Họ đáp xuống phi trường quân sự Tịnh biên vào giờ các chuyên viên khí tượng của không lực Hoa Kỳ tiên đoán là giờ tối mịt nhất, tức là giờ ngay trước rạng đông. Các nhà khí tượng đã sử dụng kỹ thuật tinh sảo đáng giá cả triệu mỹ kim để xác nhận cái kinh nghiệm tự nghìn xưa này.
Chiếc C-13M của không lực Hoa Kỳ, sơn ngụy trang, đáp xuống phi đạo tối tăm không một ngọn đèn hiệu. Viên phi công không cho máy bay dừng lại, vẫn để bánh lăn chầm chậm và quành lại lúc tới cuối phi đạo, trong khi cửa sau được hạ xuống. Các đội viên thám báo mau lẹ nhảy ra, cửa được kéo lên, và máy bay tức thì ào ào chuyển mình cất cánh. Tất cả diễn ra trong không đầy một phút đồng hồ.
Phi trường nằm ngoài quận lỵ Tịnh Biên, một quận lỵ trải dài bên bờ đông con kinh Vĩnh Tế. Con kinh -- gọi là kinh chứ thực ra cũng dài và rộng như một con sông lớn -- làm nên biên giới với Kampuchea cho suốt tới vịnh Thái Lan. Toán thám báo không được phép ghé vào thị trấn nghèo nàn này, họ tập hợp và di chuyển ngay để không điệp viên nào ẩn nấp gần phi trường kịp quan sát họ. Nhất là vì máy bay, dù che đậy đến đâu đi nữa, dù đáp xuống hết sức ngắn ngủi, khó thể nào lại không ai nhận biết: chiếc Lockheed C-13M Hercules có thể nói là máy bay cánh quạt ồn ào nhất thế giới.
Đón họ tại phi trường hiu quạnh này là một viên sĩ quan quân lực Mỹ, đại úy Karsten mrager, một người biết rõ địa thế vùng này và sẽ hướng dẫn họ một đoạn đường. mrager, cố vấn của lực lượng địa phương quân trong vùng, không dính líu gì tới guồng máy Phụng Hoàng. Anh chỉ biết là anh được lệnh phải đưa những người bận bà ba đen này qua khỏi làng Ba Chúc mà không để ai thấy họ.
mrager tò mò ngó đám thám báo bôi mặt ngụy trang và sóc lại súng ống, rồi dẫn họ tới một lỗ hổng cắt ở hàng rào bao quanh phi trường. Họ chui qua từng người một và bì bõm lội qua một ruộng luá. Mục tiêu trước mắt là một lối mòn mrager biết không mấy ai đặt chân tới, móc nối đầu tiên giữa vô số những con đê chằng chịt sẽ tránh cho toán thám báo phải dùng con lộ chính nối liền Tịnh Biên với Ba Chúc, trung tâm dân cư cuối cùng họ phải vượt qua trước khi lẩn vào núi rừng Thất Sơn.
Qua khỏi ruộng luá, đội thám báo, không cần đợi lệnh, xếp thành hàng dưới chân đê rồi đồng loạt nhảy lên. Họ bắt đầu rảo bước đi vùn vụt. mrager đi đầu, ước tính rằng với tốc độ này họ sẽ không khó khăn gì tới địa phận làng Ba Chúc trước khi trời sáng hẳn. Ấp đầu tiên trong bốn ấp của làng Ba Chúc cách Tịnh Biên năm cây số theo lộ chính, nhưng chỉ cách ba cây số theo con đường anh hoạch định. Anh tin sẽ không có vấn đề gì với toán quân này. Kỷ luật của họ thật đáng nể. Họ đã vượt qua ruộng luá không ai có thể lặng lẽ hơn. Đã hai lần anh ngoảnh lại xem họ có theo kịp không, và cả hai lần anh đều thấy đi kế ngay sau mình là viên đội trưởng, đại úy Đặng.
Mọi khi mrager chưa bao giờ nghĩ tốt về các đội thám báo tỉnh, anh cho rằng họ chẳng hơn gì những tên du côn. Nhưng bọn này có vẻ khác, chắc chắn là khác với cái đám địa phương quân, dân vệ cùn mằn của anh, tuy đám này tuần nào cũng hai lần lội qua ruộng luá ấy đi càn quét. Lính của anh cứ hễ nhìn nhau là nói chuyện ồn lên, bảo sao cũng không được. Công trình huấn luyện của gã Đặng này cũng như viên cố vấn Gulliver của gã thật đáng khen.
Đại uý mrager không phải là người mới tới địa phương này, nhưng anh chưa từng hoạt động với toán thám báo đặc biệt này trước đó bao giờ. Họ không phải từ Châu Đốc đến. Mặt khác, viên cố vấn Gulliver khiến anh nghĩ ngợi hoài. Anh tin chắc mình đã nghe cái tên này rồi mà không làm sao nhớ ra ở đâu.
Thế rồi anh nhớ ra. Anh Hàng Cát! Anh đang dẫn đường cho thằng cha Anh Hàng Cát trời đánh! Tất nhiên mọi chuyện đều đã xảy ra từ trước khi anh tới đây, nhưng vài người lính địa phương quân của anh, những người lớn tuổi nhất, vẫn còn kể chuyện Anh Hàng Cát đã tới tỉnh này để hạ thủ tên Tướng Máu. "Thế ra là Hắn đấy," anh lẩm bẩm. Thằng cha Anh Hàng Cát trời đánh!
Hai viên đại uý ở hai đầu toán quân -- mrager mở đường và Gulliver đoạn hậu -- đều đang hồi tưởng. Sau khi bố trí Swain đi giữa, Gulliver đã trở lui lại phía sau, nhưng tâm trí anh còn trở lui xa hơn nữa. Trở lui sáu năm xa hơn nữa.
Con đường mrager dẫn họ đi không phải ghé vào Tịnh Biên, và điều đó khiến Gulliver rất hài lòng. Trước kia anh đã chỉ tới Tịnh Biên có một lần, mùa mưa năm 1964, nhưng anh có hai lý do nhớ lại thời gian ấy, một lý do tốt và một không tốt cho lắm. Tịnh Biên là nơi anh đã gặp một sĩ quan lừng danh của Lực lượng Đặc biệt, đại úy Thorne. Cũng là khởi điểm cho chuyến công tác Anh Hàng Cát đầu tiên của anh.
Dù đã bao năm Gulliver vẫn còn nhớ rõ tướng mạo Thorne, một anh chàng to lớn, thân mật, luôn tươi cười, chỉ bằng một tay có thể đập bể một lon bia hay đập bể đầu người khác cũng dễ như nhau. Tất nhiên trước khi gặp anh đã từng nghe nói đến Thorne; không có ai thuộc Lực lượng Đặc biệt mà lại không từng nghe danh Thorne. Gốc người Phần Lan, Thorne đã được huy chương Mannerheim vì những chiến công chống quân Nga, đã cầm đầu một toán tuần tiễu trượt tuyết lẻn qua hậu tuyến Liên Xô và tiêu diệt một đoàn xe ba trăm quân của địch. Sau đó anh lại đột nhập hậu tuyến quân Nga một lần nữa, lần này với các đội cảm tử của quân Đức, và chưa trở về thì Thế chiến II chấm dứt. Thorne vẫn còn chiến đấu thêm vài ngày nữa để có thể ra hàng quân Mỹ thay vì phải đầu hàng quân Nga, nhưng rồi trốn khỏi trại tù binh của Mỹ, tìm đường sang được Hoa Kỳ, thay tên đổi họ, rồi xung vào quân lực Mỹ. Anh đã trở thành chuyên viên cho Lực lượng Đặc biệt, nổi danh huấn luyện du kích chiến tại thao trường Bragg.
