Đã khuya lắm. Gulliver mở bình nước, ngửa cổ nuốt một nắm thuốc viên của anh, rồi để mặc cho muỗi cắn. Mặt và hai tay anh, bôi đen, đều bị đốt sưng cả, lớp sơn ngụy trang không nghĩa lý gì với đàn muỗi đói.
Anh nằm giữa đám cỏ cao um tùm bên rìa phi trường, một phía là bãi đậu trực thăng, phía kia là dãy nhà tiền chế dành cho các phi công có gia đình của Không lực Việt Nam Cộng Hoà. Nếp sống của những viên phi công trẻ Việt Nam chẳng hơn bộ binh là mấy.
Cứ khoảng mươi phút anh lại ngóc đầu lên, quan sát căn nhà áp chót và người lính địa phương quân canh giữ các máy bay trực thăng. Gã lính nằm dài trên chồng bao cát cách anh chưa đầy hai chục thước, đã ngủ gục từ gần một tiếng đồng hồ. Ánh đèn trong căn nhà đã tắt lúc đúng nửa đêm, trước đó khoảng bốn mươi phút.
Căn nhà áp chót là nhà trung úy Cảnh. Thực ra Gulliver có thể tìm bất cứ viên phi công nào để đạt mục đích của mình, nhưng anh vui thú mà tìm đến anh bạn, viên phi công lái chiếc trực thăng tải thương trong Chiến Gịch Bắt Chó. Anh đã gọi điện thoại cho Trung tâm phi vụ của không quân và được cho biết ngay tên và địa chỉ Cảnh.
Ba tiếng đồng hồ sau đó, Gulliver vẫn nằm im lìm trong màn đêm, mặc cho muỗi cắn, chỉ thèm một điếu thuốc lá. Mấy viên thuốc đã ngấm, khiến anh tỉnh như sáo, và hai tai anh không bỏ sót tiếng ngáy nào của người lính gác, mặc dầu trí anh vùn vụt cả trăm ý nghĩ -- nghĩ về Sally, về Như, về Cameron, Đặng, về tương lai vô định của anh.
Bốn giờ sáng, anh bắt tay vào việc. Anh đến bên người lính gác vẫn ngủ say, dùng bá súng của gã đập gã bất tỉnh. Anh lấy thanh K cắt áo gã, nhét nắm vải vào miệng gã, rồi dùng áo và đai lưng của gã trói tay chân gã lại. Anh đặt gã nằm xuống đất, chất bao cát lên người, chỉ chừa một khe trống cho gã thở.
Anh băng qua một cái hào và con đường trước dãy nhà, và thử mở cửa trước. Anh Hàng Cát, điều lạ lùng, rất thường gặp cửa không khóa. Nhưng lần này không thế. Anh vòng ra sau, thử mở cửa sau. Cũng khóa kín. Anh thử mở từng cửa sổ -- hai đằng trước, hai đằng sau, và hai mỗi bên hông -- nhưng tất cả đều đóng kín, kể cả cửa gắn máy điều hòa không khí. Trung úy Cảnh quả là người cẩn trọng.
Gulliver dừng lại suy nghĩ. Chắc chắn không thể trổ mái xuống được với loại nhà tiền chế này. Anh chỉ còn cách đào dưới đất mà vào.
Anh trở lại bên cửa sổ gắn máy điều hòa không khí, cố nhìn bên trong. Một chút ánh trăng lọt vào phòng, và một ngọn nến leo lét trong một góc. Đủ cho anh thấy đó là phòng khách và không có ai.
Tiếng máy chạy ù ù khiến công việc dễ dàng cho Gulliver. Anh quỳ gối xem xét mặt đất phía dưới cái máy : đúng như anh đoán, đất ở đây mềm, nhão nhoẹt vì những giọt nước liên tục từ máy nhỏ xuống. Gulliver nở nụ cười trong bóng đêm, rút thanh K bắt đầu đào.
Vách nhà bằng tôn dày chỉ hơn một phân và chôn xuống đất sâu không tới ba mươi phân. Gulliver chỉ mất hai mươi lăm phút là đào xong một cái hố đủ rộng, chui qua và đặt chân vào trong phòng.
