Ngày hôm sau, Manhès và bá tước Léo thuận theo lời mời của vua Joseph đi săn lợn lòi ở Asproni. Họ thích có trong thực đơn con mồi của vùng Capodimonte. Họ đã bắn được mười hai con và phải dùng xe kéo, thịt được chia đều cho các binh lính.
Vốn tự hào về thành Naples của mình, ông Saliceti đòi hai chàng trai lưu lại năm, sáu ngày để thưởng ngoạn cảnh trí và chính ông cũng theo họ đi vài chuyến dã ngoại.
Họ đi thăm Nisida, thành cổ của Lucullus, thăm Pouzzole từng là cố đô của Campanie, thăm đền Sérapis, xem những gì còn lại của cây cầu Caligula, tới hồ Lucrin đến bên dòng sông mà Énée đã hái cành vàng giúp mình mở cánh cửa địa ngực và cuối cùng đến Achéron. Bằng một con đường tuyệt đẹp trải một tấm thảm cây xanh và cây thạch thảo vàng, họ đến vùng biển Misène nơi người La Mã từng có những hạm đội thuyền chiến do Pline l Ancien làm đô đốc. Chiến hạm đã tách một thuyền để lại gần xem hiện tượng núi lửa Vésuve và bị cát chôn phủ giữa Stabia và Pompei. Họ còn tới thăm Baies(1) nơi Cicéron từng xây một toà nhà mà chính ông ta cũng không dám thừa nhận vì tiếng xấu trong cách tắm ở đó. Họ cũng đến Bauli xem gác chuông ngoại đạo ánh lên dưới nắng mặt trời nơi hình như Néron đã giảng hoà với mẹ mình, hôn lên ngực bà trước khi chia tay, một cử chỉ bày tỏ sự chú ý và tôn trọng của một người con trai dành cho mẹ.
Cách đó chừng một trăm bước là chiếc thuyền mạ vàng dẫn bà đến toà nhà Baies. Agrippine không kêu cứu, không hò hét đã bơi đến ngôi nhà của mình và được các nô lệ chào đón. Những chỉ một tiếng sau, khi Anicetus đến, bà đã buông ra câu nói khủng khiếp cuối cùng với con trai: Fen Ventrem (Hãy đâm vào bụng!).
Bà đã trừng phạt kẻ giết cha như vậy.
Qua một miền cảng Naples, họ trở lại Poltici, Tolte del Greco, Castellammare, nơi từng lấy tên một pháo đài bị đổ đặt cho mình.
Mặc những nguy hiểm khi phải qua rừng La Cava để đến Salerme, hai chàng trai không thể cưỡng lại ý muốn tới thăm đền Paestum và đi viết tên của mình lên những công trình từ thời Hy Lạp cổ đại đã bị đổ nát từ thời hoàng đế Auguste.
Giữa đám cây ngấy và đám cỏ cao khổng lồ mọc chắn lối vào những kỳ quan của thời cổ đại, René phải nhọc công lắm mới tìm được những bông hồng mà ở Naples bày đầy trong các giỏ, để đặt lên bàn của Apicius và Lucullus.
Một con rắn hốt hoảng khi nghe tiếng động, lao ra khỏi bụi cây ngấy, cuộn tấm thân vàng choé thành từng vòng trên những tấm lát xỉn màu rồi mất hút trong khoảng để tượng trong đền.
Có lẽ đó là vị thần canh giữ chốn hoang vu này.
Khi trở lại, họ dừng chân ở Salerme để thám lăng mộ của giáo hoàng Grégoire VII người sau khi truy hại cha mình là vua Henri Đệ tứ nước Đức đã lại bị ông ta đánh trả. Trước khi chết ông đã ra lệnh khắc trên bia dòng chữ:
Ta đã yêu công lý, ta đã chạy trốn sự bất công, chính thế mà ta chết trong nghèo đói và lưu đày.
Cuối cùng đã đến lúc phải chia tay thành Naples tuyệt đẹp và lòng hiếu khách của ông Saliceti. Léo và Manhès kết nghĩa anh em rồi chia tay.
