Buổi khai mạc Quốc hội, tôi mời cha tôi và Quỳnh Nga, vợ tôi tham dự với tư cách khách mời riêng của cá nhân tôi (mỗi dân biểu đắc cử được mời hai người khách trong buổi khai mạc). Dù thế nào, đây cũng là bước thành đạt đầu tiên của tôi khi tham gia vào đời sống chính trị Sài Gòn, tôi muốn cha tôi và vợ tôi được chứng kiến ngày này. Đó cũng là một cách nhớ ơn sinh thành của cha mẹ và công lao của người vợ đã chia sẻ những gian nan và khó khăn ban đầu với mình. Ngồi giữa khung cảnh rộng lớn của Nhà hát thành phố, lần thứ hai được sử dụng làm trụ sở Quốc hội (lần đầu dưới chế độ Ngô Đình Diệm), tôi vẫn chưa hết ngỡ ngàng những gì đã xảy ra với mình. Tôi bước vào sân khấu chính trị không do chính tôi chủ động mà do định mệnh chọn lựa mình. Tôi không than phiền gì về sự “chỉ định” này của định mệnh vì trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước rất cần tiếng nói ở nhiều phía và từ nhiều đấu trường khác nhau để có một sức mạnh tổng hợp lòng lay chuyển tình thế thì diễn đàn Quốc hội cũng là một môi trường hoạt động khá thuận lợi. Mặc dù nhiều lúc Quốc hội Sài Gòn khi ấy không khác một nhà hát hài kịch rẻ tiền và lố lăng, nhưng từ diễn đàn này cũng đã vang lên khá nhiều tiếng nói của những phần tử đối lập, của những ý thức vận nước tìm cách thể hiện nguyện vọng của người dân miền Nam không chịu tách rời với miền Bắc ruột thịt, muốn được thấy Tổ quốc hòa bình, độc lập và thống nhất.
… Lúc đó tôi không bao giờ ngờ mình sẽ ngồi luôn trong cái “nhà hát” ấy ở Công trường Lam Sơn suốt 10 năm qua, qua 3 nhiệm kỳ liên tiếp: 1966-1967, 1967-1971 và 1971-1975! Biết bao tấn tuồng đã diễn ra ở nơi này. Chẳng thiếu gì cả: từ dân biểu buôn lịch “ở truồng” đến dân biểu buôn bạch phiến, từ những màn đấu miệng đến những màn đấu đá thật sự u đầu sứt trán. Những cuộc mua bán phiếu như ngoài chợ trời v.v… Nó đúng là sân khấu thu hẹp của một chế độ bát nháo, tham nhũng, mất định hướng, mỗi lúc một suy tàn. Và màn chỉ hạ xuống sau ngày 30-4-1975.
Phong trào Phục hưng miền Nam do kỹ sư Võ Long Triều tập họp có khoảng bảy người lọt vào Quốc hội lập hiến. Trong 117 dân biểu được bầu ở toàn miền Nam, tôi là người nhỏ tuổi thứ hai (26 tuổi) sau nhà giáo Nguyễn Hữu Hiệp, đắc cử tại Đà Lạt. Mặc dù số dân biểu của Phong trào Phục hưng Miền Nam chỉ có bảy người nhưng tôi vẫn vận động được sự liên kết của một số dân biểu khác để thành lập khối dân biểu Dân tộc. Theo nội qui của Quốc hội lập hiến, bất cứ một nhóm dân biểu nào, từ 20 người trở lên, tự nguyện tập họp lại sinh hoạt chung thì được chính thức công nhận là một khối, được bầu một trưởng khối, một hay hai phó trưởng khối và một thư ký khối. Quốc hội dành cho khối một văn phòng trong trụ sở Quốc hội, một ô tô riêng với tài xế cho trưởng khối. Tại diễn đàn quốc hội, trưởng khối được hưởng quyền ưu tiên phát biểu (không chờ thứ tự đăng ký) khi đại diện cho khối. Trong 117 dân biểu có đủ tất cả các tôn giáo như Công giáo, Phật giáo, Hòa hảo, Cao đài, Tin lành, đủ các thành phần như quân nhân, công chức, giáo viên, doanh nhân, trí thức, các đảng phái như Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt, Tân Đại Việt. Do chưa có ai nắm trọn quyền lực tại miền Nam vào thời điểm này, cuộc đối đầu lúc ngấm ngầm, lúc công khai giữa hai tướng lãnh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ vẫn chưa ngã ngũ, nên có lẽ đây là quốc hội có nhiều thành phần độc lập nhất so với các kỳ Quốc hội sau này (1967-1971 và 1971-1975). Để thành lập khối Dân tộc, tôi dựa vào 3 thành phần: các dân biểu Phục hưng miền Nam, các dân biểu Phật giáo và một số dân biểu độc lập. Người tiếp tay một cách tích cực dựng lên khối này, không có anh không thể hình thành khối là dân biểu Phan Xuân Huy, đơn vị Đà Nẵng. Là một giáo viên dạy toán nhưng thuộc thành phần đấu tranh cánh tả trong giới trí thức miền Trung, đồng thời hoạt động trong hàng ngũ Phật giáo chống chính quyền (thường được gọi là Phật giáo Ấn Quang), Phan Xuân Huy đã thuyết phục các dân biểu Phật giáo và một số nhân sĩ miền Trung gia nhập khối Dân tộc. Để thuyết phục mạnh mẽ hơn các dân biểu Phật giáo gia nhập khối Dân tộc do tôi làm trưởng khối, dân biểu Phan Xuân Huy đưa tôi đi thăm thượng tọa Thích Thiện Minh, người có ảnh hưởng khá lớn trong Phật giáo Ấn Quang.
Nhưng cho đến gần hạn chót nộp danh sách của khối, chúng tôi vẫn thiếu một người để khối được công nhận chính thức. Người cuối cùng chúng tôi tìm ra để bổ sung cho đủ 20 người là ông Giáp Văn Thập, chủ trường dạy lái xe ở Tân Định, đắc cử dân biểu ở đơn vị 1 Sài Gòn nhờ những phát biểu ồn ào và mị dân. Dân chủ theo kiểu tư sản, một thứ tự do vô tổ chức, thường sản sinh những phần tử cá biệt như ông Thập. Nhưng vẫn cần ông để có đủ số dân biểu thành lập khối. Thuyết phục ông không phải dễ dàng, lúc đầu ông đặt điều kiện gia nhập khối phải được trao chức Trưởng khối, vận động mãi ông mới chịu hạ yêu sách xuống còn phó trưởng khối. Trong khối còn có một nhân vật đối lập rất được báo chí theo dõi và đưa tin vì ông luôn có những tuyên bố chống chính phủ mạnh mẽ: Trương Gia Kỳ Sanh, dân biểu Bình Thuận. Tôi nhớ ông Kỳ Sanh được mời làm cố vấn khối.