Thời gian Gulliver gặp Thorne tại Tịnh Biên, anh chàng Phần Lan to lớn cùng toán Dân vệ nhỏ nhoi của anh -- vừa gồm người Thượng vừa gồm lính Hòa Hảo -- đang tận lực tảo thanh quận này, một thành trì của Việt cộng. Tất nhiên với tài năng của mình Thorne thực ra không cần Gulliver giúp, nhưng cả anh cũng như toán Dân vệ của anh đều không được phép vượt qua biên giới Miên, và vấn đề lớn của anh lại ở đó: một tên đầu đảng cướp người Miên có biệt tài lôi cuốn người khác đã đem bộ hạ của mình tùng phục Việt cộng địa phương để được quyền thâu thuế các ghe thuyền ngược xuôi con kinh Vĩnh Tế náo nhiệt.
Và thế là Gulliver đã tới Tịnh Biên, bí mật tới theo lệnh công ty, dưới bí danh Anh Hàng Cát. Anh chàng Thorne kiêu hãnh tất nhiên không hài lòng lắm, nhưng anh là tay chuyên nghiệp và anh đành miễn cưỡng cộng tác với cái tên Anh Hàng Cát người ta phái đến cho anh, tiết lộ mọi tin tức anh biết về Tướng Máu và còn chúc may mắn cho cái kẻ xía vào chuyện của anh khi y lội xuống con kinh Vĩnh Tế tối tăm trong một đêm không trăng.
Khi sáng hôm sau Anh Hàng Cát ngồi xuống ghế đối diện anh đang ăn điểm tâm, Thorne muốn nghẹn họng và chỉ còn biết ngồi ngẩn ra nghe Anh Hàng Cát báo cáo mọi chuyện. Khi sau cùng lên tiếng được anh đòi có chứng cớ là nhiệm vụ đã chu toàn. Gulliver cúi xuống lấy lên một cái túi còn ướt, đầy những giấy tờ và vật dụng cá nhân, kể cả một cuốn nhật ký và một cái áo ngủ đầy vệt máu.
"Trời đầy cái bọn ma quỷ!" Thorne la lên bằng tiếng Anh trúc trắc của anh. "Này anh, thực anh tên gì? Anh là ai? Chắc anh phải là Lực lượng Đặc biệt rồi! Phải không nào? Nói đi! Nói đi, không tôi dám giết anh lắm đó!"
Gulliver, vẫn chưa hết tức tối vì bị biệt phái hoạt động cho CIA, và cũng như Thorne, chẳng ưa gì bọn "ma quỷ" ấy, nhún vai kể cho Thorne hay...và bị Thorne ôm choàng lấy, nhắc bổng lên khỏi mặt đất. Thorne la ầm lên: "Tôi biết mà! Bọn ma quỷ làm sao có người giỏi thế được! Goo-leever! Hàng Cát với chẳng Hàng Cát. Anh là bạn tôi!"
Gulliver còn ở lại Tịnh biên thêm vài ngày, đủ thì giờ để nghe được tin đồn ngoài chợ là quân của Tướng Máu đã bỗng nhiên tan biến đi đâu mất cả, khiến Việt cộng địa phương ngơ ngác và suy yếu hẳn. Mấy ngày đó anh nghỉ ngơi, nếu như nhậu đến say mèm với cái anh chàng Thorne núi lửa kia có thể gọi được là nghỉ ngơi. Mấy ngày đó hai người trở thành đôi bạn thân, lâu lâu bất chợt Thorne lại choàng hai tay như hai con rắn ôm ghì lấy Gulliver, vừa cười vừa nhắc bổng anh lên. Cho đến bây giờ Gulliver vẫn không làm sao tin được rằng Thorne, từng sống sót sau hàng trăm cảnh ngặt nghèo, đã chết thực rồi, khi chiếc trực thăng chở anh rớt xuống rừng núi xứ Lào gần một năm sau đó. Không ai tìm ra xác anh cho nên không có mộ bia nào, nhưng tên tuổi anh vẫn sống mãi trong truyền thống Lực lượng Đặc biệt.
Anh chàng Larry Thorne lừng danh đó rất kín đáo về chuyện Anh Hàng Cát với Tướng Máu, nhưng trước khi chết anh có kể cho vài người hay, và thế là Gulliver cũng trở thành một kỳ tích trong Lực lượng Đặc biệt. Cái bóng ma lặng lẽ làm phép cho thiên hạ nhắm mắt đi vào giấc ngủ. Anh Hàng Cát.
Anh Hàng Cát! Cái tên hoang đường vụt đến với trí tưởng một chuyên viên thiết kế nào đó của CIA đã trở thành biệt danh của Jake Gulliver mặc dầu anh hết sức phản đối -- khởi đầu là do Thorne kể lại cho vài người, rồi cứ thế mà loan truyền đi sau khi ai cũng cho rằng không việc gì phải giấu giếm nữa vì anh đã rút khỏi SOG. Và từ miệng người này qua miệng người khác những chuyện thần kỳ về Anh Hàng Cát càng ngày càng được thêu dệt thêm.
Gulliver đã nghe thiên hạ nhắc đến biệt danh của anh đủ mọi kiểu: một cách kinh sợ khi đó là những người lính trẻ, một cách thách đố nhạo báng khi đó là những bợm nhậu say mèm rồi thì khoe rằng Anh Hàng Cát thì có gì chì hơn họ, một cách cà giỡn gượng gạo khi đó là những sĩ quan các binh chủng khác muốn che giấu họ e sợ anh. Gulliver đã dùng đủ mọi cách để thiên hạ thôi nói đến cái biệt danh ấy -- thường thì một cái nhìn lạnh lùng cũng đủ, hơn thế nữa thì một lời yêu cầu lễ độ nhưng nghiêm khắc -- nhưng cũng chẳng thể hoàn toàn ngăn chặn được. Cứ như là các biệt danh gắn liền với Việt Nam chẳng khác nào nóng nực và bùn sình, và đến khi cả lính tráng người Việt cũng biết đến biệt danh của anh thì Gulliver đành chịu nhận thua cuộc.
Dù sao cũng phải có một giới hạn nào đó, và Gulliver đã nói với Swain sự thực: anh chỉ để cho một vài người được nói đến cái tên ấy trước mặt anh, những người tài ba xuất chúng, những người anh kính phục, ngưỡng mộ. Những người như thế có dùng cái tên ấy để gọi anh thì không phải do ganh tị hay sợ sệt, nhưng vì nhìn nhận khả năng anh, và điều đó thì anh chấp nhận. Thorne có thể gọi anh bằng Anh Hàng Cát. Đặng có thể gọi anh bằng Anh Hàng Cát. Nhưng Swain thì không.
Nghĩ đến Swain, anh nhướng mắt nhìn qua bóng tối đang tan dần và thấy đầu Swain vượt hẳn lên trên đầu những người đi trước đi sau lừng lững. Xa xa một bên, có những ánh đèn lập lòe. Một thôn ấp. Anh thận trọng len vào giữa hàng người trên con đê hẹp, tiến lại bên Swain.
Họ đi chưa tới hai tiếng đồng hồ nhưng hai chân Swain đã bắt đầu sưng lên vì không quen đôi dép râu.
Trước khi đi, Gulliver đã khuyên Swain nên cứ đi ủng, rằng dùng giày dép gì đi nữa, ai nhìn vào dấu chân to tướng của Swain sẽ biết ngay anh là người Mỹ. Swain cho là anh thách thức và nhất định đòi ai sao mình vậy. Swain lầm to. Anh đang thở cả ra đằng tai thì bây giờ Gulliver lại còn bảo anh phải cúi lom khom xuống, thu nhỏ người lại vì họ đang vượt qua làng Ba Chúc. Anh làu nhàu nhưng cũng đành nghe lời, lết chân trên con đê như một con vịt què.
Trở lại chỗ cũ cuối hàng quân, Gulliver hít vài hơi thật dài rồi nhìn khắp chung quanh. Mặt trời lừng lững mọc lên từ phía Biển Đông, nhuộm làn không khí lạnh lẽo ban mai với những màu sắc chói chang nhảy múa nơi chân trời. Đoàn thám báo vừa vượt khỏi ấp thứ tư và là ấp cuối cùng của làng Ba Chúc, vẫn đi theo những đường đê cách mọi nhà cửa gần nhất cũng khoảng tám trăm thước. Khói từ các bếp lửa cuồn cuộn bốc lên, rồi tỏa ra lững lờ trên thôn ấp như một cái dù.
