Với tư cách là sĩ quan tham mưu biệt bộ, Luân tháp tùng đại sứ Nolting trong chuyến thị sát đồng bằng sông Cửu Long đầu tiên của ông ta. Nolting sẽ đến và sẽ nghỉ đêm ở Cà Mau, tỉnh lỵ An Xuyên. Sự chọn lựa một tỉnh tận cùng đất nước Việt Nam, nơi mà Việt Cộng hầu như kiểm soát toàn bộ xóm làng có một ý nghĩa phô trương rõ rệt vai trò cá nhân của đại sứ - Nolting muốn bản báo cáo của mình gởi về Tòa Bạch Ốc phải sinh động. Ngoài Luân, tháp tùng đại sứ còn có đại tá Lâm, ở Bộ tổng tham mưu. Lâm không thân với Luân mặc dù hai người giống nhau ít nhiều về điểm liên hệ với “phía bên kia”. Cha Lâm, một nhà giáo, từng là chủ tịch ủy ban Liên Việt tỉnh Cần Thơ trong kháng chiến và nay tập kết ra Bắc, làm một việc gì đó ở Hà Nội. Chị ruột Lâm cùng tập kết với cha và chồng là một sĩ quan Bắc Việt.
Năm 1945, Lâm đang học ban tú tài, theo Thanh niên Tiền phong, bị Pháp bắt trong một trận càn, thấy anh ta là học sinh, tống lên Trường võ bị Đà Lạt và năm 1947, ra trường với cấp thiếu úy trừ bị. Cũng năm đó Lâm và một số bạn tốt nghiệp Trường võ bị Đà Lạt như Quách Sến, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Trần Đình Lan rủ nhau ra bưng biền. Họ đầu quân dưới trướng Trần Văn Trà, Khu bộ trưởng Chiến khu 8 và được phân công huấn luyện Trường quân chính khu. Chưa xong một khoá, chịu cực không nổi, Nguyễn Khánh chủ trương trốn về thành. Trước khi trốn, Khánh dự định đánh cắp tài liệu, súng đạn và ghi chú các căn cứ Khu 8, nói là để khỏi bị Tây xử bắn về tội đào ngũ. Không rõ các người khác trong bọn đồng ý hay không dự định của Khánh, riêng Lâm không tán thành. Chịu cực không nổi thì trốn, đừng làm chuyện do thám gián điệp. Sau này, Lâm biết Nguyễn Khánh hành động theo bố trí của Phòng nhì Pháp. Từ đó, ở đâu anh cũng chửi Nguyễn Khánh; hai người đoạn giao.
Về thành, Lâm trốn một lúc. Người chị - bấy giờ chưa đi kháng chiến, là một hộ sinh nổi tiếng - vận động cho Lâm sang Pháp. Lâm chọn nghề cơ khí, đang sửa soạn vào trường thì tông tích bại lộ. May mà người đỡ đầu Lâm, một chính khách có cỡ ở Paris, đã xoay cho Lâm khỏi tù, nhưng phải vào học Trường thiết giáp của Lục quân Pháp mở ở Oran - Bắc Phi. Hết khóa, Lâm được giao hoàn cho Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương với hàm trung úy. Năm 1952, Lâm tòng sự tại võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại mà Chánh võ phòng là thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh. Trong vòng ba năm, Hinh từ thiếu tá Chánh võ phòng leo lên thiếu tướng Tổng tham mưu khi Pháp đầu hàng trong trận Điện Biên Phủ. Lâm không làm gì cả, vẫn mặc nhiên được thăng cấp. Khi Diệm nắm quyền, Hinh đeo lon trung tướng và Lâm, trung tá. Nhưng, từ 1954 đến nay, 7 năm trời, anh ta chỉ nhích lên mỗi một cấp. Có thể hai lý do đã ghìm chân Lâm: lai lịch gia đình và mối quan hệ với tướng Hinh. Hoặc, nếu cần, thêm lý do thứ ba: tướng Hinh dan díu với một nữ ký giả thường viết các phóng sự chiến trường ký tên Tú Vân - hiện thời, cô đang học môn kinh tế ở Đại học Berkeley; chồng cô, một quan chức Mỹ có quyền thế trong cơ quan USOM - Tú Vân không thích Lâm vì Lâm hay bêu rếu mối tình vụng trộm của cô. Chỉ đôi lần, Lâm đảm nhận chức vụ cầm quân, còn nói chung, ngày này qua ngày khác anh ngồi trước chồng báo cáo cao nghệu bên trong vòng rào Bộ tổng tham mưu.
Bỗng trở thành kẻ bất đắc chí, hay gây gổ, Lâm thích rượu mạnh ngang với xem đua ngựa.
Dĩ nhiên Luân biết Lâm qua bác sĩ Tuyến. Trong công vụ, họ gặp nhau luôn song chưa bao giờ hai người uống rượu tay đôi hoặc ngồi tán dóc. Lâm biết Luân - chắc vậy; anh ta đánh giá Luân như thế nào thì Luân chưa nghe.
Tướng Mac Garr đi cùng với Nolting. Thật ra, Mac Garr không cần phải đi. Nhiệm vụ của ông ta vừa chấm dứt, trong khi chờ đợi người thay thế sang để bàn giao, ông đi dạo một chuyến để “chào vĩnh biệt các bãi lầy” - như ông nói. Nolting mời ông cùng ngồi chung chiếc Highlifter Bell, loại trực thăng có thể bay cao 3.000 thước, 15 chỗ ngồi - còn rất hiếm ở Nam Việt.
Chuyến thị sát rời Tân Sơn Nhứt vào một buổi sáng mà Nha khí tượng cam đoan là không có mưa.