Tôi được bầu trưởng khối vì số dân biểu Phong trào Phục hưng miền Nam đông nhất và mặt khác tôi cũng được sự ủng hộ của các dân biểu Phật giáo. Không công khai tuyên bố nhưng mặc nhiên khối Dân tộc trở thành khối dân biểu đối lập đầu tiên trong quốc hội Sài Gòn, do lập trường chống chính quyền quân sự và chống chiến tranh. Dân biểu Phan Xuân Huy nhiều lần bị các tờ báo thân chính quyền tố cáo là tay sai của cộng sản nhưng anh Huy không hề nao núng. Chúng còn tìm cách bôi lọ anh bằng cách tung tin tại quốc hội và trên báo chí rằng anh bị bệnh liệt dương! Nhưng Phan Xuân Huy đã phản công trở lại ngay trong một phiên họp khoáng đại bằng cách lên diễn đàn công khai đặt vấn đề: Những vị nào bảo rằng tôi bị bệnh liệt dương thử để các bà vợ đến “kiểm tra” tôi thì biết ngay sự thể như thế nào!
Giới quân nhân đang chi phối chính trường miền Nam lúc đó có ý định đưa vào hiến pháp một chương riêng công nhận vai trò lãnh đạo miền Nam Việt Nam của một Hội đồng quân sự tối cao. Số dân biểu đàn em của các tướng Thiệu – Kỳ ra sức vận động cho mục tiêu này. Phản ứng của các dân biểu độc lập và đối lập cũng rất quyết liệt. Cụ Phan Khắc Sửu được bầu làm chủ tịch Quốc hội là một trong những tiếng nói có trọng lượng chống lại ý đồ này của các dân biểu gốc quân nhân và thân chính quyền. Phe quân đội tổ chức nhiều cuộc hội thảo để gây áp lực với quốc hội. Bản thân tôi được mời tham dự một cuộc đối thoại với sinh viên cao học luật khoa mà mục đích là vận động cho sự chấp nhận một Hội đồng quân sự trong bản hiến pháp. Buổi đối thoại này được chủ trì bởi hai vị giáo sư hàng đầu của Đại học Luật là Nguyễn Cao Hách và Vũ Quốc Thúc lúc đó có khuynh hướng ủng hộ phe quân nhân. Cần nói thêm rằng các sinh viên dự buổi đối thoại phần nhiều cũng được chọn theo quan điểm của lãnh đạo trường. Ở phía dân biểu, ngoài tôi còn có dân biểu – bác sĩ Phan Quang Đán. Rất may ông Đán có lập trường giống tôi đối với vấn đề này: bác bỏ một cách thẳng thừng sự hiện diện của Hội đồng quân sự trong hiến pháp. Cuộc đối thoại đôi khi căng thẳng nhưng vẫn giữ được không khí ôn hòa.
Với tư cách trưởng khối Dân tộc, gần cuối nhiệm kỳ quốc hội, tôi cũng được Học viện quốc gia hành chính mời thuyết trình về bản dự thảo hiến pháp cho lớp Cao học (ngạch đốc sự). Điều đáng nói là các sinh viên cao học dự buổi thuyết trình của tôi đều là bạn học cùng khóa với tôi trước khi tôi đi bỏ học nửa chừng. Người chủ trì là giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cũng là nhân vật lãnh đạo của đảng Tân Đại Việt, thân chính quyền Thiệu, chống Cộng và rất có thế lực trong giới quân nhân cấp tá và công chức. Giáo sư Huy còn là một chuyên viên về luật Hiến pháp. Thật không dễ dàng chút nào cho một tay ngang như tôi nói về luật Hiến pháp trước ông thầy dạy môn hiến pháp và với những sinh viên mà đáng lý mình vẫn còn phải ngồi học chung với họ. Nhưng sau gần một năm tham dự không biết bao nhiêu phiên họp của quốc hội, bàn đi bàn lại từng điều của Hiến pháp – được nghe từ những phát biểu chính thống của những chuyên viên luật nhiều kinh nghiệm cho đến những đề xuất, yêu cầu rất thực tế của các dân biểu thuộc các thành phần khác nhau – hầu như tôi được tiếp cận với tất cả các ngóc ngách liên quan đến luật Hiến pháp. Không có câu hỏi hay thắc mắc nào mà không được mổ xẻ trên diễn đàn Quốc hội. Nhờ trải qua cái trường “đại học luật” đặc biệt ấy, tôi đã đối đầu khá suôn sẻ và thuyết phục trước những đồng học cũ của mình tại buổi thuyết trình.
Cũng trong thời gian này, với tư cách dân biểu đối lập, tôi được Tổng hội Sinh viên Sài Gòn mời tham dự cuộc hội thảo về tình hình miền Nam và quốc hội lập hiến tại trụ sở của Tổng hội ở số 4 Duy Tân (nay là Nhà Văn hóa Thanh niên). Tôi nhắc lại cuộc hội thảo này vì đây là cuộc tiếp xúc đầu tiên của tôi với giới sinh viên và cũng là lần đầu tôi gặp linh mục Nguyễn Ngọc Lan. Linh mục cũng là khách mời của Tổng hội. Tại cuộc hội thảo, linh mục Lan tỏ ra rất tả khuynh, thỉnh thoảng tấn công lập trường của tôi lúc đó còn khá ôn hòa. Tôi còn nhớ cha Lan nhìn tôi như “một chàng thanh niên làm chính trị tài tử” sẽ không đủ sức và đủ quyết tâm kiên trì theo đuổi con đường chính trị đối lập của mình. Ngày hôm sau, khi báo chí Sài Gòn, nhất là báo chống Cộng tường thuật cuộc hội thảo, họ lại tấn công chủ yếu vào tôi, tố cáo tôi có lập trường lập lờ.
Từ cuộc gặp nhau lần đó tại trụ sở Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, tôi và linh mục Lan suốt cả chục năm sau này (cho đến ngày 30-4-1975) có rất nhiều cơ hội hoạt động chung với nhau và thời gian đã trả lời cho cha Lan “cái chàng thanh niên có vẻ làm chính trị tài tử” ấy cũng có đủ sự kiên trì để đi đến cùng con đường đã chọn.