Anh đứng yên một lúc, nghe ngóng, quan sát. Phòng có hai cửa, dài khoảng hai phần ba căn nhà, và có vẻ được dùng vừa làm phòng khách vừa làm phòng ăn. Đồ đạc ít ỏi, một tràng kỷ, hai ghế, một bàn ăn. Ngọn nến trong góc cắm trên một bàn thờ Phật, và phía trên lại làmột bức tranh Chúa Cứu thế. Trung úy Cảnh quả là người vô cùng cẩn trọng.
Gulliver mở một cửa, bước qua. Một phòng ngủ nhỏ chật cứng ba cái giường con. Trên mỗi giường một đứa bé say ngủ. Anh trở lui, qua phòng bên kia. Trung úy Cảnh và bà vợ nằm bên nhau trên một cái giường rộng. Người đàn bà cuộn tròn, xây mặt vào bên trong. Cảnh nằm ngửa. Ngay trên đầu giường treo ảnh tướng Nguyễn Cao Kỳ, thánh bổn mạng của Không lực Việt Nam Cộng Hoà.
Gulliver rút thanh K, kề ngay họng Cảnh, tay kia bịt miệng viên phi công.
Trung úy Cảnh mở choàng mắt, ú ớ; Gulliver nhấn nhẹ lưỡi dao, lắc đầu, thì thào một tiếng "suỵt". Người đàn bà cựa mình nhưng không tỉnh giấc.
Cảnh hiểu ngay tình thế; hai mắt trợn dộc kinh hoàng, nhưng y cũng gắng gượng ra dấu tuân phục. Thanh K vẫn nhấn nhẹ nơi họng Cảnh, Gulliver thôi bịt miệng y, nắm tóc y, từ từ kéo y dậy và rời khỏi phòng ngủ. Hai người cứ thế bước ra đường, qua cửa trước.
Gulliver dẫn tù nhân của mình lại chỗ người lính gác vùi dưới đống bao cát. Anh buông viên phi công, cúi nhặt khẩu súng của người lính. Cảnh đứng như phỗng một lúc lâu, rồi hai đầu gối run lẩy bẩy, y ngồi bệt xuống cỏ, ngó sững hai chân mình, như thể hai chân của ai khác.
Gulliver bảo nhỏ, dùng tiếng Anh : "Sợ quá, phản ứng như thế là thường."
Cảnh lét mắt nhìn anh, nhưng không nhận ra anh dưới lớp ngụy trang. Y ấp úng : "Anh...anh là ai? Anh...muốn gì?"
"Tôi là Gulliver, và tôi muốn anh lái trực thăng cho tôi như anh đã hứa đó...anh bạn!"
Hai người lên chiếc trực thăng của Cảnh, và bay lên lúc chân trời bắt đầu ửng sáng. Họ không bị rắc rối xin phép nào; khi Gulliver bảo Cảnh gọi đài kiểm soát, cả hai mới biết vào giờ đó chẳng có mặt một ai.
Chuyến bay đi Mộc Hoá mất đúng bốn mươi phút. Gulliver ra lệnh cho Cảnh tắt máy truyền tin, bay ngược dòng sông và đáp ngay xuống bãi đậu trong Sứ quán.
Cánh quạt chưa ngừng quay, hai người lính Nùng mặc đồ rằn ri, tay lăm lăm khẩu Uzi, đã tới bên cửa. Một chiếc jeep phóng tới, thắng gấp rút giữa đám bụi mù, lúc Gulliver và Cảnh đặt chân xuống đất.
Người nhảy ra khỏi xe cao lớn khó ai bằng. Bàn tay khổng lồ của y nắm một khẩu súng săn cưa ngắn nòng. Có vẻ y mới choàng thức giấc; y chỉ mặc quần, bộ ngực lực lưỡng để trần, chân không giày không dép. Ánh nắng sớm mai như nảy lên trên nước da đen bóng của y.
Y nhìn Gulliver mặt bôi đen sì, nhìn Cảnh trong bộ đồ ngủ, quay lại nhìn Gulliver kỹ hơn. Rồi y toác miệng cười : "Ông đến sớm quá, ông Jake. Màn tuồng tuần tới mới bắt đầu, ông ơi."
Gulliver cũng cười, đáp : "Chính anh là một màn tuồng rồi dó, Lester."