Sân bay Tân Sơn Nhứt chìm trong tiếng động nhứt tai của đủ loại máy bay lên xuống, nhất là những chiếc AD6 vừa tiếp nhận - loại chiến đấu cơ mang tên rất cao bồi “Skyraider” - càn quét xứ trời! AD6 được quảng cáo như loại máy bay ưu việt đối với chiến tranh chống du kích.
Nolting, nón panama, quần tropical, sơ- mi ngắn tay, xuống xe gần ngay chỗ máy bay đỗ. Mac Garr đến trước Nolting hai phút, đi đi lại lại trên nền bêtông với vẻ mặt cau có.
Nolting vừa ra khỏi xe, một đại úy dong dỏng cao, trạc tuổi 30, mắt như ngái ngủ, để râu mép, đứng nghiêm:
- Tôi, đại úy Nguyễn Cao Kỳ, xử lý thường vụ Bộ tư lệnh không quân, có mặt!
Giọng của đại úy Kỳ khàn khàn có phần lè nhè, nói tiếng Anh chưa chuẩn, pha nhiều âm sắc Pháp.
Thật sự, Nolting đi thị sát còn khá nhiều người thuộc Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng… cấp bậc cao hơn một đại ý, nhưng giữa lúc mọi người nhường nhau thì Cao Kỳ ngang nhiên ưỡn ngực lên tiếng trước.
Nolting bắt tay Kỳ, cám ơn. Và vẫy chào xã giao số người ra tiễn. Kỳ đưa Nolting khá sỗ sàng - kiểu đôi bạn cập kè - lại cầu thang máy bay. Y ta bước lên bậc thang, ý chừng muốn đưa Nolting tận chỗ ngồi. Nhưng, một trung tá Mỹ đã sỗ sàng không kém, gạt phắt Kỳ, nói trong cổ họng:
- Đi chỗ khác chơi!
Từ đầu, Luân đã để ý lối ngóc đầu kiếm chác của viên đại úy chưa mấy ai biết tiếng này, nhưng anh lặng lẽ theo dõi. Ngành không quân mới xây dựng, Mỹ chăm sóc nó. Số sĩ quan trẻ được đạo tạo gấp rút và Kỳ là một trong những phi công nắm khá sớm các loại máy bay kiểu mới - do vốn học ở Marrakeck và Avord của Pháp và được bổ túc ở Air Commandant Staff School Mỹ.
Đại tá Lâm, trái lại, bốp chát luôn!
- Nè, chú mày có biết thằng trung tá Mỹ bảo cái gì không? Nó bảo chú mày cút đi… Mặt dày hơn da trâu!
Anh ta bảo Kỳ lúc bước lên trực thăng. Kỳ không phản ứng, gã mải ngó theo Nolting.
Mọi người trên máy bay làm quen với nhau: ngoài Nolting, Mac Garr, đại tá Lâm, trung tá Luân, trung tá Tony Forting - cận vệ của Nolting, trung tá Thomas Hayden - cận vệ của Mac Garr, ba quân cảnh Mỹ và phi hành đoàn - một đại tá chỉ huy, hai lái, một hoa tiêu và một nhân viên vô tuyến điện, đều người Mỹ, dĩ nhiên.
Các tuỳ tùng khác và quân cảnh đi trên chiếc Chinook và hai chiếc Sikorsky. Đoàn trực thăng được cả một lực lượng hùng hậu hộ tống: một trinh sát cơ L19, ba trực thăng chiến đấu HU-1A, ba chiếc AD6.
Nolting khẽ nhún vai khi Tony Forting báo cáo về kế hoạch yểm trợ - ông làm ra vẻ không thấy cần thiết phải sử dụng nhiều máy bay như vậy.
- Cùng đi với đại tá Lâm và trung tá Luân là quá đảm bảo. Phải không?
Tony Forting lắc đầu:
- Thưa, lộ trình của chúng ta qua các vùng nguy hiểm!
Nolting nheo mắt:
- Ông quên là chúng ta bay trên trời?
- Thưa, vì vậy, chúng tôi lựa loại máy bay có độ cao an toàn.
- Ồ! - Nolting lại nhún vai - Thế thì còn trông thấy gì ở dưới mặt đất? Ông nên nhớ chúng tôi thích một buổi du ngoạn hơn là chui vào cái hộp thép này… Bay thấp một tí, được không?
Mac Garr mỉm cười. Luân, không khác gì Mac Garr song giữ vẻ mặt rất bàng quan. Bởi vì Nolting đưa ra một đề nghị mà thừa biết ông ta sẽ mãn nguyện: viên đại tá trưởng phi hành đoàn lắc đầu.
Chong chóng quay tít, máy bay nhấc bổng và trong vài phút, Sài Gòn lùi vào phía sau họ. Con đường số 4 hiện rõ như một vệt đen và máy bay, tuy trên lưng chừng cao, vẫn bám trục lộ được canh giữ nghiêm mật này.
Nolting xoay người, nhìn qua cửa kính cánh đồng bằng bát ngát. Mac Garr tựa cằm lên nắm tay, lim dim mắt. Nhiệm vụ trưởng phái bộ quân sự của Mac Garr chấm dứt không mất vẻ vang: khi ông thay Williams, Việt Cộng không nhiều bằng khi Harkins thay ông. Chưa ai nêu lên một nhận xét công khai về ông, song người ta đã thông báo: đại tướng Paul Harkins sẽ kế tiếp nhiệm vụ ở đây với tư cách mới: chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự viện trợ. Nghĩa là ông chỉ xứng đáng làm một cố vấn, Harkins thì là một tư lệnh chiến trường.
Luân ngồi đối diện với Mac Garr. Ông ta sực nhớ lần đến Bến Tre. Đại úy Nguyễn Thành Động đã cho ông ta một bài học.
