Cuộc nói chuyện với bí thư tỉnh ủy, các cuộc hội họp, trao đổi căng thẳng và bao nhiêu công việc bề bộn chuẩn bị cho đại hội thành lập hội nhà văn gần kề không làm Hoài quên được nỗi xốn xang do buổi từ biệt Sơ Huyền gây ra. Nỗi đau nhức như một lời tự vấn nghiệt ngã. Phải chăng anh là kẻ hèn nhát, thậm chí phản bội, không dám sống trung thực với mình khi gặp lại Sơ Huyền sau hai mươi năm xa cách mà anh đã không thôi tưởng vọng?
Phải chăng anh nên tự nén lòng, dập tắt ngọn lửa xưa cũ để sống trọn vẹn với Vy, người vợ đã yêu thương và hy sinh cho anh nhiều nhất hơn bất cứ ai trên đời này? Nhưng tình cảm không phải là điều có thể tính toán và khéo léo sắp xếp gọn gàng ngăn nắp trong tâm hồn như sắp xếp đồ vật trong gian phòng. Tình cảm như con ngựa bất kham chợt lồng lên, như cơn gió lốc tự dưng xoáy tròn bốc cao đến tận trời xanh, như hoa nở về đêm âm thầm tỏa hương, như sương mù mỗi sớm mỗi chiều trên xứ sở này cuồn cuộn dâng lên rồi lại lan đi trong khoảnh khắc. Thế nào là trung thành và chung thủy khi vợ chồng nằm bên nhau, đầu gối lay ấp mà vẫn, "đồng sàng dị mộng"? Chao ôi, sao anh suy nghĩ quẩn quanh lắm thôi? Đúng anh là con ngựa hoang đã bị xiềng. Tuổi hai mươi anh tung bờm trong gió lộng thảo nguyên nhưng ở tuổi bốn mươi, anh không dám cúi xuống cả bãi cỏ non trước mặt. Anh mất tự do rồi sao? Có thể nào cuộc đời, hôn nhân, yêu thương, trách nhiệm đã làm anh trở nên một tên nô lệ thảm hại, dù là một tên nô lệ tự nguyện?
Một tuần sau khi Sơ Huyền di, nhân cơ quan có công tác phải cử người đi Sài Gòn, Hoài quyết định nhận việc đi này để đuổi theo Sơ Huyền vì hôm trước cô nói đoàn của cô sẽ về miền Nam một tuần trước khi ra Trung.
Trên chuyến xe khách chạy như điên cuồng, Hoài lại thấy mình bắt đầu cuộc đuổi bắt. Từ thuở mới mười sáu tuổi, anh đã bắt đầu cuộc đuổi bắt này và hầu như suốt đời, anh là kẻ không bao giờ tới đích. Phải chăng anh đã đuổi bắt ảo ảnh, một cái gì gần với tuyệt đối và hư vô, những khái niệm không xác định được nội dung, hay chỉ là nỗi niềm khao khát của một đời người? Mười tám tuổi, anh đến với Sơ Huyền như người tận gặp chân lý nhưng chính anh đã buông thả, rồi anh lại thấy mình lầm lẫn trong việc buông thả này vì đã không nhận được "bản lai diện mục" của điều anh đang nắm giữ. Khi anh tỉnh ngộ, con chim xanh đã bay xa trong cõi trời bát ngát. Và hôm nay khi bất ngờ con chim bé nhỏ đến đậu trên vai anh, hót lên những âm thanh xưa cũ, anh lại một lần nữa dại dột để nó vuột khỏi tầm tay.
Quá trưa, xe đến Sài Gòn, việc đầu tiên là Hoài nhảy lên một chiếc xe Honda ôm, phóng tới nhà khách trung ương, nơi cán bộ các tỉnh thường ở khi đi công tác qua đây. Anh vừa hỏi, người thường trực không cần mở sổ đã mau mắn trả lời là đoàn của Sơ Huyền có ở đây và vừa đi sáng nay xong. Hoài hỏi đi hỏi lại mấy lần như không tin làm ông thường trực phải gắt lên, dí cuốn sổ có danh sách của đoàn Sơ Huyền vào mắt Hoài cho anh xem vì ông ta vừa làm thủ tục cho họ xong nên nhớ rất rõ.
Hoài thần thờ một lúc rồi quyết định đăng ký ở lại nhà khách này, nhanh chóng giải quyết công việc cho cơ quan nội trong buổi chiều để hôm sau có thể đi ra thành phố Biển, nơi theo lời Sơ Huyền nói, đoàn của cô sẽ nghỉ lại vài hôm trên đường về. Anh quyết tâm sẽ không đề lờ trong cuộc đuổi bắt đã quá muộn này. Sau gần một ngày nhồi xóc trên chuyến xe đò thổ tả, Hoài tìm đến trụ sở hội nhà văn của thành phố Biển, nơi đoàn đã đến đây, nghỉ lại, nhưng cùng vừa ra đi lúc sáng. Thế là một lần nữa Hoài lại chậm chân. Anh đành phải bỏ cuộc vì nếu tiếp tục đuổi theo, anh phải đi gần một ngàn cây số nữa, về tận thành phố Thơ của Sơ Huyền, trong lúc không có điều kiện về thời gian và tiền bạc nên dù có điên rồ anh cũng không làm được. Tối hôm đó Hoài đi lang thang đến quá nửa đêm rồi về nghỉ tại phòng khách của hội nhà văn, nơi đoàn của Sơ Huyền đã ở. Anh đã ngồi nơi chiếc bàn nhìn ra cửa hướng về phía biển cho đến tận hừng đông để lắng nghe tâm thức của mình.
Hình như trong buổi chia tay ở thành phố Sương Mù, trong nỗi đắng cay và tuyệt vọng, em đã có nói: "Dù sao đi nữa, em vẫn tin rằng, một ngày nào đó, một nơi nào đó, chúng ta sẽ lại gặp nhau, dù sau bao lâu đi nữa, có thể là sau cả sự lãng quên". Có phải đó là lời hẹn thề của em, một lời hẹn thề ở chốn hư vô và nay đang bay tan trong gió? Tôi đã đuổi theo em, đã đi tìm em theo lời chỉ dần mơ hồ của những ngọn gió đã tan tác trong không gian xanh cao vời vợi.
Nơi đây, ngọn gió biển phóng khoáng có vị mặn nòng nàn thổi thiên thu này không có em. Trong muôn triệu ánh sao nhấp nháy trên bầu trời lòng lộng này không có em. Trong những cặp tình nhân khăng khít trong bài cát dài dịu dàng bao dung về đêm này không có em. Trong những bước chân một mình bơ vơ tôi đã đặt xuống thành phố biển này không có em. Trên chiếc giường nhỏ đơn sơ nơi em đã nằm trong phòng khách này không có em. Bên cánh cửa lúc hừng đông nơi em đã ngồi trang điểm mà dư hương như vẫn còn phảng phất không có em.
Hôm nay, ở đây, chính là một ngày nào đó, một nơi nào đó, trong thời gian và không gian, tôi đã tìm em. Tôi đã tìm em những nơi em đã qua. Những lời hẹn thề của em đã bay lan trong gió. Và tôi chỉ tìm thấy tôi - hay chính là tôi đã đi tìm tôi - giữa chốn hư vô.