Gã không lồ lại cười. "Hì, ai bảo anh phá tôi đang ngủ ngon."
Gulliver chỉ Cảnh : "Giới thiệu với anh đây là trung úy Cảnh của Không lực Việt Nam." Quay qua viên phi công mặt mũi ngơ ngẩn, anh nói : "Đây là trung úy Monroe, Hải quân Hoa Kỳ."
Monroe hất hàm ra hiệu cho hai người lính Nùng hạ súng xuống, trở về bót gác.
Gulliver nói : "Anh Cảnh đây chưa kịp ăn sáng với bà vợ yêu. Anh bằng lòng tôi cho anh ta về chứ?" Monroe gật đầu. Gulliver vỗ vai viên phi công, bảo : "Cám ơn trung úy cho đi nhờ nhé." Anh cùng Monroe bước ra xa.
Cảnh ngần ngừ, rồi leo lên trực thăng. Y mở máy, và, dẫu chỉ một mình, y cũng la bằng tiếng Anh -- "Tôi tới đây!" -- đúng như được huấn luyện tại cort Rucker, tiểu bang Alabama. Hai người Mỹ cười với nhau, nhìn chiếc trực thăng bốc cao.
Cảnh bay xa rồi, Monroe quay lại ngó Gulliver một cách ngờ vực, hỏi : "Chuyện chi mà anh đến vào giờ này?"
Gulliver đáp : "Tôi cố bắt kịp mấy người chỗ tôi. Họ còn đây chứ?"
Monroe lắc đầu. "Hơ. Họ dậy còn sớm hơn anh nữa kia. Họ đi cũng khoảng nửa giờ rồi."
"Bậy quá! Họ dùng trực thăng hay là giang thuyền?"
"Giang thuyền. Sao vậy?" Monroe lại nhìn anh ngờ vực.
"Tôi phải đuổi kịp họ. Quan trọng lắm. Họ đi đâu?"
"Hà, anh mà không biết sao? Có cha nội Đặng của anh đi với họ mà. Cha người Việt năm-bờ-oăn của anh."
"Tôi không biết thật. Họ đi đâu?"
Monroe lại lắc đầu. "Anh vào mà hỏi sếp của tôi."
"Anh cho tôi hay được mà, Lester."
"Coi, nếu quả anh không biết thì tôi đâu thể bảo anh được. Thằng cha Steelman đểu lắm, thế nào nó chẳng chơi tôi chết luôn."
"Phải chi tôi có thể bảo anh là, nếu anh không nói, tôi sẽ chơi anh chết luôn. Nhưng tất nhiên anh bự thế kia, đời nào anh tin."
Monroe cười, gật đầu.
Gulliver làm thinh một lúc, rồi nói : "Nghe này, Lester, tôi không muốn tôi phải kể và anh phải nghe đủ chuyện lẩm cẩm. Nhưng thực tôi cần đuổi kịp họ, và tôi không thể gặp sếp của anh. Dù thế nào cũng chỉ giữa anh với tôi thôi. Thám báo của anh và của tôi từng hoạt động chung nhiều lần, anh dư biết có thể tin tôi hay không. Lần này tôi yêu cầu anh tin tôi."
Monroe nhíu mày nhìn anh một hồi lâu. Đoạn y cất giọng ồ ồ nói : "Hô theo tôi : Lính Mũ Xanh ăn cứt!"
"Hả?"
"Hô đi : Lính Mũ Xanh ăn cứt!"
"Lính Mũ Xanh ăn cứt!"
"Người Nhái là nhất!"
"Người Nhái là nhất!"
"O.K.," Monroe cười hì hì. "Giờ thì tôi giúp anh."
***
Địa điểm đổ bộ là mũi nhọn một cù lao bên rìa một cái đầm lớn, xuôi dòng mất một tiếng đồng hồ. Mặt trời đã lên cao phía đông khi chiếc xuồng chở Gulliver ghé vào cạnh chiếc giang thuyền bóng loáng đã đưa bọn Steelman tới đây hồi sớm mai.