- Khó chơi lắm! - Mac Garr bỗng làu bàu. Tất nhiên, Luân hiểu Mac Garr than “khó chơi lắm” với cái gì. Còn hồi đến Bến Tre, Mac Garr rất trịch thượng. “Các anh không được quyền chui tọt vào chăn, lẩn tránh Vixi như con đà điểu…” Ông ta đã nói như vậy. Co cả thân hình lực lưỡng vào chiếc ghế, Mac Garr giống con đà điểu thật! “Ái chà!”, Mac Garr kêu lên. Nolting quay lại.
- Gì thế, đại tướng? Ông cảm cúm à?
Mac Garr vẫn không đổi tư thế:
- Đại tướng (1)? Ông đại sứ kết thêm sao cho tôi đấy? Tôi bảo là khó nhá… Với bọn Vixi, khó nhá…
- Thế theo tướng quân, với ai thì dễ nhá? Mọi da đỏ chăng?
- Tôi nói nghiêm chỉnh đấy, ngài đại sứ. Tôi sắp rời Sài Gòn, còn ông, ông đứng lại, ít ra cũng vài năm. Các nhà chính trị có nhiều cách lý giải các hiện tượng. Cùng lắm, các ông ngồi thương lượng với đối phương. Như ở Bàn Môn Điếm bên Triều Tiên. Rồi, có khi các ông còn ôm hôn thắm thiết đối phương nữa. Chúng tôi không được quyền như vậy. Chúng tôi phải đánh và có mỗi nhiệm vụ đánh thắng… - Mac Garr nhắc những chữ “chúng tôi” vừa liếc Lâm và Luân, có ý như kéo những sĩ quan Việt Nam có mặt về phe ông ta… - Nhưng, đánh bằng cái gì? Nước bọt ư? Tôi từng bảo ông Durbrow: Hãy ghi vào báo cáo và cứ cách nhật báo cáo một lần về Ngũ Giác Đài. Súng, lính! Bấy nhiêu thôi. Ông Durbrow không dám. Khi Phó tổng thống Johnson đến Sài Gòn, ông ta còn làm ra bộ là người hiểu biết khoa học quân sự: Súng tất nhiên là cần, song vẫn cần người chỉ huy hơn. Ông ta nhận xét với Phó tổng thống trong lúc tôi cố sức chứng minh rằng thiếu súng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân…
Mac Gar sửng cồ hẳn:
- Chưa tới thời để các nhà ngoại giao dạo các bản nhạc du dương… Hãy để chúng tôi nói. Mac Arthur đấy, không để cho ông ta nói, quân Liên hợp quốc đến vĩ tuyến 38 là cùng. Chết cả triệu nhân mạng để rồi quay trở lại đúng cái nơi, thuở mà chưa có một người Mỹ nào chết cả…
- Tướng quân tự ví mình hơi quá đấy! - Nolting châm biếm - Mac Arthur là con người mà ngay Dick(2) cũng nể…
- Giá Mac Arthur ra tranh cử tổng thống, chưa chắc đã thua Eisenhower!
- Ồ! Tướng quân lập luận lạ thật. Nếu trường hợp giả định của tướng quân xảy ra, biết đâu Mac Arthur không xử sự hệt Eisenhower? Tướng quân muốn vượt vĩ tuyến 17?
- Tôi chưa thấy biện pháp nào hứa hẹn hơn…
Luân nhìn xuống đất: thị xã Vĩnh Long ẩn hiện. Anh bảo nhỏ đại tá Lâm, nhưng cũng cố ý cho Nolting và Mac Garr nghe:
- Quê tôi đây rồi!
Luân đã can thiệp đúng lúc: cả Mac Garr lẫn Nolting muốn chấm dứt cuộc cãi chài cãi cối vô vị, nhưng không biết chấm dứt như thế nào. Mac Garr nói đến Bắc tiến, song Luân biết cái đầu của viên tướng thất sủng này trống rỗng.
- Thế à? Đâu nào? - Nolting quay người lại, làm như chăm chú quan sát.
- Ngay ngã ba sông, phải không? - Mac Garr nói theo - Kìa, phía kia là Kiến Hòa… Tôi nhận ra rồi.
Đại tá trưởng phi hành đoàn mở bản đồ, chỉ chỗ mà trực thăng đang lướt qua.
- Thế Đồng Tháp Mười đâu? - Nolting hỏi.
- Thưa, chúng ta không bay trên Đồng Tháp Mười.
- Tiếc quá… Cái gì kia? - Nolting kêu lên khi thấy một số dân chúng tụ tập ven lộ 4.
Luân biết là dân chúng đang bị lùa xây ấp chiến lược.
- Việt Cộng? - Nolting lại hỏi, hơi mất bình tĩnh.
- Không phải! - Mac Garr tỏ ra thành thạo - Ven quốc lộ, làm gì có Vixi giữa ban ngày…
- Biết đâu! - Nolting thốt xong, biết mình hố, im bặt.
Mac Garr cười khẩy:
- Hòa Hảo là cái gì? - Nolting lại hỏi cho đỡ ngượng.
Mac Garr giả bộ không nghe, trỏ phía trước:
- Sắp đáp xuống Trà Nóc.
*
Nolting chỉ ở Trà Nóc nửa giờ. Đại tá cố vấn Mỹ và đại tá tư lệnh sư đoàn 21 Trần Thiện Khiêm mời khách dạo Cần Thơ một vòng, Nolting hứa sẽ làm việc đó khi trở lại, trưa ngày mai. Luân để ý đại tá Lâm và Khiêm gặp nhau - họ là bạn - không mặn mà, Lâm bắt tay Khiêm rồi tìm chỗ ngồi tách biệt.
Trực thăng tiếp tục bay trên lộ 4. Suốt đường bay, kế hoạch lập ấp chiến lược đang bắt đầu rất khẩn trương. Từ trên máy bay, Luân thấy nhiều cụm khói dày đặc - hẳn là quân đội đang đốt nhà dân. Đây là một kế hoạch tàn bạo - lùa hàng triệu người vào các chu vi ven lộ, thị trấn, dùng dân vệ canh phòng, bỏ ngõ các vùng khác cho máy bay pháo kích tự do. Kế hoạch do Nhu vạch, anh ta đã đưa cho Luân xem bản thảo và Luân lờ không góp ý kiến. Bản thảo được chụp ảnh và gởi cho anh Sáu Đăng.