Một vài gia đình cần mẫn đã bắt đầu ra đồng, vợ đi bên chồng, trẻ con vắt vẻo trên mình trâu. Một vài người dừng chân, đưa tay che nắng, cố nhìn cho rõ đoàn người đang vượt qua ruộng phía xa. Gulliver biết rằng, đêm nay, những ai tinh mắt, những ai đã trông ra được những bộ bà ba đen và bóng dáng những khẩu AK-47, tất sẽ kể với hàng xóm Việt cộng có tới hồi sớm mai.
Toán thám báo đã vượt qua hết các ruộng lúa và đi vào những vườn xoài và mít, mặt đất lên lên xuống xuống như sóng biển lăn tăn. Mặt trời, như một cái tròng đỏ trứng nở bung ra, đã lên hẳn khỏi chân trời.
Ngay trước mặt họ hiện ra hình bóng ngọn núi Giải, ngọn núi dễ lên nhất trong bảy ngọn Thất Sơn, và sau đó sẽ là hai ngọn núi Dài và núi Tượng, cả hai vẫn còn chìm đắm trong bóng tối thâm nghiêm.
Họ cứ thế đi thêm hai cây số nữa, rồi ngừng lại nghỉ chân năm phút, và chia tay với đại úy mrager. mrager sẽ không trở lại đường cũ để khỏi bị dân làng Ba Chúc trông thấy. Anh sẽ ở lại đây cho đến khi toán thám báo đã vào sâu vùng rừng núi, rồi sẽ gọi trực thăng đến bốc anh về. Đặng cùng Gulliver ngỏ lời tạ ơn mrager, coi lại kế hoạch một lần chót, rồi, cả hai người dẫn đầu, cho quân tiếp tục lên đường.
Đi được ba cây số nữa Đặng lại cho quân dừng lại. Gulliver ra lệnh cho hai người lính truyền tin liên lạc với trung tâm chỉ huy và kiểm soát của Coughlin tại phi trường Tịnh Biên. Bắt được liên lạc rồi, Gulliver báo cho "Chuồng Chó" hay họ đã sẵn sàng để tách đôi. Toán "Bắt Chó Một" của Đặng và toán "Bắt Chó Hai" của Gulliver giơ tay chào nhau và di chuyển ngược chiều nhau, theo sát chân núi.
Gulliver để Swain đi ở giữa, còn mình dẫn đầu toán quân cùng với người tiền đạo, trung sĩ Phước. Viên hạ sĩ quan bốn mươi lăm tuổi này là người lớn tuổi nhất và nhiều kinh nghiệm nhất dưới quyền Gulliver, ngày trước từng chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh chống người Pháp. Có kẻ nói Phước đã dự trận Điện Biên Phủ với đại quân của tướng Giáp, nhưng nếu bị hỏi về chuyện ấy viên trung sĩ lầm lì chỉ cười trừ, không nhận mà cũng chẳng chối. Không ai hỏi gặng thêm bao giờ. Về mặt này, các đội thám báo tỉnh phần nào giống như quân Lê-dương của Pháp -- không ai đào sâu quá khứ một ai. Tất cả những gì Gulliver thực sự biết về trung sĩ Phước là Phước đã đến với đội thám báo này từ Côn Sơn, hòn đảo nhà tù tiếng tăm ghê rợn ngoài khơi phương nam, và nếu cởi áo bà ba ra, khắp ngực với lưng Phước vẫn hằn đầy dấu roi vọt.
Bây giờ ngọn núi che khuất mặt trời với họ, nhưng không vì thế mà trời bớt nóng. Nếu mới giờ này mà đã như thế, Gulliver nghĩ, không biết rồi trong ngày còn sẽ nóng đến thế nào.
Trung sĩ Phước dẫn họ tránh những lối đi rõ rệt, chỉ dùng những lối này khi không còn cách nào khác, luôn luôn canh chừng tìm những dây điện thoại. Tối hôm trước Gulliver và Đặng đã nghiên cứu những bản đồ Kồng ngoại tuyến do J-2 của MACV cung cấp theo yêu cầu của công ty tại Sài gòn. Hai người đã thỏa thuận với nhau đi những đường nào và gặp lại nhau ở đâu. Nếu không toán nào gặp được một cơ hội tóm và diệt, họ sẽ gặp nhau bên kia núi Giải vào lúc hoàng hôn. Bữa sau họ sẽ thám thính núi Dài, rồi núi Tượng, rồi các núi khác, cho đến khi tìm ra được tiểu đoàn 18-B hoặc không còn thì giờ nữa.
Dấu vết văn minh cuối cùng là một tấm bảng gỗ đã mục, vẽ sọ người với hai ống xương bắt chéo, và mang ba chữ viết tay: Vùng Tử Địa.
Gulliver tin tấm bảng không có gì là khoác lác. Giá như mọi khi thì anh đã chẳng hề quan tâm, nhưng bữa nay anh có cảm giác không lành về nơi chốn này và về chuyến công tác này. Anh đã toan mở túi thuốc trong ngực áo nhưng lại thôi; lệ của anh là chỉ dùng thuốc ban đêm mà thôi, khi các giác quan cần trợ lực.
Buổi sáng nóng bức rồi cũng qua, nhưng buổi trưa lại còn nóng bức hơn và họ vẫn chẳng tìm thấy dấu vết mới nào của kẻ địch. Thỉnh thoảng vẫn có dấu vết từ lâu ngày của một bếp lửa, cầu xí hay lốt dép, không còn đáng lưu ý. Tuy nhiên trời càng ngả bóng Gulliver càng bứt rứt, không sao gạt bỏ được cảm giác họ đang bị rình mò.
Thực ra anh cũng không hoàn toàn ngạc nhiên về điều đó. Thiên hạ vẫn đồn trên bảy ngọn Thất Sơn có các thần linh đầy phép màu. Người ta cũng kể trên các đỉnh núi có những ngôi đền dát vàng, với những ông đạo dứt khoát xa lìa thế tục. Gulliver chưa gặp được một ai đã lên tới đỉnh núi và trở xuống xác nhận những lời đồn đại đó. Kẻ nào sống trên đỉnh bảy ngọn Thất Sơn hẳn chẳng mấy khi tiếp khách thập phương. Còn các sườn núi thì hoàn toàn là lãnh thổ của Việt cộng.
Ta hiểu ngay ra điều đó vì nhìn đâu cũng thấy dấu tích của bao nhiêu chiến dịch nhằm xua đuổi Việt cộng khỏi nơi này: những hố bom đọng đầy nước đã trở thành nơi sinh trưởng của loài muỗi, những lớp tro trắng còn lại của bom xăng đặc, những thân cây cháy đen với những cành dị dạng vẫn chĩa lên trời như một lời buộc tội.
Không muốn nghĩ tới những chuyện quỷ thần và dấu tích chiến tranh nữa, Gulliver đi ngược trở lại duyệt hàng quân. Ai ai cũng đều tỏ ra dư sức chịu đựng cơn nóng nực -- ngoại trừ Swain. Bề ngoài trông vẫn ra dáng một lực sĩ, nhưng Swain rõ rệt không còn sức dẻo dai sau những ngày ngồi sau một bàn giấy. Anh bước đi lảo đảo ngất ngư. Một năm trời ấy khiến anh bây giờ chẳng hơn gì một tay mơ mới đến xứ này.
Swain không còn đi giữa hàng quân mà đã tụt xuống gần chót, đi được vài bước lại thở dốc và loạng choạng, hai bàn chân đau nhức vì đôi dép y như Gulliver đã tiên đoán. Gulliver đã chịu không tìm ra được bộ bà ba nào vừa với thân hình hộ pháp của Swain -- cao 1 thưóc V3 và nặng 102 ký -- và đành chọn cho Swain bộ rộng nhất vậy. Hai gấu quần chỉ tới giữa bắp chân Swain, và hai ống tay áo ngắn cũn cỡn tận khuỷu tay. Trông anh khiến nghĩ đến con quái vật của crankenstein(Nhân vật tiểu thuyết của nhà văn nữ người Anh Mary t. Shelley (1797-1851).), hay là LiDl Abner(Nhân vật của nhà biếm hoạ Mỹ Al Capp (1909-1979).) mặc bộ đồ họp-hành-chủ-nhật. Tuy nhiên Gulliver không còn để tâm tới bộ đồ Swain mặc nữa; không gì có thể khiến Swain trông giống Việt cộng được. Điều khiến anh quan ngại là tình trạng thể chất của Swain.