Gulliver thở ra nhẹ nhõm. Monroe thương lượng với viên chỉ huy đội giang thuyền Việt Nam, và đã chỉ mượn được cho anh chiếc xuồng cũ kỹ này, mũi gắn một khẩu đại liên RM ly, giữa trí một khẩu 3M ly. Anh mong nhiều mã lực chứ không cần gì hỏa lực, nhưng đầu máy xuồng này gắn vào máy xén cỏ thì hợp hơn. Cuộc hành trình đã tưởng như không bao giờ dứt. Đã thế, thủy thủ đoàn bốn người -- phần lớn từng là hải tặc trước khi bị nắm cổ nhét vào hải quân -- suốt dọc đường không thôi lấm lét nhìn anh, cứ như là chỉ muốn hạ thủ anh, lột đồng hồ, rồi liệng xác xuống sông.
Steelman, Swain và Đặng đã dùng một giang thuyền ngon lành, chế tạo tại Mỹ, phía sau gắn súng phóng lựu M-TM, phía trước trí súng phun lửa, không kể mấy khẩu đại liên. Năm thủy thủ người Việt nằm ườn trên boong, và viên cố vấn Mỹ của họ, một trung úy hải quân, ngồi chồm hổm đại tiện trên bờ, cách đó chừng năm mươi thước.
Gulliver không thể đợi y được. Anh nhảy lên bờ, hỏi một thủy thủ của chiếc giang thuyền: "Họ đi hướng nào?"
Gã kia lười biếng chỉ lùm cây rậm rạp um tùm phía trong. Gulliver quan sát rồi nhận ra lối mòn mới xẻ. Anh lập tức chạy vội tới.
Monroe đã cho anh hay cù lao này dài khoảng mười cây số, cây cỏ rậm rạp như lớp lớp tường thành, mảnh đất rắn rộng nhất vùng này vào mùa khô. "Đúng là chỗ ẩn náu lý tưởng cho tên đại tá Vixi muốn về hồi chánh," Monroe bảo, "nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao họ không dùng trực thăng. Ù tới, ù đi, có phải gọn nhẹ không? Lạ nữa là họ chẳng mang máy truyền tin. Ai thiết kế mà tay mơ thế? Phải cha trung úy bộ binh bộ tịch đó không?"
Gulliver ước tính anh chậm hơn họ cả hơn tiếng đồng hồ. Anh chỉ có cách làm sao chạy thật nhanh mới hy vọng bắt kịp họ. Được cái lối mòn đã xẻ và tương đối dễ đi. Anh cắm đầu chạy, không còn kịp nghĩ ngợi gì nữa, chỉ biết trông vào hai tai mình để ứng phó mọi tình thế.
Steelman đã nhờ Monroe chỉ dẫn đường lối ngắn nhất, cho nên Gulliver cũng phỏng đoán được Dao Cạo dự tính giở trò nơi nào. Đi sâu vào đất liền khoảng năm cây số sẽ tới một vùng cỏ cao ngang lưng, một cù lao trong một cù lao, và "kẻ đào ngũ" được cho biết là ẩn trong đó.
Cánh đồng cỏ đó dài khoảng ba trăm thước, và Gulliver không thể rõ đích xác Steelman sẽ ra tay chỗ nào, anh hy vọng anh sẽ đợi cho đến lúc họ băng qua cánh đồng, đợi cho đến phút cuối cùng. Dao Cạo không thể ngờ có anh ở đấy.
Gulliver chạy tận lực. Mặt trời đã lên cao và nóng kinh khủng, nóng như ngày họ đi vòng quanh Núi Giải.
Mồ hôi xối xả trên mặt anh, và lớp sơn ngụy trang chảy ròng ròng trên hai tay và hai bàn tay anh, tạo nên đủ hình thù quái dị.
Hai chân anh càng lúc càng thấm mỏi, nhưng trí anh lại càng tỉnh táo. Rừng cây không cao lắm nhưng dày đặc. Chắc chắn họ không thể đi nhanh được. Anh phấn chấn hơn, tin tưởng thế nào cũng đến kịp.
Tiếng súng nổ khiến anh dừng phắt lại. Ba tiếng súng liên tiếp -- póp-póp-póp -- rồi thêm một tiếng nữa. Khi tiếng póp thứ tư và cuối cùng vọng tới tai anh, đầu óc anh bàng hoàng chỉ còn một ý nghĩ, một ý nghĩ cũng dày đặc như rừng cây : thế là xong, Đặng chết rồi.