Thật ra, kế hoạch của Nhu vẫn còn ở mức nguyên tắc. Chính Staley và Vũ Quốc Thúc chi tiết hóa bản kế hoạch, với sự đóng góp của Mai Hữu Xuân và cơ quan tình báo.
Bây giờ, Luân thấy cái lợi hại của kế hoạch đó. Anh tiếc là đã không chú ý đến nó sớm hơn. Quả gã đại tá người Anh Thompson đã bày ra trò nguy hiểm này.
Ấp chiến lược khác khu trù mật, đúng như Nhu phân tích - khu trù mật kềnh càng còn ấp chiến lược, theo tên gọi, lấy ấp làm đơn vị. Phá khu trù mật cần một đơn vị vũ trang đánh mạnh, như Luân chứng kiến ở Vị Thanh và ngay ở Kiến Hòa. Còn phá ấp chiến lược cần một phong trào du kích rộng và lực lượng quần chúng - chuyện không phải có được một ngày một buổi.
- Những cánh đồng rộng! - Nolting kêu lên, máy bay đang ở trên vùng Sóc Trăng - Thế mà người ta không cày cấy… Cần lo cày cấy! Nước Mỹ không thể nuôi mãi hàng mấy chục triệu dân Nam Việt. - Nolting nói như ra lệnh. Ông ta nói không có gì sai, song Mac Garr cứ cãi:
- Làm sao cày cấy? Ai cày cấy? Ngài quên là cả chúng ta lẫn Việt Cộng đang trong tình trạng chiến tranh.
- Chiến tranh vẫn phải cày cấy… Nhịn đói đánh giặc được sao?
- Chúng ta tranh luận trong phạm trù nào, thưa ngài đại sứ? Phạm trù không ăn thì không làm được bất cứ việc gì. Hay phạm trù cày cấy dưới bom đạn? Trong phòng có máy lạnh và nhất là trên giấy, người ta có thể bắt cả Đức Chúa Trời khiêu vũ. Còn trên trận địa… Mac Garr cười hô hố, rất võ biền.
- Tôi có cảm giác tướng quân sang Việt Nam không một giờ nào rời tiền duyên… Thế mà! - Nolting không chịu thua.
Luân thông cảm với Mac Garr. Ông ta cay cú. Công bằng mà nói, ông ta không có tội - hoặc, chính xác hơn, tội của ông không nặng hơn tội của tổng thống Mỹ. Tuy nhiên, có một lập luận đang lớn dần, quy trách nhiệm cho tướng Mac Garr. Nolting nhúng tay vào việc bẩn thỉu đó. Rồi đây, sau chuyến thị sát, Nolting sẽ góp thêm vào lập luận những bằng chứng. Kennedy cần Mac Garr - Mac Garr phải chịu trách nhiệm về việc Kennedy bắt buộc thêm viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa chống Cộng, lẽ ra có thể không cần nếu Mac Garr giỏi hơn… Nấp sau Mac Garr, Kennedy an toàn trước quốc hội Mỹ.
Mãi đến bây giờ Luân mới hiểu toàn bộ sự việc. Bận suy nghĩ, Luân quên phứt, anh đang bay trên vùng đất quen thuộc. Khi nhớ ra, trực thăng đã sà thấp. Các mái nhà cổ lỗ của Cà Mau vụt qua…
Trực thăng đáp xuống sân bóng. Quân cảnh Mỹ chực sẵn và một sĩ quan quân cảnh làm hiệu cho trực thăng đáp đúng nơi qui định. Họ không xuống sân bay; sân bay dành cho các máy bay hộ tống.
Luân bồi hồi bước lên nền đất. Bảy năm trước, anh từ giã khu giải phóng Tây Nam Bộ và bây giờ, anh vẫn chưa thể trở về đây với tư cách cũ. Hình ảnh bạn bè, các chiến sĩ của tiểu đoàn 420 chạy qua óc anh như một khúc phim. Họ ở đâu, ra sao?
- Trình quý vị, tôi, Vũ Liệu, thiếu tá tỉnh trưởng An Xuyên có mặt.
Một người da sạm, lùn, bụng khá to, cổ nung núc thịt, bê-rê đội lệch, quân phục loang lổ, chiếc thánh giá vàng óng ánh nơi ngực, kính đen to gọng, đang đứng nghiêm.
Theo hướng dẫn của Vũ Liệu, mọi người lên một dọc xe hơi đậu ngoài bìa sân bóng.
Một thiếu phụ đứng trên thang một chiếc trực thăng sơn cờ quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mấy người lính đang lôi từ khoang trực thăng ra những thùng, những bọc. Thiếu phụ chắp tay:
- Chào quý vị ạ!
Bà đẹp, đẹp sắc sảo nữa. Tóc uốn kiểu đào hát bóng, áo dài hồng nhạt, quần sa tanh trắng.
Nolting vui vẻ vẫy tay đáp lễ, nói tiếng Pháp:
- Bonjour, madame (3)
Và, tất cả đều bị bất ngờ, thiếu phụ đáp lại, rất nhí nhảnh:
- Bienvenue, Mon Excellence Nolting!(4)
Hơn thế nữa, bà đưa mấy ngón tay lên môi, hôn gió!
Rõ ràng Vũ Liệu ngẩng đầu hơi cao. Luân biết liền: bà thiếu tá tỉnh trưởng.
Đoàn qua khỏi chiếc trực thăng, Luân còn nghe bà - bây giờ thì giọng the thé:
- Tao đã bảo, bọn mày làm hỏng hết… Đâu, giỏ cà rốt đâu? Quên rồi… Thế này nhé, đứa nào lái trực thăng lên Cần Thơ mua nhanh cà rốt… Lựa thứ thật tươi… Đồ ăn hại!