… Thời gian hoạt động khoảng một năm trong Quốc hội lập hiến đã tạo điều kiện cho tôi tích lũy được một số uy tín đối với cử tri đã bầu cho mình và cả trong dư luận xã hội nói chung. Tên của tôi xuất hiện thường xuyên trên các báo qua các phát biểu thẳng thắn và mạnh dạn tại quốc hội, dần dần được nhiều giới biết đến và ủng hộ. Báo chí Sài Gòn rất “mặn mà” với các buổi thảo luận và “đấu khẩu” trên diễn đàn quốc hội vì loại bài tường thuật này rất được độc giả ưa chuộng. Phần nhiều các báo đều dành thiện cảm cho các dân biểu đối lập và tỏ ra coi thường các phần tử thân chính quyền mà họ gọi là “gia nô”. Chính sự thuận lợi này trong dư luận và trên báo chí đã giúp tôi sau này tái đắc cử vào Quốc hội lập pháp (1967) mà không cần phải dựa vào một thế lực hay đảng phái chính trị nào.
Tại Quốc hội lập hiến, sau khi dân biểu Trần Văn Văn bị ám sát ở ngã ba Phan Kế Bính và Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) – lúc đó nhiều người cho rằng do bàn tay của trung tá Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc cảnh sát – tôi được Quốc hội bầu làm chủ tịch “Ủy ban điều tra vụ ám sát DB Trần Văn Văn”. Tôi tiến hành cuộc điều tra một cách hăng say và cũng rất thơ ngây! Đầu tiên tôi yêu cầu Tổng nha cảnh sát phải cung cấp cho tôi chứng cứ người ám sát ông Trần Văn Văn là “Việt cộng” như trung tá Loan đã công bố với báo chí. Tiếp đó tôi đòi Tổng nha tổ chức cho tôi buổi gặp riêng với “thủ phạm” Võ Văn Em mà không có sự chứng kiến của bất cứ người thứ ba nào.
Diễn tiến buổi gặp do Tổng nha cảnh sát tổ chức ngay tại Tổng nha có vẻ đáp ứng các yêu cầu của tôi với tư cách là chủ tịch Ủy ban điều tra Quốc hội. Điều mà tôi không hay biết là đại tá Loan đã giăng sẵn cái bẫy ở phía sau. Khi tôi vào gặp nhân vật có tên là Võ Văn En, theo Tổng nha là người đã cầm súng ngắn hạ sát ông Văn và thuốc súng còn tìm thấy trên bàn tay của Võ Văn En lúc bị bắt cách hiện trường không xa, thì đúng như yêu cầu của tôi: trong phòng riêng chỉ có tôi và anh En. Tôi bước vào và ra dấu cho En không nói gì cả và để tôi kiểm tra xem trong phòng có đặt máy nghe lén không. Ngoài một cái bàn và hai cái ghế, trong phòng chẳng có một vật nào khác. Bố bức tường cũng hoàn toàn trống trải. Tôi không thấy chỗ nào cảnh sát có thể đặt máy. Cuộc nói chuyện giữa tôi và anh En có thể tóm lược như sau: En cho rằng anh chỉ lái xe máy chở một người lạ mặt thuê anh, còn người cầm súng bắn ngồi phía sau anh đã tẩu thoát. Về phần tôi, tôi nói với En nếu anh không phải là thủ phạm thì phải cương quyết phản đối, tối sẽ giúp anh làm việc đó. Nếu không phản đối quyết liệt, họ có thể xử kín và thủ tiêu anh.
Về nhà, tôi chuẩn bị một bản tường trình để ngày mai báo cáo với các thành viên trong Ủy ban điều tra và sau đó là trước phiên họp khoáng đại của quốc hội. Thật bất ngờ: sáng hôm sau khi vừa bước vào phòng họp Quốc hội, tôi thấy trên bàn của mỗi dân biểu đều có một tập hồ sơ của Tổng nha cảnh sát với nội dung: “Dân biểu Lý Quý Chung đã xúi giục Võ Văn En phản cung như thế nào?”. Kèm theo những lời lẽ lên án tôi và đòi Quốc hội “phải có thái độ với dân biểu Lý Quý Chung” là một tài liệu ghi lại nguyên văn cuộc nói chuyện của tôi với bị cáo Võ Văn En. Tài liệu ghi lại chính xác cuộc nói chuyện từng lời, điều đó chứng tỏ Tổng nha đã tổ chức ghi băng toàn vẹn cuộc gặp này. Sau này tôi mới biết từ thời đó đã có những thiết bị hiện đại nghe lén, không cần đặt máy thu trực tiếp trong phòng.
Trước sự việc quá bất ngờ, trấn tĩnh một lúc lâu tôi mới tìm ra cách gỡ bí. Trước hết hồ sơ của Tổng nha cảnh sát phổ biến trong phòng họp Quốc hội nhưng lại không có chữ ký cho phép của Chủ tịch Quôc hội, như vậy đây là một tài liệu phổ biến vi phạm nội qui của Quốc hội. Mặt khác Tổng nha cảnh sát đã vi phạm nguyên tắc đã được Ủy ban điều tra đề ra: cuộc gặp chỉ diễn ra giữa hai người và nội dung không được tiết lộ trước khi Ủy ban điều tra có bản báo cáo của mình trước Quốc hội. Khi phiên họp khoáng đại vừa bắt đầu, tôi lên diễn đàn ngay và yêu cầu ông Chủ tịch Phan Khắc Sửu ra lệnh thu hồi tất cả các tài liệu được phân phát bất hợp pháp trong Quốc hội vì không có ý kiến chấp thuận của Chủ tịch. Ông Phan Khắc Sửu đáp ứng ngay yêu cầu của tôi. Ở đây cần nói thêm về con người của cụ Sửu: khi cụ được đưa lên làm Quốc trưởng thay trung tướng Dương Văn Minh, cụ đã tỏ ra là một con người không dễ dàng để cho phe quân nhân nhào nắn. Cuộc đối đầu của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu với Thủ tướng Phan Huy Quát khiến cho chính phủ này phải sụp đổ (và chức vụ Quốc trưởng của ông cũng bị dẹp bỏ luôn!). Trong suốt thời gian cụ Sửu làm Chủ tịch Quốc hội, cụ dã tương đối giữa được tư cách của một nhân sĩ có tinh thần dân tộc và không chịu bán mình cho chính quyền dù luôn phải đối phó với rất nhiều áp lực.
Do sự cố kể trên, Ủy ban điều tra do tôi làm chủ tịch đã tự giải tán để phản đối thái độ “hợp tác không trung thực của Tổng nha cảnh sát”. Thật sự quyết định giải tán này cũng nhằm tránh sự bế tắc mà ủy ban chắc chắn sẽ gặp phải.
