Hai lữ khách ăn bữa tối khá tệ, nhưng họ sẽ nhầm to nếu phàn nàn bị đối xử tệ ở quán trọ Nơi sinh Auguste khi mà hoàng đế Auguste lúc trên ngai cũng chỉ ăn tối với hai con cá khô và một ly nước. Có cả một tập sách nói đến những điều xung quanh nơi chôn rau cắt rốn của Auguste, những chuyện dự báo cho ngài, con trai một người xay bột và mẹ là người gốc châu Phi, trở thành hoàng đế trên đời.
Antoine chẳng phải đã nói với ngài: "Tổ tiên mi là người châu Phi, mẹ mi quay quanh cái cối xay tồi tàn nhất Aricie và cha mi đảo bột bằng tay đen xỉn do tiền ông ta kiếm được ở Nerulum", đó sao?
Nhưng những dự báo cũng bắt đầu từ họ.
Mẹ của ngài, Atia, khi ngủ trên ổ rơm trong đền thần Apollon, con rắn đã quấn quanh cột tượng làm biểu tượng thần y học đã rời khỏi điện thờ, bò đến ổ rơm, quấn lấy Atia và chỉ thả bà khi đã có thai.
Một hôm ngài đi đến trường, tay cầm một mẩu bánh mì, một con đại bàng xông tới cắp mẩu bánh của ngài và chỉ trả lại sau khi đã nhúng nó vào các món cao lương mỹ vị trên đỉnh Olympe.
Cuối cùng là tiếng sấm rền trên ngôi nhà và biến nó thành chốn thiêng.
Tối hôm ấy, ở Velletrie có một lễ hội, tất cả các nam thanh nữ tú miền thôn quê quanh đó đều tụ tập về đây.
Họ khiêu vũ.
Lúc nào cũng có một nửa đất Italie nhảy múa trong khi nửa kia đổ lệ. Họ chẳng lo liệu người Pháp có vào Rome chiếm Naples, có vây hãm Gaète hay không, và từ phía kia đầm Pontins, nếu người ta nghe thấy tiếng đại bác hai mươi tư ly tức là người ta hiểu có đánh nhau kịch liệt trong thành.
Napoléon đã viết cho anh trai: "Hãy siết chặt vòng vây".
Và Joseph tuân lệnh anh siết chặt vòng vây.
Ở đây người ta vẫn cười với người Pháp. Các cô thiếu nữ chìa tay ra và nhảy với họ, các cô chẳng quay đi trước những đôi môi của các anh chàng người Pháp, nhưng khi họ gặp những anh chàng này một mình, người ta sẽ dùng dao găm đâm chết anh ta.
Các thực khách ăn cùng bàn với hai chàng thanh niên hau háu nhìn các túi vàng mà anh chàng trẻ hơn xỉa ra một đồng louis để trả khoản tiền bốn phăng mà hai người vừa ăn cũng như nhìn chăm chăm cái ví bạn anh ta rút từ áo khoác cho xuống túi quần.
Người đại diện Velletri đi đi lại lại giữa những kẻ uống rượu và nhảy múa nhìn vào đống của cải ấy không kém phần thèm muốn, nhưng cũng giống như người chủ trạm ngựa ở Rome, ông ta không giúp các chàng trai trẻ gì hơn ngoài việc đề nghị một đoàn bốn người hộ vệ giúp họ đi qua đầm Pontins.
Nhưng Manhès rút ra hai khẩu súng ngắn và vỗ tay vào thanh gươm của mình còn người đi cùng anh ta đảm bảo chỉ hai phát đạn cạc bin cũng đủ làm dịu tình hình.
- Đây là đoàn hộ tống của chúng tôi - Anh nói - Người Pháp không cần đoàn hộ tống nào khác ngoài vũ khí của họ.
- Cách đây một tháng - Người đại diện nói với vẻ quàu quạu - một sĩ quan tuỳ tùng cũng ăn tối ở đây như các vị, cũng trưng ra vũ khí hay lắm, nhưng tôi thề là thấy số vũ khí ấy trong tay những kẻ đã giết chết anh ta.
- Thế mày không làm gì để bắt chúng à? - Manhès hét lên và đùng đùng đứng dậy.
- Nghĩa vụ của tôi là cung cấp đoàn hộ tống cho khách qua đường chứ không phải bắt những kẻ giết họ khi mà những người đó đã từ chối thuê quân của tôi. Tôi chỉ làm tròn bổn phận của mình thôi.
Manhès cho rằng có gây gổ thêm cũng chẳng giải quyết vấn đề gì nên ra hiệu cho người bạn của mình đứng dậy đi theo anh ta.
Sau đó, hai người lên cỗ xe đã thay người đánh xe và ngựa mới, trả hậu hĩnh cho người đánh xe trước rồi cho xe chạy nước đại về phía đầm Pontins.
Ai cũng biết tiếng phần đất La Mã trải dài từ Velletri đến Tenacine tức là phần giáp biển Vương quốc Naples ấy. Không khí nhiễm độc có khi còn giết người chắc chắn hơn cả bọn cướp.