Nolting, Mac Garr và số sĩ quan Mỹ chắc không hiểu bà ta nói gì. Còn Luân, anh ngẫm nghĩ: “Cái lũ này xô cả bọn chết lẹ thôi”.
Đại tá Lâm đi cạnh Luân, môi bĩu, Luân không đoán nổi đại tá bĩu môi về cái gì…
Dinh tỉnh trưởng - ngôi nhà ọp ẹp, nhưng tiện nghi bên trong khá tốt. Vũ Liệu mời khách giải khát - bia hộp, Pepsi Cola tùy thích.
- Madame vừa rồi là ai? - Nolting hỏi.
- Thưa, vợ tôi - Vũ Liệu trả lời, kiêu hãnh.
- Ô la la! - Nolting nhướng mày, kêu to. - Ông thật hạnh phúc… Bà thiếu tá đẹp, rất đẹp!
Mũi của Vũ Liệu phập phồng. Tốp sĩ quan Mỹ tùy tùng có đứa huýt sáo, có đứa giậm chân, có đứa búng ngón tay bóc bóc…
- Như thế này, tôi muốn thăm qua nơi làm việc của thiếu tá tỉnh trưởng, nếu không quấy rầy ông… - Nolting bảo.
Vũ Liệu đứng lên:
- Xin mời!
Luân định không đi; nhưng Vũ Liệu cầm tay anh:
- Mời trung tá… Ít khi trung tá xuống An Xuyên, mời trung tá quan sát… Để còn trình với ông Cụ giúp đỡ chúng tôi. Nghèo quá, trung tá ạ!
Luân tức cười: Dám cho trực thăng bay về Cần Thơ mua mấy củ cà rốt mà than nghèo!
Vũ Liệu dẫn đoàn khách vào phòng trong, lên cầu thang. Phòng làm việc của tỉnh trưởng khá thoáng, ngó ra con kinh nhỏ. Tường treo nhiều bản đồ với các ký hiệu xanh đỏ li ti. Nolting rõ ràng hài lòng.
- Tốt! - Ông ta vỗ vai Vũ Liệu, theo lối kẻ cả. Chợt Nolting thấy một chồng sách, mỗi quyển khá dày đặt trên bàn viết. Ông ta cầm lên, ngắm nghía. Bìa sách màu sặc sỡ, hình vẽ một lão mang bị, tay co duỗi…
- Sách gì đây? - Nolting hỏi.
Vũ Liệu lúng túng. Tất nhiên, Luân biết đó là sách gì.
- Nói chuyện đánh nhau? - Nolting lại hỏi.
Vũ Liệu gật đầu bừa.
- Đánh nhau bên Trung Quốc? Ngày xưa?
Vũ Liệu lại gật đầu.
Hiểu lầm thái độ của Vũ Liệu, Nolting bảo:
- Sách khó hiểu? Không sao. Bao giờ cũng vậy, bước đầu tiếp xúc với các kiến thức phong phú, thâm trầm dễ khiến người kém nghị lực nản lòng. Vả lại, thiếu tá đừng ngại. Người Mỹ chúng tôi cho rằng đánh giặc ở phương Đông phải học sách vở phương Đông. Tôi đặc biệt phấn khởi biết một sĩ quan Việt Nam chăm chú học…
Nolting bắt tay Vũ Liệu, rồi quay sang Luân:
- Tôi thành thật chúc mừng Tổng thống Diệm!
Vũ Liệu liếc Luân thật nhanh. Luân tươi cười bắt tay cám ơn Nolting.
Đại tá Lâm, đi sau đoàn khách, lại bĩu môi. Anh ta còn chơi ác, nhè lật tập sách, đọc lẩm nhẩm. Mặt Vũ Liệu tái dần. May quá, Nolting bước ra bao lơn.
- Dãy nhà gì kia? - Ông ta trỏ dãy nhà lắp ghép sơn xám cạnh rào dinh tỉnh trưởng.
- Thưa, nhà nghỉ của các cố vấn Mỹ. - Vũ Liệu trả lời lắp bắp, quên cả cách phát âm tiếng Anh.
- Ta đến đó! - Nolting bảo.
Xuống thang lầu, đại tá Lâm hích vào vai Luân:
- Anh chưa đọc “chưởng” bao giờ?
Luân cười, không trả lời đại tá Lâm mà hỏi Vũ Liệu:
- Thiếu tá luyện môn nào? Hàm mô công hay Nhất dương chỉ hay Giáng long thập bát chưởng?
Mặt Vũ Liệu vụt đỏ rần, các nọng thịt đỏ theo.
- Té ra trung tá Luân cũng thạo Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. - Đại tá Lâm cười ục ục trong cổ.
- Tôi còn biết bộ “chưởng” đó do Hàn Giang Nhạn dịch, nhà An Hưng xuất bản, trọn bộ tám cuốn, dày lối bốn nghìn trang!
Luân trả lời, giọng vui. Anh chưa đọc, đúng vậy, song đại úy Nguyễn Thành Động thuộc làu, kể cho Luân nghe nhiều lần.
- Nhưng anh chưa biết giữa các quyển chưởng còn có cái khác. - Lâm bảo nhỏ.
- Cái gì?
- Điều lệ của đảng Đại Việt… Ông Vũ Liệu là đảng viên Đại Việt.
- Sao anh biết?
- Thì bìa điều lệ ghi: gửi đồng chí Vũ Liệu…
- Đại Việt nào?
Lâm nhún vai:
- Tới mấy Đại Việt?
- Ít ra, ba!