"Anh muốn tôi cho lệnh nghỉ không?" Gulliver hỏi.
Swain, mặt tái mét, hổn hển nói: "Đừng...lo cho.. tôi. Bọn Mít...chịu được thì tôi...cũng chịu được."
"Tùy ý anh." Gulliver trở lại bên Phước.
Anh chờ thêm mười lăm phút giữ kẽ, rồi cho lệnh nghỉ mười phút ăn cơm. Mọi người mở túi khẩu phần của mình và đổ ra chén cơm khô với cá khô. Họ cho thêm ít nước và nhỏ vào vài giọt nước mắm rồi bắt đầu ăn. Họ ăn như chó, nhai nhồm nhoàm, lùa cơm vào miệng bằng mấy ngón tay. Ợ một tiếng no nê, rít một hơi thuốc rê, rồi họ lại lên đường.
Hai tiếng đồng hồ sau đó, Gulliver quyết định trở lại xem Swain ra sao, mấy người lính thám báo thì thào rằng viên trung úy mới đã tụt lại đằng sau quá xa.
Trời đã mát hẳn, mặt trời hừng hực đã khuất sau đỉnh núi. Toán của Gulliver đã đi gần nửa vòng núi, sắp tới điểm hẹn. Suốt từ khi rời địa phận làng Ba Chúc đến giờ, họ chẳng hề gặp một bóng người, hay bất cứ cái gì cho thấy tiểu đoàn 18-B sử dụng ngọn núi Giải này. Và chắc cả toán của Đặng cũng vậy. Bắt Chó Hai và Bắt Chó Một vẫn chưa liên lạc vô tuyến trực tiếp được với nhau vì ngọn núi chắn giữa họ, nhưng Chuồng Chó cho hay Đặng cũng chẳng may mắn gì hơn.
Tâm trí những người lính của toán Bắt Chó Hai bắt đầu bớt căng thẳng. Vậy là hôm nay họ sẽ chẳng gặp ai ngoài toán Bắt Chó Một chút nữa đây, và như thế thì không có gì bằng. Phần lớn không mong muốn gì hơn là được ngủ một giấc thật ngon. Họ đã di hành suốt từ nửa đêm hôm qua đến giờ, và họ mệt mỏi rã rượi. Và quả thế, đúng lúc đang ngáp dài thì trung sĩ Phước trúng một viên đạn ngay giữa họng.
Viên đạn ghim ngay chỗ trũng phần dưới cuống họng, và ngay sau đó một trái mìn định hướng nổ tung, làm tan xác trung sĩ Phước. Phát đạn giết trung sĩ Phước chính là hiệu lệnh cho nổ mìn.
Trái mìn Claymore, sản xuất tại Hoa Kỳ, bắn ra bảy trăm viên đạn thép tới năm mươi thước trong vòng cung sáu mươi độ, giết chết ba người đi sau trung sĩ Phước. Tiếng nổ dữ dội khiến ta lâm thời tê liệt, hai lỗ tai lùng bùng không nghe thấy gì nữa hết, kể cả tiếng lũ khỉ kêu rú thất thanh. Thế rồi từ hai bên lối mòn súng tự động bắn ra như mưa, những tiếng nổ tưởng như quỷ Satan đang ho khục khặc.
Khi phát đạn đầu tiên nổ thì Gulliver vừa trở lại tới cuối hàng quân, và tìm ra Swain đã tụt lại sau người lính đoạn hậu tới hai trăm thước, bước lê hai bàn chân rướm máu và thở rốc như sóng trào. Do đó mà Swain và Gulliver thoát chết. Cả hai người đều ở ngoài xa vòng phục kích.
Khi trái mìn nổ, Swain nhảy dựng lên tựa một con mèo khổng lồ, nhào tới nấp sau những tảng đá rải rác bên vệ đường, cơn thất kinh xua tan hết mọi nhọc nhằn.
Gulliver, cũng nhanh chẳng kém, chạy vụt tới trận địa. Anh tới được bên người lính đoạn hậu của anh, bây giờ chỉ còn là cái xác nằm sóng soài giữa đường, rồi bị chặn lại bởi hàng loạt đạn của một ổ đại liên mai phục hết sức tinh vi. Anh xả hết đạn khẩu súng săn hai nòng của anh vào vị trí địch, gỡ lấy máy truyền tin trên lưng người lính thám báo đã chết, rồi chạy trở lại nơi Swain đang chờ, một thành trì trời xây bằng đá.
Một người thứ ba tới bên họ, Ti-Ti, lính truyền tin riêng của Gulliver, tưởng như không còn hơi sức nào sau khi cố gắng chạy theo Gulliver hai lần khúc đường ngắn ngủi. Gã chỉ cao khoảng thước rưỡi, và mặc dầu đã gần tuổi trung niên khuôn mặt vẫn mang những nét của một thanh niên mới lớn. Chính Gulliver đã đặt cho gã cái biệt danh ấy, và gã rất lấy làm hãnh diện.
Hồi đầu khi Ti-Ti tình nguyện xin làm lính truyền tin riêng cho anh, Gulliver không mấy tin tưởng, anh đã nói đùa cái máy truyền tin còn nặng hơn Ti-Ti. Nhưng chú lính chiêu hồi tí hon đã chứng tỏ vô cùng can trường, không bao giờ mỏi mệt và lúc nào cũng sát cánh bên Gulliver. Ti-Ti rất hâm mộ xếp của mình, và hai người hành động ăn khớp như mấy cái bánh xe trong chiếc đồng hồ Rolex của Gulliver. Như lúc này, hai mắt dán chặt vào con đường trước mặt, Gulliver quài tay ra sau, và Ti-Ti, chẳng khác một cô y tá trong phòng mổ, đặt ống nói vào tay Gulliver.
"Chuồng Chó, Chuồng Chó, đây là Bắt Chó Hai, hết."
"Bắt Chó Hai, đây là Chuồng Chó, hết." Mặc dầu những tiếng rít trên luồng sóng, giọng nói bình tĩnh của Coughlin nghe rất rõ.
"Chuồng Chó, chúng tôi đụng rồi. Tôi chưa thấy rõ được, nhưng cứ theo tiếng súng chắc phải có một đại đội, có lẽ hơn thế nữa. Yêu cầu anh gọi không yểm với một trực thăng tải thương nữa. Ít nhất tụi tôi bị chết một rồi, và chắc sẽ có nhiều thương vong, hết."
"Sẽ gọi máy bay và trực thăng tải thương. Cho biết vị trí của anh, hết."
"Giữ máy...chúng tôi hiện ở cách vị trí cũ một ngàn thước về phía bắc; nhắc lại, một-Eero-Eero-Eero tháng mười một lần liên lạc trước, hết." Gulliver nói chậm và đều, giọng bình thản.
"Nghe rõ. Một cây số về phía bắc vị trí cũ. Tôi sẽ cho A-3T đến thả bom xăng đặc. Một trận bom xăng là xong, hết."
"Không được, nhắc lại, không được. Việt cộng sát ngay bên chúng tôi. Không thể oanh tạc hay pháo kích được. Chúng tôi cần trực thăng võ trang, hết."
Được rồi, đội Hai. Anh muốn trực thăng thì sẽ có trực thăng. Tôi lo ngay bây giờ đây. Anh có muốn rút đội của anh về không, hết."
"Nghe rõ...nếu tụi tôi còn kẻ nào sống sót. Anh liên lạc với Bắt Chó Một coi. Tụi tôi nguy ngập lắm, hết."
"Nghe rõ, đội Hai. Cứ theo lần liên lạc trưóc thì đội Một hiện ở cách anh không tới hai cây số. Các anh sắp tới điểm hẹn cả. Tôi sẽ bảo họ tới thật nhanh. Họ sẽ giúp các anh cầm cự, rồi chúng tôi sẽ rút hết các anh về một lượt, hết."