Từ khi tôi làm chủ tịch Ủy ban điều tra vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn, đi đâu tôi cũng bị hai cảnh sát chìm theo dõi. Tôi đưa việc này ra Quốc hội và tố cáo trên diễn đàn. Tôi cho đó là một hành động đàn áp tinh thần nhằm vào dân biểu đối lập. Đối phó lại, trung tá Nguyễn Ngọc Loan gửi một công văn cho Quốc hội, giải thích rằng Tổng nha cảnh sát buộc lòng làm điều này là để bảo vệ tính mạng của một số dân biểu có nguy cơ bị Việt cộng ám sát, trong đó có tôi (!). Tổng nha cảnh sát cũng gởi riêng cho tôi một công văn, đặt vấn đề với tôi phải chấp nhận một trong hai biện pháp bảo vệ: Cảnh sát chìm – như đang diễn ra hoặc chính thức nhận hai cận vệ thuộc phòng bảo vệ yếu nhân. Còn nếu tôi từ chối cả hai biện pháp bảo vệ do Tổng nha đề ra thì phải trả lời chính thức bằng văn bản và Tổng nha không còn chịu trách nhiệm về vấn đề an ninh của tôi.
Đây là một cách bắt bí của Tổng nha cảnh sát. Hoặc tôi phải chấp nhận sự theo dõi ngày đêm của họ hoặc có thể trở thành mục tiêu của một hành động mờ ám nào đó mà mình không có quyền kêu ca! Tôi đem việc này hỏi ý kiến cha tôi. Theo cha tôi, việc Tổng nha có theo dõi tôi chẳng phiền hà gì cho lắm vì các hoạt động của tôi đều công khai. Tôi chẳng phải là “Việt cộng nằm vùng” mà cũng không làm việc cho CIA. Ngược lại nếu từ chối sự “bảo vệ” của họ nghĩa là tôi sẽ cung cấp cho họ lý do chính thức phủi sạch trách nhiệm về những gì có thể xảy ra với tôi. Vào thời điểm này, không ai đoán trước được trung tá Loan sẽ ra tay với ai và lúc nào. Cái chết đầy bí ẩn của đại tá Phạm Ngọc Thảo sau cú đảo chính hụt tháng 2-1965- mà nhiều người cho rằng kẻ ra tay là đàn em của trung tá Loan - trong nhiều năm là một ám ảnh đe dọa đối với nhiều giới hoạt động chính trị tại Sài Gòn. Đại tá Thảo bị cảnh sát chìm của trung tá Loan phục kích bắt tại địa phận thuộc một nhà thờ công giáo ở miền Đông, nơi ông đang trốn với sự tiếp tay của cha xứ tại đây. Khi bị bắt, sức khỏe của đại tá Thảo tuy yếu vì bị trúng đạn trong lúc chạy trốn, nhưng tính mạng không hề bị đe dọa. Theo một nguồn tin đáng tin cậy, chính trên chiếc máy bay trực thăng đưa đại tá Thảo về Sài Gòn, các đàn em của đại tá Loan đã ra tay bằng cách bóp vào tinh hoàn đại tá Thảo cho đến khi tắt thở. Lúc trực thăng đáp xuống sân Tổng tham mưu thì đại tá Thảo đã chết. Sự thật như thế nào là một dấu hỏi. Sau này trong hồi kỳ của mình, tướng Nguyễn Cao Kỳ có nhắc đến cái chết của đại tá Thảo nhưng cho rằng ông chết trong tù sau mấy tuần bị giam và bị đánh đập.
Mặc dù chỉ là một cấp thừa hành trong guồng máy chính quyền đứng đầu ngành cảnh sát nhưng trung tá Loan – sau thăng đại tá – tự coi mình là nhân vật thứ hai trong chính quyền của Kỳ, chẳng coi ai ra gì. Các phiên họp nội các do thủ tướng Kỳ chủ trì, đáng lý chỉ có các Bộ trưởng hoặc cấp ngang Bộ trưởng dự nhưng gần như luôn luôn có sự hiện diện của trung tá Loan với khẩu súng “ru lô” mang kè kè bên hông! Có lần trung tá Loan can thiệp thô bạo vào một vụ việc của Bộ kinh tế ngay trong buổi họp nội các khiến lãnh đạo Bộ này đe dọa đưa đơn từ chức, việc này đã gây nên một cuộc khủng hoảng nội các.
Sau này cả dân biểu Quốc hội cũng bị trung tá Loan trực tiếp đe dọa: trong một phiên họp Quốc hội lập hiến (năm 1967), lúc đó tướng Kỳ còn là thủ tướng, trung tá Loan đã xuất hiện trên bao lơn tầng trên của phòng họp (khu loge của Nhà hát) bên hông vẫn đeo khẩu súng kè kè. Trung tá Loan có mặt ở đây theo lệnh của tướng Kỳ nhằm gây áp lực cuộc bỏ phiếu của dân biểu để hợp thức hóa kết quả bầu cử liên danh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ. Từ dưới hàng ghế phòng họp nhìn lên, tôi thấy trung tá Loan đi qua đi lại với vẻ đầy tự tin như thể đang đi bách bộ trong văn phòng riêng của mình. Tôi không phải là người duy nhất phát hiện sự có mặt của ông Loan trên tầng trên, nhiều dân biểu cũng ngước nhìn lên nhưng không ai có phản ứng gì. Rõ ràng đây là một xúc phạm đối với định chế quốc gia dù cho định chế này được giới cầm quyền Sài Gòn dựng lên với ý đồ sử dụng nó như một thứ trang trí dân chủ. Tôi bước ngay lên diễn đàn và đặt vấn đề với chủ tịch Hạ nghị viện Phan Khắc Sửu: “Dân biểu chúng tôi không thể tiếp tục họp dưới áp lực của trung tá Tổng giám đốc cảnh sát, vả lại nội qui của quốc hội cấm mang súng vào phòng họp nếu không có phép của Chủ tịch. Do đó tôi yêu cầu ông Chủ tịch mời trung tá Nguyễn Ngọc Loan rời khỏi phòng họp, nếu không chúng tôi sẽ ngưng họp và chính chúng tôi sẽ rời khỏi phòng họp Quốc hội”. Liền đó Chủ tịch Hạ nghị viện đã công khai yêu cầu trung tá Loan ra khỏi phòng họp và ông Loan không thể làm gì khác hơn là chấp hành lệnh của chủ tịch Hạ Nghị Viện.