- Tôi chào thua… Đảng mẹ gì mà giống con hoang vậy…
Lâm cung cấp cho Luân một chi tiết quan trọng. Thì ra, Đại Việt dâm cây những chỗ khá béo bở…
Nolting đến dãy nhà lắp ghép. Nhà mới, mùi dầu thông nực mũi. Tất cả 25 gian, mỗi gian chia thành phòng ngủ, làm việc… cho một người, đủ tiện nghi, có cả máy lạnh và tủ lạnh.
Tony Forting bảo cái gì đó với Thomas Hayden. Thomas trả lời xong. Tony huýt sáo mồm.
Môi của đại tá Lâm lại bĩu dài - Luân chưa rõ lý do.
*
Sau buổi ăn trưa nhẹ, Nolting cùng đoàn tùy tùng lên trực thăng. Mac Garr không đi. Ông ta bảo đã thuộc lòng vùng đất Mũi. Hiện giờ, ông thích nhâm nhi Whisky.
Máy bay theo hướng đông nam, lướt trên thảm xanh của khu rừng đước rậm rạp, thỉng thoảng bị chia cắt bằng các con kinh phòng hộ có tự thuở nào và các con rạch uốn lượn.
Nolting không rời ống dòm. Luân quan sát bằng mắt thường. Với anh, đây là vùng đất hết sức thân quen. Anh đã chiến đấu tại đây, đã cùng đồng đội hành quân, luyện quân. Kỷ niệm một thời sống dậy mãnh liệt, da diết. Dưới tàn đước kia hẳn là những “làng rừng”, bây giờ, đồng bào không thể ở phơi ngoài trống nữa, máy bay Mỹ dữ dội hơn máy bay Pháp nhiều. Song, những “làng rừng” vẫn sống. Hẳn có họp xóm, họp đoàn thể, hẳn có đủ ca múa thiếu nhi. Rồi bộ đội lại về “làng rừng”, du kích lại tuần tra, các bà má lại lo chăm sóc đàn con đông dày, có đứa từ Bắc, từ Trung vào… Anh không thể hình dung cảnh ngày nay so với lúc anh ở tiểu đoàn 420 nhưng anh nghĩ là đại thể cũng giống nhau. Đúng ra, anh khó nhận dấu cũ - rừng rậm hơn xưa - trừ con sông Bồ Đề vẫn cuồn cuộn.
Trực thăng chếch về hướng tây nam. Một khu có vẻ là thị trấn hiện rõ lần. Nhiều hố bom; nhà cửa chỉ là đống tro đen ngòm, trừ một vài cái lác đác nấp dưới bóng cây. Thế là chợ Năm Căn không còn nữa.
- Không tốt! - Nolting kêu lên - Sao chưa bắn cháy nốt mấy cái chòi kia?
Nolting không hỏi đích danh ai, nhưng Vũ Liệu đã mau miệng:
- Vâng, tôi sẽ xóa chúng…
Mũi Cà Mau giống ngọn lao phóng ra biển cả, từng ngọn sóng ồ ạt phủ lên mõm đất nhọn rồi như hoảng hốt, giật lùi. Cảnh tượng hùng vĩ ấy không biết gợi cho Nolting cảm hứng như thế nào mà ông ta quay lại, nói với đại tá Lâm và Luân, kiểu một triết gia:
- Nam Việt là một tiền đồn, không theo nghĩa đen. Tôi từng có ấn tượng này khi xem bản đồ. Hôm nay, trên thực địa, quả tôi không lầm. Nếu các đảo Nhật Bản và đảo Đài Loan được ví như chiếc phao lềnh bềnh trên sóng biển thì bán đảo Cà Mau của quý vị chính là chiếc cầu đổ bộ rất kiên cố, chiếc cầu khổng lồ đúc bằng bê-tông cho phép nước Mỹ nối liền với lục địa châu Á. Một bàn đạp vô giá của Mỹ ở phương Đông. Tổng thống Diệm đã nói chí lý: Biên giới của nước Mỹ kéo dài tận vĩ tuyến 17.
- Hình như trước kia, trung tá Luân sống ở vùng này? - Nolting chợt hỏi.
- Vâng… Tôi chiến đấu ở vùng này - Luân trả lời, giả bộ như lơ đãng.
- Sống hay chiến đấu khác gì nhau? - Nolting cười mỉm - Thôi được, hiện giờ, dưới đó, cũng đang có những kẻ áp bàn chân lên đúng vết chân của người đi trước theo một xác tín đã thành mê tín: nước Pháp từng bại trận bởi những người đi dép bằng lốp ô tô, thậm chí, đi chân đất. Họ hiểu lịch sử như cái vòng khép kín, cố định, mặc dù họ tự xưng là phần tử duy vật biện chứng. Với họ, nước Pháp là đỉnh cao của sức mạnh. Nước Pháp đã đầu hàng độ dày của cành lá rậm rạp kia và thiên huyền thoại về chiếc áo giáp lá cây cứng hơn mọi thứ hợp kim ra đời…
Luân không ngắt lời ông ta. Nolting lại cười, với vẻ bao dung:
- Thời trung tá ngồi trong chỉ huy sở dưới tàn cây, lá cây chỉ rụng theo thời tiết. Còn bây giờ, với khoa học của nước Mỹ, việc lột chiếc áo giáp kia để nhìn tận rễ cây thì thật không có gì dễ hơn, vài chuyến máy bay với một khối lượng hóa chất nào đó, chúng tôi làm ra thời tiết theo ý muốn… Vài hôm nữa, phi hành gia Mỹ Johnson Glenn bay vào vũ trụ. Ngay các vì sao từ nay cũng khó giữ các bí mật của mình, chứ đừng nói một khu rừng…
- Tôi không nghi ngờ một chút nào về khả năng của khoa học, - Luân thấy cần nói, sau khi suy tính mức độ phản ứng - Khoa học quân sự của Mỹ và nói chung của thế giới hiện nay bắt các khu rừng để mình trần. Hơn thế nữa, bắt các khu rừng hết còn là rừng. Song, giải chiếc áo giáp của rừng với giải giáp con người có lẽ không giống nhau. Và, chúng ta quan tâm đến con người, đến sự chống đối, không phải của rừng mà là của con người.