Trong bữa tối, màn đêm đã buông xuống và khi hai lữ khách ra khỏi quán trợ ánh trăng bàng bạc tuyệt đẹp đã rải xuống đường, thỉnh thoảng thủng lỗ chỗ do tán lá cây rung rinh. Chốc chốc, một tảng đá dựng đứng như chực đè lên đầu kẻ nào đi phía dưới, lại đổ cái bóng tối om của nó xuống đường. Càng lại gần đầm Pontins người ta càng thấy nhiều vết hằn không phải vì mây mà vì hơi nước đùn lên trời. Chúng tụ lại dưới trăng khiến mặt trăng như trùm phải tấm vải đen.
Vì thế bầu trời nhuốm một màu kỳ ảo, vàng vọt. Qua ánh đèn bão mà màn đêm dày đặc thít nó lại khiến nó chỉ toả một quầng bé xíu, mà qua bóng đêm hình thù của chúng còn lớn hơn nữa. Chúng chỉ phì phò trong lúc nhô cái đầu khỏi mặt nước. Đó là những con trâu hoang, với chúng những đầm dạng này là nơi trú ẩn an toàn, kể cả trong cái nắng ơi bức nhất những bàn chân tò mò nhất cũng chẳng dám bén mảng đến tìm chúng.
Từ đoạn đường này sang đoạn đường khác, hoảng hốt do tiếng xe, những con chim lớn đen lù lù bay lên, không phát ra tiếng vỗ cánh. Đó là những con diệc xám, con diệc sao hoang dã phát ra tiếng kêu tang tóc khi đã dấn thân vào màn đêm nơi chúng biến mất ngay sau phát đập cánh thứ ba. Faust và Méphes to Phélès đi đến dạ hội phù thủy cũng không theo con đường lắm biến hoá như con đường hai lữ khách của chúng ta đang đi.
- Ngài đã bao giờ thấy cảnh tương tự thế này chưa" - Manhès hỏi.
- Rồi, trên đường đi từ Pégon đến mảnh đất Trâu rống; chỉ có điều chúng tôi không nghe tiếng trâu thở phì phò mà là tiếng gầm gào của bầy hổ và tiếng oe oe của cá sấu châu Mỹ. Trên đầu không phải bầy diệc xám, diệc sao bay lượn mà là lũ dơi mà người ta gọi là loài hút máu, chúng chích vào động mạch kẻ đang ngủ mà không ai cảm thấy gì trong mười phút rồi hút máu.
Rồi cả hai lại chìm trong sự im lặng có thể nói là bất đắc dĩ.
Đột nhiên, người đánh ngựa thổi ba tiếng kèn đồng mà anh ta quàng qua vai. Không biết tiếng kèn ấy gọi ai, hai chàng trai coi đó là một tín hiệu và đặt tay lên súng của mình.
Lập tức có hai ba tiếng kèn tương tự đáp lại. Họ nhìn thấy giữa đám thực vật xanh tươi, có ánh lửa bập bùng như bao quanh những con ma. Đó là một trạm trung chuyển.
Cỗ xe dừng lại.
Năm sáu người có ngựa sốt sắng châm đuốc, cầm roi chạy vào kho cỏ trong khi những người khác đứng ở lối ra.
Vài giây sau, người đánh xe tháo ngựa của mình.
- Trả tiền cho tôi nhanh lên để tôi còn chuồn - Anh ta nói với hai chàng trai.
Hai hành khách vừa đưa tiền, anh ta đã nhảy phốc lên ngựa phóng nhanh và biến mất trong bóng tối, tiếng bước chân ngựa cũng lịm dần.
Trong khi đó, một cuộc chiến thật sự xảy ra trong đó có tiếng người chửi rủa, tiếng ngựa hí lên dữ dằn đáp lại. Người coi ngựa hung tợn bao nhiêu thì lũ ngựa cũng bất kham bấy nhiêu.
Hai khối dị dạng và không phân biệt nổi đang lại gần cỗ xe. Hai con người với mái tóc bay loà xoà lẫn vào bờm ngựa, nhìn giống như những con thú hoang đường không có thật, những con nhân mã ba đầu. Lũ ngựa chịu khuất phục không còn hí nữa mà chỉ rền rĩ. Người ta đẩy một con vào giữa hai càng xe, buộc con nữa ở cạnh. Hai người cưỡi ngựa khác đứng xáp lại hai bên cỗ xe. Người đánh ngựa lôi tiếp con ở ngoài cùng vào, hai người khác dùng hết sức giữ lũ ngựa đã đóng càng đang thở hồng hộc và dậm chân bình bịch xuống đất thỉnh thoảng chỉ chực húc sang bên.
Chúng như nổi xung, lao đi vừa hí vừa phì khói ra khỏi hai lỗ mũi còn con mắt thì nảy lửa. Hai người cưỡi ngựa hai bên phi theo với tiếng hét lồng lộn để chặn lũ ngựa đã đóng xe dừng lại giữa đường không cho chúng lao sang hai bên kênh nước dọc đường: người cưỡi ngựa, ngựa đã đóng vào xe, cỗ xe và hành khách vội vã quấn rết như một cái vòi rồng vậy.