Thế là đã có hai lần tôi “đụng đầu” trung tá Nguyễn Ngọc Loan từ cuộc điều tra vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn đến vụ phản đối ông ta xuất hiện tại buổi họp của Hạ nghị viện. Nhưng lần thứ ba, cuộc gặp giữa ông ta và tôi đã diễn ra trong một bối cảnh hoàn toàn khác. Trung tá Nguyễn Ngọc Loan bị Việt cộng bắn gãy chân trong cuộc tổng công kích Tết Mậu thân, nằm trong bệnh viện Grall (nay là bệnh viện Nhi đồng 2). Một đồng viện của tôi cũng thuộc phe đối lập đưa ra ý kiến: bây giờ trung tá Loan đã gãy chân, sắp mất hết quyền lực, đi thăm ông ta lúc này cũng nên lắm. Cần nhắc lại trung tá Loan bị bắn gãy chân chỉ ít ngày sau vụ ông ta tự tay cầm súng ngắm bắn vào đầu một quân giải phóng bị trói tay ra sau lưng và đứng cách ông ta không hơn một mét. Đây là một hành động trái với công ước Genève về tù binh chiến tranh, còn về mặt con người thì mất hết tính người, xảy ra giữa đường phố Sài Gòn hết sức dã man. Tướng Kỳ sau này có những lời biện hộ cho chiến hữu của mình, nhưng hình ảnh về sự kiện nay mau chóng loan truyền trên khắp thế giới đã tiêu hủy cuộc đời chính trị của Nguyễn Ngọc Loan (sau này được thăng cấp đại tá) và cả cái “chính nghĩa” mà người Mỹ cố gắng xây đắp trong cuộc chiến tại miền Nam. Người đã ghi lại và truyền đi hình ảnh khủng khiếp của vụ “hành quyết giữa đường phố” khiến cho cả thế giới xúc động và góp phần cho phong trào phản chiến nổi lên khắp nơi, nhất là tại Mỹ, chính là phóng viên ảnh Eddie Adams của hãng tin AP (Associated Press). Chứng kiến cảnh tượng dã man này còn có một cameraman người Việt Nam tên Võ Sửu, cộng tác cho đài truyền hình Mỹ National Broadcasting Company, có mặt đúng lúc trung tá Loan nổ súng vào đầu người lính Việt cộng. Với bức ảnh này, nhà báo Eddie Adams được trao giải Pulitzer. Nhưng không hiểu sao người ta ít nhắc tới cameraman Võ Sửu.
Khi tôi vào thăm trung tá Loan tại bệnh viện Grall, trong phòng của ông ta có bà Đặng Tuyết Mai – vợ của tướng Kỳ - đã đến trước. Ông Loan nằm trên giường, đắp một chiếc mềm mỏng ngang ngực, nói năng vẫn to tiếng như mọi khi. Ông ta kể cho bà Kỳ nghe: “Tôi là người đầu tiên nhận huy chương mà không mặc quần”. Vừa nói ông ta vừa chỉ phần dưới thân thể của mình để cho những người hiện diện hiểu rằng dưới lớp mềm của ông ta chẳng có gì mặc cả, khi ông ta được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào tận giường bệnh gắn huy chương. Bà Kỳ không thể nín cười sau điều tiết lộ của Nguyễn Ngọc Loan. Đấy là lần cuối cùng tôi gặp ông ta. Hai tháng sau, khi trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đã củng cố cái ghế tổng thống của mình, ông ta liền đưa đại tá Trần Văn Hai lên thay Nguyễn Ngọc Loan (lúc này đã là đại tá) ở chức vụ Tổng giám đốc Tổng nha cảnh sát. Từ đó đại tá Loan chìm vào quên lãng trên chính trường Sài Gòn, thỉnh thoảng chỉ được nhắc tới khi báo chí thế giới đưa trở lại bức ảnh của phóng viên Mỹ Eddie Adams. Tại Mỹ sau 1975, ông Loan gặp nhiều khó khăn trước khi được chấp nhận vào quốc tịch Mỹ do có một số người Mỹ phản đối tư cách của ông Loan bằng cách nêu trở lại chuyện ông hành quyết người lính Việt cộng trên đường phố. Nghe nói khi ông Loan chết, phóng viên nhiếp ảnh Eddie Adams có đến dự đám tang.
Trong cuộc tổng tiến công Tết Mậu thân 1968, phe của phó tổng thống Kỳ chịu thiệt hại khá nặng. Ngoài trường hợp Nguyễn Ngọc Loan bị loại, nhiều đàn em thân cận của ông Kỳ đã bị một máy bay trực thăng chiến đấu của quân đội Mỹ “bắn lầm” làm thiệt mạng 6 sĩ quan và nhiều người bị thương tại một trường người Hoa ở khu vực Chợ Lớn. Theo ông Kỳ, chính tổng thống Thiệu âm mưu với người Mỹ định giết ông. Ông Kỳ còn quả quyết rằng trên chiếc trực thăng đã bắn rocket xuống trường học ở Chợ Lớn có sự hiện diện của đại tá Trần Văn Hai là tay chân thân cận của tướng Thiệu.
… Trở lại thời điểm quốc hội lập hiến (1966-1967), cuối cùng tôi đã đồng ý nhận hai cảnh sát thuộc “phòng bảo vệ yếu nhân” do Tổng nha cảnh sát của Nguyễn Ngọc Loan gửi đến. Rất may mắn, hai nhân viên cảnh sát chìm này biết cư xử đúng cương vị của mình, lễ độ và hợp tác. Chính cách đối xử của vợ chồng tôi cũng tạo được phần nào tình cảm gắn bó giữa hai người đối với gia đình tôi. Mỗi lần “phòng bảo vệ yếu nhân” ở Tổng nha cảnh sát muốn thay hai người mới tôi đều phản đối với lý do: nhận người lạ đến bảo vệ, tôi không an tâm. Hai cảnh sát chìm này: Phan Xuân Trường (25 tuổi) và Nguyễn Văn Bé (20 tuổi) làm cận vệ cho tôi suốt 10 năm, từ Quốc hội lập hiến (1996) cho đến ngày 30 -4-1975! Sau này tôi được biết người đã tạo điều kiện cho hai anh Trường và Bé gắn với tôi lâu dài chính là trung tá cảnh sát Lâm Chánh Bình trong Tổng nha. Trung tá Bình bà con với anh Lâm Phi Điểu là một người bạn thân và là đồng viện của tôi trong Quốc hội lập pháp.