Luân cũng cười mỉm.
Nolting gương mắt ngó Luân:
- Ồ! Trung tá hùng biện thật. Con người, hẳn trung tá muốn nhắc Việt Cộng? Theo tôi hiểu, trung tá là một chiến binh theo đúng nghĩa, thế mà chẳng lẽ hai phát đạn ở hai nơi - xin lỗi, phát thứ nhất ở một miền rừng nào, tôi không nhớ, phát thứ hai ở Bến Tre - chẳng lẽ hai phát đạn nhỏ xíu ấy đã làm trung tá hoảng? Tôi nói đùa thôi. Có lẽ quan điểm của trung tá bám chặt trung tá. Lần gặp trung tá đầu tiên, hình như tôi cũng nghe một câu tương tự… Tôi nhắc nhận xét của đại tá Thompson. Trung tá quen ông ấy?
Luân gật đầu.
- Chuyên gia chống du kích cớ lớn đấy… Đại tá nói rằng ở Mã Lai, khi người Anh cắt đứt mối đồng lõa giữa Cộng sản và rừng thì một tình huống phức tạp phát sinh: làm thế nào đủ chỗ giam giữ bọn đầu hàng?
- Binh thư phương Đông coi trọng ba mặt: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ở đây, ta không cần trao đổi về thiên thời - mỗi người hiểu mỗi phách. Cộng sản không tin có thượng đế, thiên thời đối với họ là thời thế. Về mặt này, Việt Nam Cộng hòa hội nhiều điều kiện tốt hơn Cộng sản. Nhân hòa? Các ông đang thực hiện kế hoạch Staley - Vũ Quốc Thúc, ấp chiến lược sẽ giúp các ông nắm dân.
Tổ chức toàn xã hội Nam Việt thành pháo đài, đơn thuốc đó quả của danh y. Sau chót, địa lợi. Ở đây, địa lợi là rừng. Nước Mỹ sẽ giúp các ông giành nốt địa lợi về các ông… Các ông có thể tin cậy nước Mỹ, song, dù cho quốc ca Anh có câu God save the king (5) thì phương ngôn Pháp lại dạy chúng ta: Aides toi, le ciel t’aidera (6)… Các ông phải tự cứu. Các ông bị chủ nghĩa dân tộc đầu độc quá nặng. Con người! Con người!… Hừ… - Nolting kéo dài giọng - Đồng bào… Trung tá nhận hai bản án tử hình đều do “đồng bào” của trng tá thực hiện… Không có “đồng bào”. Chỉ có các ông và Cộng sản…
Nolting vụt hỏi Vũ Liệu:
- Tôi nói đúng không, ông tỉnh trưởng?
Vũ Liệu hấp tấp:
- Yes, yes… All right (7)
Nolting quay sang đại tá Lâm:
- Tôi nói đúng không, đại tá?
Đại tá Lâm nhếch mép:
- Tôi không giỏi về chính trị nên không làm trọng tài được!
Nolting sững sờ mấy giây. Rồi, như nghề ngoại giao đã dạy ông ta, Nolting cười - không thể cắt nghĩa nụ cười của ông ta - và giương ống dòm lên.
Bỗng, ông ta kêu to:
- Cái gì kia? Các ông xem…
Trực thăng đang bay trên một dòng sông. Luân biết đó là sông Ông Đốc - vàm sông năm xưa anh tiễn các đồng chí trong tiểu đoàn xuống tàu Arkengels tập kết, ôm hôn Vũ Thượng và Lưu Khánh, mờ sáng lặng lẽ rời tàu, dấn vào cuộc đấu tranh kỳ lạ cho tới nay.
- Người ta đang làm mùa… - Vũ Liệu trả lời.
Dưới máy bay, nhiều vật trắng động đậy giữa cánh đồng ngập nước.
Nolting chỉnh ống dòm:
- Không phải làm mùa… Một cuộc tập trận. Đúng… Hình như có cả cỗ pháo nữa! Lên cao! Nhanh! - Nolting ra lệnh líu lưỡi, bảo Vũ Liệu: - Ông quan sát kỹ nào!
Vũ Liệu chìa cả ống dòm ra ngoài cửa máy bay.
- Nó tập trận, đúng không?
Nolting hỏi dồn dập. Vũ Liệu gật đầu.
- Một cuộc tập trận của Việt Cộng!
Nolting ra lệnh cho tá trưởng phi hành đoàn.
- Gọi máy bay oanh tạc!
Viên đại tá - có vẻ miễn cưỡng - vặn đài liên lạc.
Luân bình thản, bảo:
- Đừng gọi, mất công! Phụ nữ làm mùa. Họ đang cấy. Những chấm trắng là chiếc nón lá. Còn cái mà ngài đại sứ ngỡ là khẩu đại bác, chỉ là càng xe trâu chở mạ…
Nolting lại cầm ống dòm:
- Có lẽ trung tá nói đúng… Thiếu tá tỉnh trưởng thấy thế nào?
Vũ Liêu không phải là hạng người biết hổ thẹn:
- Thưa, đúng là nông dân làm mùa!
- Cách làm mùa ở Việt Nam khác ở Mỹ, tôi lầm. - Nolting nói xong, thoải mái tựa lưng vào ghế, ngầm bảo rằng sự lầm lẫn của ông ta cần phải được mọi người kính trọng. Độ vài giây, ông ta bật dậy:
- Không được! Ông Vũ Liệu nghe chưa! Không được cho phép bọn ở vùng Việt Cộng làm mùa…
Có lẽ Nolting chợt nhớ cuộc cãi lộn giữa ông ta và Mac Garr trên vùng trời Sóc Trăng.