"Nghe rõ lắm, Chuồng Chó. Được vậy thì tốt lắm, hết."
"Nghe rõ...ờ, giữ máy nhé...vừa được biết trực thăng lên đường rồi. Khoảng bảy phút nữa thì họ tới." Im lặng một lúc rồi Coughlin nói: "Ráng lên nghe Jake...chúng tôi sẽ đưa các anh về. Chuồng Chó sẽ theo dõi, cúp máy."
Gulliver vẫn giữ tần số để theo dõi Chuồng Chó liên lạc với Bắt Chó Một, nhưng đài chỉ huy không làm sao tìm ra đội của Đặng. Sau vài lần nữa không kết quả, Gulliver lại gọi, giọng âu lo: "Chuồng Chó, Hai đây. Họ ở đâu rồi, hết."
"Có trời biết. Tôi mới liên lạc với họ lúc nãy đây chứ đâu. Chắc họ cũng bị đụng rồi, nhưng chẳng nhẽ đụng nặng đến nỗi họ không gọi được. Để tôi cố gọi lần nữa, cúp máy." Giọng Coughlin không còn vẻ mỏi mệt, nhưng đã thấm hoảng sợ.
Gulliver lắng nghe Coughlin cố liên lạc với Bắt Chó Một thêm vài lần, nhưng chỉ có tiếng máy rít mà thôi. Rồi Coughlin gọi lại anh: "Đội Hai, Chuồng Chó đây. Không gọi được Đội Một. Trực thăng khoảng năm phút nữa tới, nhắc lại, năm phút nữa, hết."
Đúng năm phút sau, hai chiếc Huey của không lực Việt Nam và hai chiếc Cobra của không lực Mỹ xạch xạch bay tới trên đầu họ, sục sạo tìm mục tiêu. Năm phút đó Gulliver chẳng làm được gì hữu ích; anh chỉ có một ý niệm lờ mờ về tình thế, mắt không sao thấy được những gì đang xảy ra phiá trước, tai không sao phân biệt được ai đang bắn ai, lính thám báo của anh cũng như Việt cộng đều dùng súng AK-47 như nhau.
Anh cũng chẳng gọi được ai giúp anh. Người lính truyền tin cuối cùng của đội ở phiá trước, nhưng không trả lời anh gì hết. Anh vẫn cố gọi, bằng tiếng Việt: "Đội Hai, đây Trưởng Chó Hai. Có không yểm trong bốn phút nữa, nhắc lại, không yểm trong bốn phút nữa. Dùng khói vàng đánh dấu mục tiêu, nhắc lại, dùng khói vàng đánh dấu mục tiêu. Nghe rõ không, trả lời."
Không có gì hết. Không ai đáp lại. Không khói vàng. Anh cố gọi vài lần nữa nhưng vẫn vô hiệu, rồi quyết định phải cố tới với họ.
lần này anh đi vòng thay vì đi trên đường. Đi chưa được chín mươi thước, anh trông thấy ba Việt cộng nấp sau một tảng đá lớn, hướng ra phiá đường, xây lưng lại anh. Anh vội bò vào một bụi rậm gần đó.
Bụi rậm đầy những gai dài và nhọn khiến quần áo anh rách bươm và khiến anh bị trầy da rướm máu cả chục chỗ. Anh lách tới phiá trước, thò mũi súng ra. Bọn Việt cộng không nghi ngờ gì cả, hai người gần nhất đang chụm đầu thì thào với nhau như hai cô học trò nhỏ trong lớp học. Anh nổ súng giết luôn cả ba người.
Anh thối lui rồi quỳ một chân xuống, mở nòng súng cưa ngắn nạp đạn lại. Một tên Việt cộng khác xuất hiện, chạy tới chắc vì nghe tiếng nổ khác lạ của khẩu súng săn. Y trông thấy Gulliver một giây trước khi anh trông thấy y. Y đã nâng khâu AK lên, nhưng lại ngập ngừng khi thấy bộ bà ba đen cùng khuôn mặt vàng ửng của anh. Một giây đó đủ cho Gulliver đóng súng lại, bóp cò phá tan lồng ngực y. Anh nạp đạn lần nữa, rồi gấp rút chạy về chỗ mấy tảng đá trước.
Anh chỉ thấy Swain một mình ở đó, đang cố gọi qua máy truyền tin trừ bị. "Ti-Ti đâu?" anh hổn hển hỏi.
"Hả? Tôi tưởng nó đi với anh. Nó chạy theo anh mà."
"Thằng quỷ con!" Nhưng anh đành chờ chứ không thể làm gì khác hơn. Ti-Ti chì lắm, thế nào nó cũng thoát về.
"Tình hình thế nào, đại úy?" Swain hỏi, giọng bình tĩnh như không. Hắn còn cố cười và hỏi tiếp: "Liệu ta tấn công bọn khốn làm một mẻ được không?"
Gulliver nhìn hắn một cách tán thưởng. Swain chưa thò ra ngoài mấy tảng đá, nhưng hắn không hoảng hốt chút nào, ngoại trừ lúc mìn nổ. Giờ đây hắn thản nhiên như một gã chăn bò dẫn bò đi ăn cỏ. Dù sao những tấm huy chương cũng không gian dối, Gulliver nghĩ. Định luật của anh vẫn có hiệu lực: ta có được cái gì ta thấy. Chính anh mới là người mất bình tĩnh. Hai tay anh vẫn còn run sau cuộc đụng độ với Việt cộng. Anh tự bào chữa mình không còn quen hành động mà không dùng thuốc. Lần cuối cùng anh giết người mà không dùng thuốc đã gần một năm rồi.
Anh lắc đầu. "Chúng đông hơn ta nhiều, Swain à. Nếu có ai bị làm một mẻ thì đó là chúng ta. Tôi cũng chẳng rõ tình hình ra sao. Tôi đoán họ chết hết rồi."
Swain đã gật đầu nhưng lại lắc đầu ngay. "Không đâu, đại úy. Họ chưa chết hết đâu. Nghe kìa."
Tiếng súng chỉ còn nổ lẻ tẻ. Gulliver lắng tai nghe. Lúc đầu anh không nghe thấy gì hết, nhưng rồi anh nghe ra một tiếng rên yếu ớt: "Đại úyyyy! Đại úyyyy!" Anh đưa tay khum một tai và tiếng rên lại vọng tới: "Đại úyyyy! Đại úyyyy!" Âm thanh run rẩy, thê thiết, như tự một nhà mồ vọng tới.
"Chúa ơi! Chúa ơi là Chúa ơi!" Gulliver gầm lên nho nhỏ. "Đúng Ti-Ti rồi! Nó bị rồi!"
Toàn thân rung lên như một con chó săn chim, anh cố định hướng tiếng rên càng lúc càng rõ và không ngớt vì tiếng đạn ngưng dần. Tiếng rên đau đớn và khẩn thiết khiến đầu óc anh không sao chịu nổi. Anh không thể để như thế được!
Anh đã toan nhào ra nhưng Swain nắm cổ áo rách mướp của anh kéo giật lại, khiến anh ngã ngồi xuống. Đồ chó đẻ!" Gulliver la lên. "Không nghe thấy nó kêu đó sao? Đại úy! Đại úy! Nó kêu tôi! Nó kêu tôi đó!"
Đại úy không làm gì được đâu," Swain rít lên. "Nghe này!"
Gulliver lắng tai, không nghe thấy gì hết, rồi hiểu ra Swain muốn nói gì. Tiếng súng đạn đã hoàn toàn im bặt.
"Chúng dùng nó làm mồi đó, đại úy," Swain nói, giọng khẩn trương. "Chúng chờ kẻ nào, chờ đại úy của nó đến tìm nó."
Tất nhiên Swain nói phải. Gulliver nhắm mắt lại, cố xua đuổi những tiếng rên não nùng của Ti-Ti: "Đại úyyyy! Đại úyyyy!"
ĐẠI ÚYYYYY!"