Anh Bé được vợ tôi cho tiền học thêm nghề lái xe để lái chiếc xe riêng của tôi, khi tôi xuất bản tờ báo
Tiếng nói Dân tộc. Còn anh Trường làm thêm công việc liên lạc, thu tiền quảng cáo cho báo. Như thế cả hai đều có thêm một đầu lương phụ giúp gia đình họ. Ngay năm đầu hai người làm việc với tôi, tôi đã chứng minh cho cả hai hiểu rõ: từ nay dù muốn hay không, số phận của họ cũng bị buộc chặt với tôi. Nếu tôi bị ám sát thì kẻ chủ mưu đến từ phía chính quyền chứ không thể từ phía “Việt cộng”. Do các hoạt động chống chính quyền, chống chiến tranh và chống lại sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam của tôi rất dễ dàng xác định phía hãm hại tôi là ai nếu có chuyện đó xảy ra. Và khi tay chân của chính quyền Sài Gòn ra tay nhằm vào tôi thì họ sẽ không chừa hai người cận vệ để đánh lạc hướng dư luận. Như vậy hai anh Bé và Trường phải triệt để cảnh giác nguy cơ có thể đến từ chính cơ quan của mình. Ngồi trên ô tô do Quốc hội cấp cho tôi, hai anh luôn cẩn trọng theo dõi những chiếc xe máy vượt lên hai bên hông ô tô. Buổi sáng họ kiểm tra xe rất kỹ đề phòng gài mìn. Hàng tuần một trong hai người vẫn phải vào cơ quan của họ để báo cáo hoạt động và chuyện đi đứng của tôi. Họ cho tôi biết điều đó. Trong 10 năm sống với tôi, họ cùng chia sẻ mọi sự căng thẳng, khó khăn. Khi tôi mở cuộc họp báo chống chính phủ hoặc “xuống đường” biểu tình, tôi bảo họ ở lại nhà để tránh cho họ khỏi lúng túng trước những tình huống khó xử: không biết phải can thiệp thế nào trước sự đàn áp của các đồng nghiệp cảnh sát nhắm vào người mà mình có trách nhiệm bảo vệ. Suốt thời gian 10 năm tôi chẳng có gì phiền hà về họ. Giữa hai người, lúc đầu, tôi có chút nghi ngờ Trường vì cấp bậc của Trường là trung sĩ cảnh sát, từng được đào tạo ở trại huấn luyện đặc biệt của quân đội Mỹ ở Thái Lan. Nhưng sau ngày đất nước thống nhất, thật vô cùng bất ngờ tôi mới biết Trường lại là một “Việt cộng” nằm vùng. Cả gia đình anh ở Bến Tre đều tham gia cách mạng, bản thân anh từ tuổi thiếu niên đã cầm súng chiến đấu. Bị bắt trong lúc hoạt động tại Sài Gòn, vào trong khám bắt liên lạc trở lại với tổ chức, ra tù anh được tổ chức đưa vào Tổng nha làm cảnh sát, nhưng sau đó mất liên lạc với người giới thiệu, do đó tình cảnh của Trường sau ngày 30-4-1975 không thể tránh lận đận một thời gian. Cố nhà báo Huỳnh Bá Thành, nguyên Tổng biên tập báo Công an TP. HCM đã từng viết giấy xác nhận cho Trường vì trước 1975, anh Huỳnh Bá Thành thường lui tới nhà tôi và hay gặp Trường. Tôi không biết họ có nói gì, bàn gì với nhau vào lúc ấy hay không.
Sau 1975, anh Trường bị “kẹt” trong trại học tập cải tạo một thời gian ngắn và khi trở về anh có thăm hai vợ chồng tôi. Lúc đó anh mới nhắc lại một sự việc xảy ra trước 1975. Số là trong thời gian anh Nguyễn Hữu Thái, sinh viên kiến trúc, bị cảnh sát Sài Gòn săn lùng, anh đã trốn ở tầng 3 trong nhà tôi cả năm (từ 1974-1975). Ban đầu, anh Thái xin “tá túc” ở chùa Ấn Quang nhưng Thượng tọa Thích Trí Quang có mời tôi đến và cho biết sự theo dõi rất chặt chẽ của cảnh sát nên không thể để anh Thái ở chùa. Thượng tọa Trí Quang gợi ý tôi đưa anh Thái trốn trong “Dinh Hoa Lan” của đại tướng Dương Văn Minh. Nhưng ở đây đã có số người “lánh nạn” khá đông: ông Nguyễn Văn Cước, một nhà hoạt động công đoàn, cựu dân biểu Dương Văn Ba, nhà báo Nguyễn Đình Nam. Không còn cách nào khác, tôi đã nhận che giấu anh Thái tại nhà mình.
Hai cảnh sát chìm được tổng nha gửi “bảo vệ” tôi, anh Trường và anh Bé, dĩ nhiên cũng “ngửi” thấy có người lạ trên tầng 3. Anh Trường kể lại: một hôm anh Bé báo cáo với anh Trường (là tổ trưởng) rằng anh vừa lục thấy trong phòng, nơi anh Thái trốn, có thư chúc Tết của Hồ Chủ Tịch. Anh Bé phát hiện việc này khi anh Thái vào buồng tắm. Anh Bé có ý định báo cáo với “phòng bảo vệ yếu nhân” – cơ quan của mình. Anh Trường rất lúng túng, nhưng nhanh chóng nghĩ ra cách đối phó. Anh khuyên anh Bé “không nên hấp tấp, anh Thái là một sinh viên, những hoạt động như thế này chẳng có gì thật ghê gớm. Nếu mình báo cáo dĩ nhiên ông Chung sẽ được Tổng nha tra hỏi và ông sẽ biết sự việc này. Phản ứng của ông chắc chắn là trả mình về Tổng nha. Mình sẽ mất một đầu lương không và không chắc tìm được một chỗ yên ổn như ở đây”. Theo anh Trường thì mình nên theo dõi tiếp xem sao rồi hãy quyết định cũng không muộn”. Thế là anh “trung sĩ – cảnh sát viên” Phan Xuân Trường đã âm thầm cứu anh Thái khỏi bị rơi vào tay cảnh sát Sài Gòn mà anh Thái không hề hay biết.