- Có nên ra lệnh cho máy bay… - Vũ Liệu rất sẵn sàng chôn vùi các chiến nón trắng và việc đó sẽ đến trong vài phút, bởi đội AD6 vẫn ở trong tầm điều khiển của trực thăng chở Nolting.
Nolting ngần ngừ một lúc:
- Thôi, các ông sẽ chấm dứt chúng khi lúa trổ, như thế hiệu quả hơn. Hôm nay, ta đi dạo, đừng để bom đạn làm mất vui…
*
Tiệc bắt đầu khi trời lặn. Dinh tỉnh trưởng rực rỡ ánh đèn vừa mới kết thêm. Trong bộ quần áo dân sự, Vũ Liệu vẫn không bớt vẻ thô kệch. Vợ Vũ Liệu, mọi người đã biết tên bà ta, Trúc Đào - lộng lẫy tương xứng với bữa tiệc. Vũ Liệu khỏi phải dành cho Mac Garr mấy câu chúc tụng, tướng quân đã say nhừ. Vũ Liệu dành cả mười phút nói lên niềm hoan hỉ được đón Nolting, đại diện của nước Mỹ vĩ đại. Vũ Liệu cho biết “bữa ăn gia đình” này do Trúc Đào nấu. Trừ món tôm và lươn là sản phẩm Cà Mau, tất cả được mua ở Sài Gòn và Cần Thơ. Rượu, thuốc lá hảo hạng. Khăn lau ướp lạnh và sực nức mùi nước hoa đắt tiền.
Nolting và Trúc Đào sánh vai nhau ở đầu bàn, vị trí của chủ nhân. Ngoài số quan viên văn võ An Xuyên, hàng chục cô gái chia nhau kề cận khách - chẳng rõ họ tự đâu tới và nghề thật sự của họ là gì.
Trúc Đào vận chiếc áo vải thô, không tay. Hai bờ vai và cả một phần ngực để trần. Chiếc váy ngắn giới thiệu đầy đủ cặp đùi và bắp chân rắn chắc của bà ta.
Mọi người đã chếch choáng. Nolting bắt đầu háo hức nhìn Trúc Đào. Nhiều tiếng nữ rú the thé trước bàn tay cựa quậy của các sĩ quan Mỹ. Tony Forting, chắc là định nói khẽ thôi, song rượu đã không cho phép gã làm như ý. Gã nói vào tai cô gái cạnh gã.
- Tôi muốn ngủ với bà tỉnh trưởng, được không?
- Bậy! - Cô gái giãy nãy, cô nói tiếng Anh chưa được sõi.
- Sao bậy? - Tony nheo mắt.
- Chị tôi đấy!
- Chị thì chị… Nhưng, tôi thích. Tôi chỉ ngủ với bà ta khi bà ta khi bà ta có giấy chứng nhận chưa hề mang vi trùng Gônô… - Rồi Tony nhăn nhở - Đêm nay, tôi ngủ với cô… Bằng lòng chứ?
Tony đặt tay lên cổ cô gái.
- Năm dollar. Được không?
Cô gái cúi đầu, mặt đỏ bừng.
Thomas, ngồi đối diện, la ầm:
- Sao đắt thế? Ba dollar… Mà phải bắt nó tắm rửa thật sạch. Bọn gái Việt lắm rận, tởm khiếp!
Không ai trong bữa tiệc kể cả Vũ Liệu không nghe lời của ba người. Bọn Mỹ cười hô hố. Bọn sĩ quan dưới trướng Vũ Liệu gằm mặt ăn. Các cô gái cắn môi. Hình như, có cô khóc.
Luân không thể tiếp tục ngồi. Anh sợ mình không tự chủ nổi. Cũng chẳng ai để ý anh rời chỗ - có thể trừ cô gái “phần riêng” của anh. Nolting đờ đẫn. Nhà ngoại giao không thèm giữ thể thống nữa, có vẻ sắp nuốt chửng vợ Vũ Liệu.
Luân ra hàng hiên. Không khí bên ngoài giúp anh lấy lại bình tĩnh. Người anh chạm mặt là đại tá Lâm.
- Bọn chó đẻ! - Đại tá Lâm chửi đổng - Hồi sáng, tôi đã nóng. Thằng Tony nói gì với thằng Thomas khi vào khu nhà lắp ghép, anh biết không?
Dĩ nhiên, Luân không biết.
- Nó bảo: Mày ghi cho kỹ các đồ vật, bọ Việt chúa ăn cắp, kể cả tỉnh trưởng. Phải buộc nó ký nhận. Thằng Thomas trả lời: Đừng lo, mất một món trong nhà lắp ghép, tao bắt lão phải đền bằng cách để vợ lão ngủ với tao một đêm. Con mụ đứng trên cầu thang trực thăng đó… Bọn chó đẻ!
Luân không bình luận gì thêm.
- Tôi đi nghỉ! - Luân bảo.
- Tôi cũng vậy…
Luân phát hiện sự thay đổi của Lâm đối với anh: hình như nể hơn và thân hơn…
Hai người lên lầu, còn kịp thấy vợ Vũ Liệu rỉ tai Nolting. Gã đại sứ cười sặc sụa.
Lâm ngả lên gường và sau vài phút, ngáy vang. Luân mở rộng cửa phòng, ngắm bầu trời Cà Mau đầy sao…
---
(1) Nolting chơi chữ. “General” vừa có nghĩa là “đại tướng” vừa có nghĩa là “tướng quân”. Hàm đại tướng mang 4 sao, nhưng Mac Garr chỉ mới mang 3 sao.
(2) Gọi thân mật Eisenhower.
(3) Chào bà
(4) Chào mừng Ngài Nolting.
(5) Chúa phù hộ đức vua.
(6) Hãy tự cứu, trời sẽ giúp anh.
(7) Vâng, vâng, chí lý!