Riêng với bá tước Léo, ông Saliceti khuyên anh nên chờ một đội quân sắp đi Calabre để đi cùng họ. Nhưng René đâu phải là người quá lo lắng đến mạng sống của mình đến vậy. Khi được biết anh sẽ đến đầu quân cho tướng Reynier mà người ta không biết giờ này ông ở đâu do mọi tin tức đều bị gián đoạn, có chăng thì ông ta đang ở Amantea hay Cotrone; thế là anh tuyên bố tự mình sẽ đến gặp ông ta.
- Anh chỉ cần xưng tên - ông Saliceti nói - ông ấy sẽ biết mình phải liên kết với anh để đạt kết quả tốt nhất.
Tiểu thư Lavello muốn chìa tay cho anh hôn nhưng anh chỉ cúi mình trước người con gái đẹp ấy và nói:
- Thưa quý cô, một ân huệ như vậy phải dành làm phần thưởng chứ không phải cho một lời động viên.
René trèo lên con ngựa tuyệt đẹp mà người ta chuẩn bị cho anh trước cửa dinh của ông Saliceti, ông này bảo đó là một món quà của vua Joseph. René mặc bộ quân phục sĩ quan cấp thấp, súng cạc bin trên cốt yên ngựa, hai khẩu súng ngắn bên thắt lưng gọn gàng rồi ra đi bỏ mặc lời khuyên của ông Saliceti bảo nên chờ thêm.
Ngày ngày đầu tiên, anh đã ngủ tại Salerme. Con ngựa của anh chỉ nghỉ hai tiếng trong lúc tiết trời nóng nực nhất, sau đó nó có thể chạy mười tiếng một ngày không biết mệt.
Ngày thứ hai, anh đến Capaccio. Tại đây, anh hỏi thăm và biết đường sẽ rất khó đi vì vừa chằng chịt đan xen nhau lại vừa có những băng cướp nằm cách xa quân đội Pháp ở Naples. Chúng chặn mọi tin tức giữa thủ đô và tướng quân. Người ta còn đồn tướng Stuart của nước Anh đã đưa đội quân khoảng năm đến sáu nghìn và ba trăm tù khổ sai vào vịnh Sainte-Éuphénie.
Không vì thế mà René không đến Capaceti. Anh chẳng lo đường khó đi hay bọn cướp. Ngày thật dài. Anh phải đến Lagonegro và dọc đường không có mái nhà nào, anh thận trọng cho vào túi bánh mì, thịt gà và một chai rượu vang.
Đi được năm tiếng từ lúc tờ mờ sáng, anh bắt gặp một ngã tư và ba ngã rẽ phơi ra trước mắt anh đây là khó khăn đầu tiên như người ta đã báo trước. René tin sẽ gặp được ngôi sao may mắn như Fouché tưởng đã thấy trong cơn bão của ông ta.
Anh xuống ngựa, đặt khẩu cạc bin, hai khẩu súng ngắn và chai rượu vang trong tầm tay phải, đặt thịt gà và bánh mì trong tầm tay trái rồi ngồi xuống ăn bữa trưa thản nhiên như trong công viên Asproni hay ở Capodimonte.
Anh hy vọng sẽ gặp vài nông dân đi ngang qua và chỉ đường cho anh. Anh đã không nhầm. Vừa xẻ chỗ thịt gà và uống được phần tư chai rượu, anh đã nghe thấy tiếng ngựa rồi thấy xuất hiện một người như thợ cối xay trắng xoá vì bột, một con mắt bị che dưới cái khăn mùi xoa, cái mũ rộng vành che gần nửa khuôn mặt.
René gọi anh ta.
Nghe giọng nói, ông phó cối dừng ngay ngựa lại, đưa con mắt còn lại nhìn người vừa nói với mình.
- Này bạn hữu - René hỏi - Anh có khát không?
René chìa chai rượu ra.
- Lại đây uống đi. Anh có đói không?
Anh chìa thịt gà ra.
- Lại đây ăn đi.
Người đàn ông nọ vẫn không nhúc nhích.
- Ông đâu có biết tôi - Anh ta nói.
- Nhưng anh, anh biết tôi đấy. Tôi là người lính Pháp. Anh sẽ nói cho tôi trong ba con đường kia, đường nào dẫn đến chỗ quân đội và chúng ta sẽ chia tay. Nếu anh muốn kiếm vài đồng louis anh sẽ dẫn đường cho tôi.