...Trong thời gian làm dân biểu Quốc hội lập hiến, sau khi kết thúc nhiệm vụ chủ tịch Ủy ban điều tra vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn, tôi được bầu tiếp làm chủ tịch Ủy ban cứu xét các vụ án chính trị. Ủy ban này thật sự không giở lại từng hồ sơ các vụ án chính trị xảy ra dưới chế độ Diệm đàn áp Phật giáo, hoặc sau 1 -11- 1963 đến phiên những người Công giáo và những người thân chế độ Diệm bị tù tội và tịch thu tài sản. Chủ trương của Quốc hội lập hiến là ra một đạo phật “đại xá” cho cả hai phía, kể cả việc hoàn trả tài sản. Quốc hội lập hiến đúng ra chỉ có một Ủy ban: Ủy ban dự thảo Hiến pháp do một luật sư đứng đầu. Còn một Ủy ban kia (Ủy ban điều tra vụ ám sát và Ủy ban cứu xét các vụ án chính trị) được thành lập nhằm đáp ứng những yêu cầu đặc biệt.
Để soạn thảo bản dự thảo luật “Cứu xét các vụ án chính trị”, tôi mời chuyên viên luật Vương Văn Bắc – luật sư và là giáo sư Học viện quốc gia hành chính. Trong lúc soạn thảo dự luật này, tôi có tiếp một người khách đặc biệt tại nhà: Ông Nguyễn Văn Bửu, chủ đoàn tàu buôn lớn nhất Sài Gòn và là nhà kinh tài nổi tiếng của gia đình Ngô Đình Diệm. Ông đề nghị, thông qua một người thân của tôi, trao cho tôi một số tiền lớn để tôi can thiệp trả lại tài sản cho ông. Lúc này tôi không còn ở cái phòng thuê chật hẹp hôi tanh mùi bùn quanh năm bên kinh Nhiêu Lộc và đã dọn về một căn phố tuy khá hơn trên đường Nguyễn Tri Phương, bề ngang 3 mét, bề dài 12 mét nhưng vào mùa nóng không khí trong nhà không thua lò nướng bánh mì. Ông Bửu đến nhà tôi vào một buổi trưa như thế. Tôi trả lời ông ngắn gọn: “Ông yên tâm về nhà. Quốc hội sẽ ra một đạo luật rất có thể bao gồm cả trường hợp của ông. Chuyện của ông được hay không được là do đạo luật đó chứ không thể do sự can thiệp riêng của tôi”. Vợ tôi ở phòng trong nghe rất rõ đề nghị của ông với số tiền rất lớn và cũng nghe sự từ chối của tôi. Khi ông Bửu về, Quỳnh Nga đã vui vẻ tán đồng thái độ của chồng mình.
Cũng trong thời gian làm chủ tịch Ủy ban cứu xét các vụ án chính trị, tại văn phòng của mình ở Quốc hội tôi đã tiếp một người khách khác cũng khá đặc biệt. Khi cô thư ký đưa cho tôi phiếu xin tiếp, thấy tên, tôi đã nhớ ngay con người này. Ông là cựu trung tá tỉnh trưởng Ba Xuyên (Sóc Trăng) – thời ba tôi làm phó tỉnh trưởng hành chính tại đây. Ông cựu trung tá này là “con cưng” của ông Diệm, là một thứ hung thần đối với người dân địa phương những năm 1962-1963. Cha tôi từng là nạn nhân của ông ta. Có lẽ do không thể tự do thao túng vấn đề tiền bạc và ngân sách tỉnh nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của phó tỉnh trưởng hành chính, tức cha tôi, nên ông tìm đủ mọi cách hãm hại và loại trừ cha tôi. Ông gửi nhiều báo cáo mật về Bộ nội vụ ở Sài Gòn tố cáo cha tôi có quan hệ với “Việt cộng”. Dĩ nhiên đây là chuyện hoàn toàn bịa đặt. Cha tôi tình cờ biết được việc này nhờ bạn bè ở Bộ nội vụ tiết lộ với ông. Đám cưới của tôi tổ chức tại Ba Xuyên năm 1962 có vợ chồng trung tá tỉnh trưởng này dự. Cho nên khi ông ta vừa bước vào phòng, tôi nhận ra ngay. Ông ta già hẳn đi, không còn cái vẻ tự mãn và hách dịch của năm năm về trước. Chuyện bể dâu thật đáng sợ. Con người toan tính hãm hại cha tôi đang ngồi trước mặt tôi. Ông không dám nhìn thẳng tôi và rụt rè ngồi xuống ghế. Ông trình bày một mạch trường hợp ông bị bắt, giam cầm và tịch thu tài sản sau khi chế độ Diệm sụp đổ. Nguyện vọng của ông là được cứu xét xóa án và hoàn trả tài sản. Tôi không muốn kéo dài không khí căng thẳng cho ông, liền mở lời: “Có phải ông là trung tá HMT? Tôi là con trai của Lý Quí Phát. Chắc trung tá còn nhớ, trung tá có dự đám cưới của tôi. Tôi thông cảm trường hợp của trung tá nhưng tôi không có thẩm quyền can thiệp cho từng trường hợp. Sẽ có một đạo luật ra đời giải quyết chung các trường hợp như của trung tá”. Có lẽ ông ta không ngờ người con của nạn nhân mà ông từng ra tay hãm hại lại tiếp ông đàng hoàng như thế. Tôi có kể lại cho cha tôi nghe cuộc gặp gỡ này, cha tôi nói “Con xử sự như vậy là đúng”.
Quốc hội lập hiến kéo dài một năm đã cung cấp cho tôi một môi trường học tập đấu tranh chính trị tại nghị trường và từ diễn đàn này, tôi cũng có cơ hội bày tỏ công khai qua mạng lưới báo chí Sài Gòn các quan điểm của mình đối với chính quyền, đối với các vấn đề dân chủ, chiến tranh, hòa bình v.v… Vào thời điểm này, báo chí Sài Gòn chưa bị chính quyền kiểm soát hoàn toàn vì giữa tướng Kỳ và tướng Thiệu vẫn chưa ngã ngũ ai là người nắm trọn quyền hành. Cả hai đều còn trong tư thế chờ đợi trước cuộc chạy đua giành chức tổng thống sẽ diễn ra. Thực tế cuộc chạy đua ấy bắt đầu sớm hơn ngày bầu cử chính thức. Nó diễn ra ngay sau khi hiến pháp được Quốc hội biểu quyết và trọng tài tối cao cho vòng sơ tuyển này không ai khác hơn là người Mỹ. Nói cách nào đó, cuộc bầu tổng thống ở miền Nam diễn ra hai vòng. Vòng đầu ở hậu trường trong bóng tối mới mang tính quyết định. Ứng cử viên được người Mỹ chọn đương nhiên sau đó sẽ đắc cử tổng thống.