Cả hai người nhảy dựng lên, dáo dác ngó khắp chung quanh, tim đập như trống ngũ liên. Tiếng kêu, lớn và khàn, bật lên từ dưới đất, ngay dưới chân họ!
ĐẠI ÚYYYYY!"
Gulliver đã tự hỏi phải chăng tiếng kêu là tự trong đầu anh vọng ra...nhưng rồi anh nhìn thấy cái máy truyền tin trên mặt đất. Ti-Ti, bao giờ cũng chì, đã không buông máy của mình, vẫn còn đủ sáng suốt gọi máy để thần tượng của mình, để Đại Úy của mình, nghe được đến cứu mình.
ĐẠI ÚYYYYY!"
Gulliver đau đớn nhìn Swain, mặt đầy nước mắt. Ngay cả Swain cũng bứt rứt.
Máy truyền tin lại réo, nhưng lần này là tiếng Coughlin, giọng thất thanh: "Đội Hai, Chuồng Chó đây! Tiếng ai dễ sợ vậy? Có ai đang hát hả? Tình hình ra sao, trả lời."
ĐẠI U..."
Gulliver cúi xuống tắt máy. Tất nhiên họ vẫn còn nghe thấy, nhưng tiếng kêu không còn bao phủ họ như một tấm mền ngột ngạt nữa. Họ ngồi phịch xuống, câm nín, không dám nhìn nhau, cố không nghe.
Tiếng Ti-Ti nhỏ dần, nhưng chỉ ngưng hẳn khi bốn chiếc trực thăng xạch xạch bay tới. Một tràng đạn AK nổ ròn, rồi...im lặng.
Gulliver không có thì giờ tiếc thương. Anh mở máy truyền tin gọi mấy viên phi công, chỉ dẫn đại khái cho họ khu vực anh muốn họ bắn phá. Từ lúc chạy trở về với Swain anh không thấy một bóng Việt cộng nào, nhưng anh nghe thấy họ sục sạo trong các bụi rậm, chạy vun vút trên các tảng đá chẳng khác nào những con cua trong một cái hồ nổi sóng, chạy tìm mồi, tìm "Đại Uy".
"Bắt Chó đừng lo," tiếng một viên phi công Cobra, giọng miền nam nhừa nhựa. "Tụi tôi không thiếu gì mục tiêu. Tôi trông thấy cả một đám chúng nó kia kìa. Tôi nhào tới đây."
Chiếc Cobra dẫn đầu lao tới, hai khẩu súng sáu nòng mỗi khẩu bắn ra với nhịp bốn ngàn viên đạn một phút. Bao giờ cũng vậy, đó là màn đầu; màn thứ hai sẽ là phóng hỏa tiễn. Nhưng lần này hỏa tiễn chưa kịp phóng thì từ dưới các bụi rậm vang rền hàng loạt đạn đại bác 3T ly cùng ba phi đạn tầm nhiệt SA-T. Chiếc Cobra nổ tung như một trái cầu lửa.
Gulliver, đứng trên một tảng đá quan sát, há hốc miệng không thốt được tiếng nào. Làm sao tiểu đoàn 18- B, một đơn vị đặc công, lại có được võ khí phòng không như vậy?
Chiếc Cobra thứ hai, bay theo chiếc thứ nhất, lao ngay vào giữa vòng lửa đạn. Chiếc trực thăng như đâm vào một bức tường giữa trời, rung lên rồi rớt xuống một tảng đá và nổ tan tành.
Những mảnh vụn chưa rơi hết xuống đất, một trong hai chiếc trực thăng võ trang Việt Nam đã quay mũi bay trở về mất tích. Viên phi công chiếc thứ hai ngập ngừng một lúc rồi cũng bay theo đồng đội.
Trên trời chỉ còn một vệt đen, chiếc trực thăng tải thương chờ bốn chiếc kia khai quang một bãi đáp. Gulliver trông thấy được dấu chữ thập đỏ trên mũi nó. Anh gọi qua máy truyền tin.
"Trực thăng tải thương, đây là chỉ huy trưởng dưới đất. Cám ơn anh còn đây. Tôi không biết vị trí phòng không của chúng, nhưng dù sao cũng rất xa chỗ chúng tôi. Tôi sẽ thả khói và anh có thể hạ xuống, câu chúng tôi lên, và bay ra khỏi nơi này trước khi chúng kịp phản ứng. Anh thấy sao, trả lời."
Câu trả lời vang đến bằng tiếng Việt, không theo lối gọi thông lệ: "Tôi thấy anh ở một vị trí rất nguy hiểm, đại úy Gulliver à."
Gulliver cau mày, rối trí. Một viên phi công Việt Nam, lại biết tên anh nữa. Hẳn y phải là thủ túc của tỉnh trưởng Minh. Nhưng tất cả các phi công của Minh đều biết tiếng Anh và được lệnh phải dùng tiếng Anh trong những lần ra quân hỗn hợp. Nếu thằng cha này biết anh, hẳn y cũng biết Coughlin nói được tiếng Pháp chứ không nói được tiếng Việt, và như thế có nghĩa là y không muốn Coughlin nghe được y nói chuyện với Gulliver.
Gulliver đáp lại bằng tiếng Việt, giọng thận trọng: "Anh bạn nói đúng. Có hơi nguy hiểm thật đấy, nhưng đâu có quá nguy hiểm đối với một tay chì như anh, phải không? Mà, anh là ai?"
"Như anh nói đó, đại úy...một người bạn."
"Tốt lắm, tốt lắm. Rất mừng. Ờ, anh thấy đề nghị của tôi sao...anh bạn?"
"Tôi thấy vẫn nguy hiểm lắm, đại úy à. Tôi mà để mất chiếc trực thăng này là rắc rối to. Dầu tôi không chết tôi cũng bị mất điểm nặng lắm. Nếu vì một quyết định điên rồ mà tôi bị bắn rớt, tôi sẽ mất tiền bay, và như thế gia đình tôi sẽ gặp nhiều khó khăn. Đây là một quyết định hết sức khó khăn cho tôi, anh bạn à, hết sức khó khăn."
Hết sức. Gulliver bắt đầu hiểu ra hết sức rõ ràng.
"Tôi hiểu," anh nói, cố giữ giọng thân mật dẫu cho hai môi anh cong lên để lộ hết hai hàm răng.
Swain không hiểu gì cả, nhưng anh ngẩn người vì tương phản giữa nét mặt căm giận và giọng nói lịch sự của Gulliver. Anh nhìn dò hỏi.
Gulliver không ngó đến Swain. "Có lẽ anh có bảo hiểm với một tai họa như vậy thì tốt nhỉ?" anh gợi ý với viên phi công.
"Bảo hiểm! Nhất định rồi! Giải pháp là đó đó," viên phi công hân hoan trả lời, như thể Gulliver đã đưa ra một sáng kiến tuyệt vời, độc đáo.
"Anh cần bảo hiểm bao nhiêu nào?" Gulliver hỏi.
Câu trả lời đến ngay tức thì: "Hai trăm ngàn đồng, trả cho trung gian của tôi ngay khi anh an toàn trở về."
Gulliver nhẩm tính thật nhanh. Với hối suất chính thức 118 đồng ăn một mỹ kim, như thế sẽ là gần 1TMM mỹ kim; với hối suất chợ đen hiện nay là 40M đồng một mỹ kim, hối suất của "Ngân hàng Chà-và", anh sẽ mất RMM mỹ kim. Thật khốn nạn nếu anh phải trả tiền, anh sẽ giải quyết với thằng cha hút máu này sau. Bây giờ anh phải đưa anh với Swain ra khỏi nơi này đã. "Nghe phải chăng đấy," anh vui vẻ nói.
"Thế thì tuyệt," viên phi công hoan hỷ đáp. "Vậy đại úy vui lòng đánh dấu địa điểm đi."
"Tôi sẽ thả khói hồng đây, anh bạn."
Gulliver lấy một trái lựu đạn khói trong túi đeo lưng, tìm được một chỗ đủ rộng trên lối mòn, và mở chốt. Chỗ này vừa đủ rộng cho chiếc Huey hạ xuống.