Ba trạm chuyển ngựa tiếp theo cũng tái diễn cái cảnh tương tự như cảnh tôi vừa cố tả lại trên đây. Chỉ có điều càng về sau, lũ ngựa như càng hung tợn hơn, những con người càng tái xanh và rách rách rưới hơn.
Đến trạm cuối cùng, vì ngọn đèn bão đã tắt và cả người đánh xe lẫn người giữ ngựa đều không còn nến để cắm vào đó nên hai hành khách buộc phải mỗi người cầm một ngọn đuốc. Họ đi nhanh, chỉ còn cách Tenacine hai dặm rưỡi nữa.
Đột nhiên, đến một nơi bắt đầu có những mỏm đá nổi lên khỏi mặt đất, hai chàng thanh niên cảm thấy hình như có những bóng đen lù lù chui lên từ hố đen và lao ra đường.
- Faccia in tern! (Nằm xuống đất) - Một giống nói hét lên.
Vì thấy cả hai người cùng đứng dậy, một phát súng vang lên và một viên đạn xuyên qua giữa hai hành khách, đâm thủng đáy cỗ xe. Lập tức không cần đưa khẩu cạc bin lên vai, anh chàng không xưng tên nhả đạn tay duỗi ra như anh ta đang bắn súng ngắn.
Một tiếng thét xé toạc không khí vang lên, người ta nghe tiếng thân người đổ bịch xuống đường.
Cùng lúc, hai hành khách ném ngọn đuốc của mình ra xa chục bước. Chúng chiếu sáng cả đoạn đường và họ có thể nhận ra bốn hay năm người đang lưỡng lự chặn xe trong khi một trong số họ đã nắm được dây cương.
- Mày có muốn thả dây cương ra không thằng vô lại! - Manhès hét lên.
Rồi bằng một phát súng ngắn, anh ta cho tên này đến nằm cạnh đồng bọn của hắn, lại một phát súng cạc bin thứ hai hất tên cướp thứ ba lăn ra đất.
Đến đây, những tên còn lại chỉ còn nghĩ đến việc chạy trốn nhưng hai chàng trai của chúng ta đã nhảy xuống hai bên xe mỗi người đều cầm súng ngắn trong tay. Bất hạnh thay cho lũ cướp, trời bắt đầu rạng và hai chàng trai lại chạy nhanh như trong cuộc đua với Atalante.
Manhès thưởng cho tên bỏ chạy phía trước mình một phát đạn. Hắn lảo đảo, muốn rút súng ở thắt lưng ra nhưng trước khi hắn kịp rút nó ra khỏi vỏ, thanh gươm của đại uý đã găm vào ngực hắn.
Tên bị hành khách thứ hai đuổi, nhận ra sắp bị tóm liền rút súng ngắn khỏi thắt lưng, quay lại, nhả đạn nhưng bắn trượt.
Đồng thời hắn thấy một bàn tay thép đang siết vào cổ trong khi nòng súng lạnh băng áp vào thái dương.
- Tao có thể giết mày - Hành khách nói - Nhưng tao thích bắt sống để trưng mày ra như một con gấu bị rọ mõm trước những người cứ nghĩ bọn cướp là lũ bạo gan. Nào anh bạn Manhès, chọc cho mấy "cái mặt úp xuống đất" kia bằng mũi gươm của ngài cho chúng dậy để giúp chúng ta trói hai tên vô lại này.
Quả thật người đánh ngựa và hai kỵ sĩ cưỡi ngựa hai bên đã tuân lệnh theo bọn cướp, xuống ngựa và nằm áp xuống đường thật. Khi bị mũi gươm của Manhès chọc vào người họ chồm dậy đờ đẫn hỏi:
- Các ngài cần gì ạ?
- Dây chão - Manhès nói - và trói chặt hai tên kia lại.
Những người này tuân lệnh ngay. Họ cho hai tên cướp vào xe, lượm những khẩu súng ngắn, cạc bin mà hai hành khách bỏ lại sau khi chúng hết đạn và nhanh chóng nạp lại vì sợ sẽ có cuộc tấn công khác.
Hai hành khách đi bộ hai bên cỗ xe, bỏ lại ba cái xác trên đường cái và mang theo hai tên bị thương.
- Này, nói thật nhé bạn thân mến - Manhès nói vừa vốc nước bằng tay, vừa nâng cái mũ của bạn lên - Anh đã xin tôi làm cha đỡ đầu tôi nghĩ đã đến lúc thực hiện nghi lễ ấy rồi đấy. Nhân danh Buyard, Assas, Tháp Auvergne, ta đặt tên cho anh và gọi anh là Léo. Anh không phải ăn cắp cái tên này đâu nhé. Nào bá tước Léo, hãy ôm hôn cha đỡ đầu đi!
Bá tước Léo vừa ôm vừa cười ông cha đỡ đầu của mình, sau đó cả hai tiếp tục đi bộ đến Terracine với đoàn lâu la theo sau là hai tù binh bị trói trong xe, hai kẻ trông ngựa cưỡi ngựa đang tái mét, run rẩy và vội vã hơn nữa vì khiếp đảm.