Khi Quốc hội lập hiến hoạt động được ít tháng, tôi đã phải có một quyết định liên quan đến mối quan hệ giữa tôi và Phong trào Phục hưng miền Nam (PTPHMN), Kỹ sư Võ Long Triều, đứng đầu PTPHMN, thấy rằng ông không thể lèo lái khối Dân tộc như ý muốn của mình nên có ý định thay tôi và đặt vào vị trí trưởng khối Dân Tộc một dân biểu khác của PTPHMN trung thành với ông. Tôi đã bác bỏ ý kiến này vì hai lý do: 1. Khối Dân tộc được lập không gồm duy nhất các dân biểu PTPHMN, số đông ngoài tập hợp này chủ yếu do cá nhân tôi vận động. 2. Mặt khác, do qui tụ nhiều thành phần dân biểu khác nhau, khối Dân tộc không chấp nhận sự chi phối của riêng một tổ chức chính trị nào.
Sự bất đồng giữa tôi và ông Triều chính thức nổ ra sau sự kiện này. Hơn nữa sự thiếu thuyết phục về mặt lý tưởng của PTPHMN đã khiến tôi quyết định tách ra khỏi phong trào này – đó cũng là tổ chức chính trị duy nhất mà tôi có dính líu trong suốt cả thời kỳ hoạt động trước năm 1975. Nó không để lại cho tôi một dấu ấn nào vì thật sự nó không vạch được đường hướng nào đáp ứng hoàn cảnh đất nước, mà theo tôi đây cũng chỉ là một nhóm áp lực nhằm gây thanh thế chính trị cho cá nhân mà thôi. Những con người đầy thiện chí có mặt trong Chương trình Phát triển quận 8 (một chương trình chủ lực của PTPHMN) giành được sự ủng hộ của dân chúng địa phương chủ yếu do các hoạt động xã hội của chính bản thân họ như bác sĩ Hồ Văn Minh, anh Hồ Ngọc Nhuận… Tuy nhiên tôi không thể phủ nhận ông Võ Long Triều là người đã có một ảnh hưởng khá lớn trong sự khởi đầu bước đường chính trị của tôi.
… Thật sự không dễ dàng cho một thanh niên như tôi tự mò mẫm tìm con đường đi giữa một chính trường Sài Gòn cực kỳ hỗn loạn. Các đảng phái mọc như nấm, có đến hàng trăm bảng hiệu, có nhiều đảng chỉ vài người. Tình hình này khiến cho đảng phải ở Sài Gòn trong những năm 60 và 70 trở thành một trò hề, bị báo chí và dư luận thường xuyên giễu cợt. Tôi tự vạch con đường đi cho mình với một thứ ánh sáng duy nhất xuất phát từ con tim: đó là lòng yêu nước rất đơn sơ với mong muốn Tổ quốc của mình được độc lập, hòa bình và thống nhất. Trước mắt, sự can thiệp của người Mỹ phải chấm dứt, người Việt Nam yêu thương nhau và nước Việt Nam phải là của người Việt Nam. Thái độ chính trị của tôi trong suốt những năm tháng đất nước chiến tranh được chọn lựa và không ngừng điều chỉnh theo tiêu chí rất chung chung như thế, “bạn – thù” cũng được căn cứ như thế để nhận diện. Tôi không có một ngọn đuốc lý tưởng nào thật cụ thể soi rọi. Khi tôi mới bước vào lãnh vực chính trị và trở thành dân biểu Quốc hội lập hiến, dù sớm chọn chỗ đứng đối lập với chính quyền Sài Gòn nhưng lúc đó tôi vẫn tự coi mình thuộc về hàng ngũ “quốc gia”. Nhưng từ Quốc hội lập pháp kỳ 1 (Hạ nghị viện 1967-1971), chỗ đứng chính trị của tôi chuyển dịch vào giữa, được công khai hóa với bài xã luận ký tên của mình trên báo
Tiếng Nói Dân Tộc nói về thành phần những “người Việt cô đơn”, “người Việt đứng giữa”, không đứng về phía chế độ Sài Gòn nhưng cũng không đứng về phía người cộng sản. Tôi không tự coi mình thuộc thành phần “quốc gia” nữa vì những năm tháng hoạt động trong lòng chế độ Sài Gòn, tôi đã nhận ra đó là một chế độ không đại diện cho nhân dân miền Nam, phản dân chủ và hoàn toàn không có khả năng bảo vệ chủ quyền đất nước. Đáng nói hơn nữa, đó là một chế độ hiếu chiến, không hề tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho đất nước. Tôi cũng không đứng về phía cộng sản bởi lý do đơn giản: gần như tôi không biết gì về người cộng sản. Nhưng từ năm 1971 trở về sau, sự chọn lựa chính trị của tôi lại tiếp tục chuyển dịch: tham gia nhóm chính trị do đại tướng Dương Văn Minh đứng đầu. Cùng với nhóm, chúng tôi chọn lập trường: “Nếu có chính phủ 3 thành phần theo Hiệp định Paris thì nhóm ông Minh sẽ hoạt động trong cương vị thành phần thứ 3, nhưng sẽ liên kết với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTDTGPMN) chứ dứt khoát không liên kết với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)”.
Đó là sự chuyển dịch về thái độ chính trị do những thực tế diễn tiến của đất nước, là kết quả của sự đối chiếu lập trường chính trị, nhất là lập trường chiến tranh và hòa bình giữa các bên. Đây hoàn toàn không phải là sự thay đổi lập trường vì thấy rằng ai là người sắp sửa chiến thắng. Trước ngày 30-4-1975 một vài tháng, vẫn có nhiều người không đoán được ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam và đoán được nó sẽ kết thúc như thế nào. Huống hồ trước đó hai, ba năm! Chuyển dịch lập trường sang hướng tả, nhiều anh em trong nhóm Dương Văn Minh từ năm 1971 ý thức rất rõ rằng mình phải sẵn sàng chấp nhận các đòn đàn áp và triệt tiêu từ phía chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Tôi còn nhớ vào khoảng năm 1974, tình hình gần như bế tắc đối với giới thanh niên trí thức tiến bộ, kể cả các phần tử đối lập, tôi có gặp anh Dương Văn Ba lúc đó đang “tị nạn chính trị” trong Dinh Hoa Lan của tướng Dương Văn Minh, bàn chuyện tìm cách liên lạc với MTDTGPMN và chọn hẳn con đường hoạt động bí mật. Tôi thừa biết nếu chế độ Thiệu đứng vững đến năm 1975 và tổ chức bầu cử Hạ nghị viện lần ba thì tôi sẽ không có đất sống ở cái đất Sài Gòn này. Nhất định tôi sẽ bị chế độ Thiệu xóa sổ!
Nhưng cả tôi lẫn anh Ba chẳng ai biết cách nào để liên lạc với MTDTGPMN.