầy đến tận miệng để cậu Moric dùng khi đi đường, khi lần cuối cùng cậu lên đường đi đến khu cư dân. Mà cậu quên mang theo. Chúa lòng lành, nếu bọn da đỏ sờ những bàn tay bẩn thỉu vào đó thì ta đến phát điên lên mất!... – Hip hip ha! – Felim hét lên sau khi lục lọi trong hòm một lúc – Ura! Phúc đức làm sao! Bọn da đỏ còn chưa ngó tới đây. Thật không ngờ. Bi đông còn đây – chưa ai động tới nó! Hip hip, aha!
Phát hiện được điều đáng mừng này gã Iếclăng bắt đầu nhảy nhót trong căn lều tối.
Tiếp theo là sự im ắng, rồi có tiếng vặn nút biđông và tiếng ồng ộc của chất lỏng chảy từ miệng biđông hẹp sang cổ họng.
Một lúc sau, tiếng động này được thay thế bằng tắc lưỡi và tiếng xuýt xoa hài lòng.
Tiếng róc rách được thay bằng tiếng tắc lưỡi. Rồi tiếng tắc lưỡi thay bằng tiếng róc rách cho đến khi vang lên tiếng chiếc biđông rỗng rơi cạch xuống nền nhà.
Sau đó tiếng than vãn của người say lần lượt được thay thế bằng tiếng hát, tiếng cười man rợ và những lời lảm nhả rời rạc về những người da đỏ và kỵ sĩ không đầu, những điều đó được nhắc đi nhắc lại ngày càng nhỏ dần cho đến khi những tiếng lắp bắp chuyển thành tiếng ngáy ồ ồ.