Trời không một hơi gió, và làn khói bốc thẳng lên như một cái cột. Gulliver trông thấy chiếc trực thăng chao mạnh và hướng về ngọn khói. Đồng thời, anh cũng nghe thấy những tiếng la xa xa phía đầu đường mòn: ngọn khói cũng đã chỉ lối cho Việt cộng. Nhưng anh không lo ngại lắm, chiếc Huey sẽ dễ dàng tới trước, dư thì giờ.
Chiếc trực thăng đang chuẩn bị hạ xuống thì triền núi ngay trên đầu hai người Mỹ bùng nổ dữ dội: hai khẩu 37 ly khạc đạn như mưa, phóng ra hai suối lửa đạn giao nhau thành chữ X, nhắm vào dấu chữ thập đỏ trên mũi chiếc trực thăng. Viên phi công tránh kịp, bay vòng ra xa, bay vọt lên cao, và, một giây sau, gọi trên máy truyền tin.
Đ. M.! Còn nguy hiểm hơn mình tưởng, đại úy à. Tôi e hai trăm ngàn đồng không đủ bảo hiểm rồi."
Đồng ý," Gulliver gượng cười, cố che giấu nỗi bồn chồn. "Tăng gấp đôi là bốn trăm ngàn nhé. Anh nói gì...năm trăm ngàn nhé. Nhiều quá rồi."
"Tôi e đại úy hiểu lầm tôi. Tiền không thành vấn đề nữa rồi."
"Một triệu đồng!"
"Tôi rất tiếc."
Đ. M.! Anh tính bỏ chúng tôi ở đây sao!" Gulliver la lên, không cần che giấu lo ngại nữa. "Ít nhất anh đừng bỏ đi. Chúng tôi sẽ mở đường ra khỏi nơi này, về dưới thung lũng xa các ổ súng. Anh có thể câu chúng tôi Gưới đó."
"Quá nguy hiểm. Lại sắp tối rồi. Thôi để dịp khác mình làm ăn với nhau, anh bạn à." Chiếc trực thăng bay xa, càng lúc càng nhanh, càng lúc càng nhỏ dần trên bầu trời không một gợn mây.
Swain, hết nhìn nét mặt Gulliver giận dữ lại nhìn chiếc trực thăng, cuối cùng hiểu ra tình thế. Hoảng hốt, anh đứng vụt dậy, quơ tay như một chàng thủy thủ bị bỏ rơi trên hoang đảo, thét gọi theo chiếc trực thăng đang khuất dần, cứ như là viên phi công còn nghe được: "Ê! Ê! Trở lại! Ê! Đồ thằng Mít chó đẻ! Ê!"
Swain ngơ ngẩn quay lại ngó Gulliver, hỏi nho nhỏ: "Đại úy, nó đi đâu mới được chớ?"
Xa xa phía trước và hai bên, Gulliver nghe thấy tiếng Việt cộng la gọi nhau, càng lúc càng rõ hơn.
"Nó đi về, Swain à," anh thẫn thờ trả lời.
"Hả? Thế chúng mình làm sao bây giờ?"
"Chúng mình chờ chết."
Việt cộng đến từ cả hai phía, huýt sáo gọi nhau, khép dần vòng vây. Bây giờ một là thoát đi, hai là chịu chết giữa mấy tảng đá này.
Gulliver đeo máy truyền tin lên lưng và giật ống tay áo Swain. Anh thì thầm: "Đi thôi."
Anh phải nhắc lại hai lần. Swain mặt mũi thất thần, đứng như trời trồng, hai mắt trợn trừng ngó như ngây Gại bóng dáng người lính đang chầm chậm lần xuống lối mòn, quay đầu hết phía này đến phía khác, chỉ cách đó chừng một trăm thước mà thôi. Khoảng một chục người khác theo sau. Việt cộng đang bủa lưới, tìm cách lùa mồi vào vòng hỏa lực của toán quân trên lối mòn.
Gulliver lại lay Swain mạnh hơn, và thì thầm: "Swain, đi thôi. Ta phải thoát khỏi nơi này."
Swain rùng mình bừng tỉnh, nhưng hai mắt vẫn không rời người lính tiền đạo của địch. Chậm chậm, như có ma xui quỷ khiến, anh nâng khẩu Uzi, tì lên tảng đá, và nheo mắt nhắm.
Gulliver gạt mạnh khẩu súng qua một bên. "Đừng!" anh rít lên. "Muộn quá rồi! Chúng sẽ biết ta ở đâu. Đi thôi. Đi ngay!"
Hai người lom khom cúi mình, bước đi thật nhanh và thật lặng lẽ, muốn chạy mà không dám chạy. Gulliver tìm lối tránh xa con đường mòn, thỉnh thoảng áp tai xuống đất cố tìm nơi nào không có tiếng Việt cộng nho nhỏ gọi nhau, nơi nào vòng vây chưa khép kín. Anh đã tắt máy truyền tin, sợ có tiếng Coughlin gọi sẽ khiến họ bị phát giác.
Gulliver ngạc nhiên thấy Swain theo mình nhanh nhẹn và lặng lẽ như không, mặc dầu hai bàn chân sưng vù và rướm máu. Bao nhiêu đau đớn giờ đây không ảnh hưởng gì tới bản năng sống còn và kết quả những tháng ngày huấn luyện.
Họ rảo bước lặng lẽ và thận trọng, dù không có thì giờ dừng chân, suy nghĩ đắn đo. Gulliver tiến tới không chút ngập ngừng. Anh cũng phản ứng theo bản năng và do luyện tập, nhưng cũng do kinh nghiệm nữa. Trước kia anh đã từng gặp những hoàn cảnh như thế này, và anh hiểu rằng mọi chuyện rất giản dị. Hoặc là anh đúng, hoặc là anh sai. Nếu anh đúng, họ sẽ có cơ may...còn nếu sai tức là họ đã tới số. Có thế thôi! Chiến tranh là như thế.
Đi được ba trăm thước thì Gulliver tin rằng họ sẽ thoát. Họ đã ra khỏi vòng vây, họ đi giữa một vùng những tảng đá lớn xen trong cây cối rậm rạp, và chỉ nửa giờ nữa trời sẽ hoàn toàn tối đen. Bây giờ chỉ còn việc lần mò xuống đáy thung lũng, tìm một chỗ tốt ẩn náu qua đêm, và sáng ra thì gọi trực thăng bốc họ về.
Gulliver đã quên không để ý tới điều bất thường là vào lúc trời chiều này loài khỉ trong rừng lại hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Anh vừa đưa tay định giúp Swain leo xuống một con dốc trơn trượt thì hàng loạt đạn nổ. Loạt đạn thứ nhất làm bể một tảng đá ngay bên đầu Gulliver, những mảnh vụn văng như mưa vào mặt anh. Đến loạt đạn thứ hai thì anh cảm thấy nhói bên sườn như có một thanh sắt nung nóng đâm vào.
Khi súng vừa nổ, Swain buông tay và té phịch xuống chân dốc, ê ẩm toàn thân nhưng không hề hấn gì. Anh lồm cồm bò dậy, lắc mạnh đầu cho tỉnh táo, nhưng Gulliver đã té sấp xuống ngay trên mình anh.
Gulliver nằm sóng soài trên mình Swain bất động. Anh đưa tay rờ bên sườn và thấy tay mình dính đầy máu. Vết thương đau đớn nhưng không trí mạng. Viên đạn đã xuyên vô từ phía sau, làm gẫy một xương sườn rồi trổ ra ngoài, không chạm đến bộ phận nào. Đầu óc anh vẫn tỉnh táo để biết rằng viên đạn cũng đã khiến anh mất hết túi thuốc của anh.
Súng ngừng nổ. Thế nào cũng có kẻ đi tìm xem kết quả ra sao. Gulliver biết anh không thể chần chờ ở đây được. Anh ráng sức gỡ bỏ máy truyền tin trên lưng và đưa tay rờ Swain. Không thấy vết thương nào, mạch vẫn nhảy mạnh, chắc Swain bất tỉnh mà thôi. Anh nắm chân Swain kéo xuống khe, hai bàn tay đầm đìa máu, máu của chính anh và máu ở hai bàn chân Swain. Đầu Swain va vào các tảng đá, nhưng anh không làm sao khác được. Mỗi lần kéo thân xác hộ pháp của Swain sườn anh lại đau nhói, khiến anh ngất ngư.