- Tôi không đói cũng không khát - Người đàn ông đáp - Nhưng tôi sẽ dẫn đường cho ông.
- Tốt lắm.
Người nông dân vẫn ngồi nguyên trên lưng ngựa.
René tiếp tục ăn trưa. Ăn xong, anh để chai rượu, bánh mì vừa con gà lại cho người nào đói đi ngang qua rồi lên ngựa, chìa một đồng louis cho người nông dân bảo:
- Anh đi trước đi, đây là tiền đặt cọc.
- Cảm ơn - Người đàn ông nọ đáp - Nếu ông hài lòng, ông sẽ trả nó cùng với chỗ còn lại một thể.
Người nông dân đi trước, René đi theo sau anh ta. Dù nhìn con ngựa của anh ta cà tàng nhưng nó lại phi rất nhanh khiến cho René rất hài lòng vì thấy chuyến đi của mình không bị chậm lại.
Họ đến Lagonegro suôn sẻ. René nhận ra trong suốt dọc đường người dẫn đường của mình đã nói vài lời với những người bất thình lình xông ra từ cánh rừng hai bên đường, đám người ấy lẩn đi ngay lập tức. Anh đoán người dẫn đường của mình là người trong vùng nên quen biết những kẻ kia.
René ăn tối rất ngon. Anh gọi một suất ngon tương tự cho người đưa đường của mình và dặn gọi anh dậy từ sớm hôm sau.
Ngày mai anh phải đến Laino hay Rotonda: một ngày dài với hơn chục dặm đường nữa đang chờ anh.
Ngày hôm sau diễn ra như mấy ngày trước, con ngựa của người thợ xay bột cũng vẫn giữ được nước chạy như trước, với nước chạy ấy, người ta có thể đi được hai dặm một giờ. Dọc đường sau những mỏm đá lớn, ở giữa khu rừng thưa, người dẫn đường tiếp tục gặp vài người quen. Anh ta nói vài câu và những người kia lẩn đi.
Ngày hôm sau nữa, thay vì đi theo đường lớn, nếu ở Calabre vào thời đó có được con đường đáng được gọi là đường lớn, người dẫn đường lại đưa René rẽ phải, bỏ lại Cosenza phá bên trái.
Đêm ấy họ ngủ lại San Mango.
René hỏi thăm và biết chỉ còn vài dặm nữa là đến chỗ quân đội Pháp đang đóng quân bên vịnh Sainte-Éuphénie. Anh nhận ra những câu trả lời dành cho anh có vẻ rất xấc và ông chủ tỏ vẻ mặt khó chịu với anh.
- Vậy là anh đối xử với ông ta theo cách coi ông ta là kẻ khôn ngoan. Thế là ông ta kính cẩn đưa chìa khoá và cây đèn của mình cho anh.
René lên phòng và thấy chìa khoá ở chốn này là một thứ đồ xa xỉ vì cánh cửa chỉ khẽ níu với chiếc đinh bằng một sợi chỉ.
Anh vào phòng thấy một thứ có hình dạng như cái giường bèn để nguyên quần áo ngả lưng xuống đó không quên cẩn thận đặt khẩu súng cạc bin và hai khẩu súng ngắn lên bàn ngay cạnh đó.
Anh mới chỉ ngủ được một tiếng thì nghe thấy tiếng bước chân trong phòng bên cạnh. Những bước chân ấy lại gần cánh cửa René trong lúc chờ cánh cửa mở ra với một khẩu súng ngắn sẵn sàng nhả đạn.
Nhưng anh rất lấy làm lạ, cánh cửa rung rung hai lần mà không mở ra. Anh cầm súng tự mình đi ra mở và thấy một người đàn ông ngủ bên ngoài. Anh cúi xuống nhìn và nhận ra đó là người đưa đường của mình.
- Vì Chúa, - Người này nói - ông đừng ra khỏi đây.
- Sao vậy? - René hỏi.
- Ông chưa đi được mười bước đã bị giết rồi.
- Thế anh làm gì ở đây?
- Tôi canh cho ông - Người đưa đường nói.
René đăm chiêu trở lại giường, thả mình xuống đó rồi thiếp đi.
Hình như anh đã nghe thấy giọng nói này ở đâu đó.
Chú thích:
(1) Thành phố nước cổ xưa, nơi giải trí của người La Mã