Tuy thế anh vẫn kéo Swain đi, ngay cả lúc anh tưởng mình không còn hơi sức đâu mà kéo nữa. Và rồi anh tìm ra một lối thoát khỏi khe núi, tới một giải đất bằng phẳng rải rác những lùm cây. Anh kéo Swain qua, và tới lúc nghĩ mình sắp xỉu, chui vào một bụi rậm ẩn thân cùng gánh nặng của mình.
Swain thân thể vẫn lạnh ngắt nhưng hơi thở đã đều hòa. Gulliver xé cái áo rách bươm của mình tự băng bó vết thương. Anh đã mất khá nhiều máu, và phải cố gắng lắm mới giữ được thần trí tỉnh táo. Băng bó xong anh nằm dài xuống thở rốc. Và bây giờ anh mới nghĩ ra cả hai người đều tay không. Anh đã mất khẩu súng săn của anh lúc bị té. Cả súng của anh cũng như khẩu Uzi của Swain đều rớt lại chỗ cũ, cùng máy truyền tin.
Gulliver nghĩ ngợi rất lung. Tổ đại liên của địch -- xạ thủ và người nạp đạn -- có thể chỉ là một tổ đơn độc, chắc địch bố trí một tổ như thế trên mỗi lối mòn. Chủ lực của địch chắc cũng phải một thời gian nữa mới tới được, còn bây giờ chỉ có hai tên mà thôi. Nhưng hy vọng vừa loé lên lại vụt tắt ngay. Họ không có khí giới thì hai tên hay một trung đoàn cũng thế mà thôi. Đầu óc Anh Hàng Cát rỗng tuênh toang, chẳng tìm ra một mưu kế nào.
Về phần những kẻ săn đuổi Gulliver, nếu như Anh Hàng Cát ở vào địa vị họ anh sẽ chờ có tăng viện trước khi khởi sự lùng kiếm. Họ, họ đã không chờ, họ lại còn lầm to nữa là không cùng đi với nhau. Gulliver nghe thấy tiếng một người, một người, và khi nheo mắt nhìn qua bụi gai anh thấy một người lính Việt cộng đơn độc đi từ bụi này đến bụi khác, dùng súng gắn lưỡi lê đâm vào từng bụi.
Người lính dường như không chút ngờ vực mình có thể bị phục kích. Hẳn y và đồng đội đã tìm ra hai khẩu súng bỏ rớt lại. Và trời thì quá tối nên y không thấy được những vết máu dẫn thẳng tới nơi Gulliver ẩn náu. Gulliver, đầu óc càng lúc càng ngất ngư, không dám nghĩ tới phản kích. Anh không còn sức để chế ngự kẻ địch. Anh nằm yên, chỉ còn biết hy vọng ngọn lưỡi lê sẽ trật đích. Anh cảm thấy Swain cựa quậy và vội lấy tay bịt miệng anh chàng bự con, la thầm trong đầu: "Chớ la, đồ khốn!" Gulliver chưa bao giờ cảm thấy tuyệt vọng đến thế. Anh uất ức muốn khóc.
Trời đã gần tối đen, nhưng Gulliver vẫn nhìn thấy rõ bóng người lính Việt cộng in lên nền trời, thấy y lại gần, thấy y giơ súng lên, thấy ngọn lưỡi lê dài loáng lên như một ánh trăng. Anh nhắm mắt lại và tưởng tượng mình vẫn còn nhìn thấy được...thấy ngọn lưỡi lê đâm tới tim mình...rồi được rút ra đẫm đìa những máu...thấy lỗ hổng hình ba góc chiếc lưỡi lê chế tạo tại Trung Quốc để lại trên ngực mình...thấy hồn mình như một luồng hơi trắng, bốc lên cao, bay đi xa. Anh đã gần bất tỉnh, vừa do đã mất máu nhiều, vừa do một cơ chế tự vệ của tâm trí không muốn chứng kiến tàn cục của chính mình.
Nhưng đúng lúc đó anh nghe thấy một tiếng cách cách, rồi một tiếng ặc ặc. Anh cố gượng mở mắt -- những năm tháng huấn luyện đã khiến anh mau chóng nhận biết những tiếng động bất thường. Tuy nhiên khối óc mờ mịt của anh không hiểu rõ những gì anh thấy. Người lính Việt cộng đã buông rơi khẩu súng, và hai bàn tay y níu lấy cái gì đó sau lưng. Một thanh K cắm ngập vào dưới nách y tới tận cán. Khi được rút ra, lưỡi dao nạo vào xương phát ra âm thanh rợn người. Máu ộc ộc phun ra như người ta vừa rút nút một thùng rượu. Gulliver vẫn không hiểu gì, cho đến lúc người lính ngã xuống, cho anh thấy kẻ đã giết y. Anh thều thào: "Anh...đấy ư...", và toan gượng đứng lên.
"Ngồi yên!" Đặng tra thanh K vào vỏ anh vẫn mang bên trong áo, vạch bụi rậm bước vào. "Đau ở đâu?" Gulliver lắc đầu đáp: "Anh ...cẩn thận. Còn một tên nữa, cũng gần đây thôi."
"Hắn cũng chết rồi." Đặng tự tìm ra vết thương của Gulliver, rắc bột sulfa lên và buộc lại. Anh kéo ra sợi dây vẫn đeo quanh cổ, bẻ mũi ống moọc-phin, nhanh nhẹn chích vào đùi Gulliver.
Liều thuốc công hiệu như sấm sét. Chỉ có mấy giây đồng hồ là Gulliver hết cả đau đớn, và thế giới quanh anh trở nên như mộng ảo. Không còn gì là cấp bách, là khó khăn, là quan trọng nữa. moọc-phin màu nhiệm làm sao! Còn hơn cả những viên thuốc của anh. Còn hơn cả nha phiến nữa. Gulliver cười ngây dại.
Anh mơ hồ nghe thấy, như từ một cõi xa xăm, Swain rên lên một tiếng và gượng ngồi dậy. Swain cũng còn ngẩn ngơ và đang cố định thần. Rồi trông ra Đặng, rồi cái xác người lính Việt cộng.
Đặng! Hắn từ đâu...Ai đã...Hắn từ đâu tới vậy? Ai đã thịt hắn vậy? Anh hả?" Swain lại nhìn ra Gulliver, nhìn thấy mình Gulliver đầm đìa máu. "Ô mà, ảnh có sao không?" anh hỏi Đặng.
Gulliver cười lên the thé. "Harry có sao không? Đã đủ hắc búa cho Harry chưa? Tôi tên là...Harry thì tất tôi...thích những trò...hắc búa chứ."
"Cần máu," Đặng trả lời Swain. Anh nói tiếng Việt với Swain, dấu hiệu duy nhất cho thấy anh chắc bồn chồn lắm.
"Hả? Anh nói sao?"
Ảnh cần máu," Đặng nhắc lại bằng tiếng Anh. "Ảnh bị chấn thương vì mất máu nhiều. Trung úy có đủ khoẻ cõng ảnh đi không?"
Ơ, chắc không đâu," Swain rên lên nho nhỏ. "Tôi đau chân lắm."
Đặng lạnh lùng nhìn Swain. "Vậy thì tôi cõng ảnh. Này cầm súng của tôi. Ta phải đi thôi."
Gulliver cảm thấy mình được nhắc lên, nằm vắt qua vai Đặng như một tấm thảm cuốn lại. Mặt đất bắt đầu chuyển động dưới đầu anh lắc lư. Tuy nhiên anh không hề thấy đau đớn. Anh muốn cười lên vì không cảm thấy đau đớn gì, nhưng anh chỉ cười nụ mê mệt mà thôi. Dù lúc này, bao năm tháng huấn luyện vẫn nhắc anh phải biết giữ yên lặng.
Anh áp ngực vào tấm lưng rộng và ấm của Đặng và nhắm mắt lại. Anh cảm thấy sung sướng. Bình yên. Trong tay người tin cậy.