Mai Hữu Xuân vừa bực tức vừa lo lắng. Ông ta không hề được phủ tổng thống hỏi một tiếng về việc giữ an ninh theo chức trách của ông ta. Hội chợ Ban Mê Thuột sắp khai mạc, Trần Kim Tuyến và Phạm Xuân Chiểu đều có mặt tại chỗ, còn ông, ông ru rú ở Sài Gòn.
“Tao đâu phải là thằng gác dang cho nhà bây!” - Xuân đay nghiến trong bụng. Tất nhiên, thiếu tướng Mai Hữu Xuân là con người cực kỳ khôn ngoan. Người ta không gọi ông nghĩa là mức độ tin cậy chưa cao. Ông đã làm tất cả những gì có thể để chứng tỏ lòng trung thành tuyệt đối của ông với chế độ mới, kể cả sẵn sang thủ tiêu những đồng ngũ ngày hôm qua của ông – những đồng ngũ rủi ro bị bác sĩ Tuyến lên danh sách. Có ít ra hai chục bức thư của vợ con loại nạn nhân kiểu đó sỉ vả ông. Còn bạn bè, hàng trăm cú điện thoại trách móc. Làm sao được? Ông cần sống, cần cầu vai lấp lánh thêm một ngôi sao cấp tướng nữa, cần chờ dịp phất cờ. Ông tin là ngày đó sẽ tới, nhất định tới. Không bỏ cái nhỏ thì khó mà đạt tới cái lớn. Đôi lúc ông tự cười: Savani, sĩ quan tình báo kiêm nhà văn, bạn của ông - thật ra là “sếp” của ông trước kia – bắt tay từ giã ông khi Pháp rút quân, bảo nhỏ một câu mà ông rất thích. Savani bảo: Ông Xuân, nếu cần có một biệt danh, thì biệt danh của ông là Mìn-nổ-chậm! Rồi Savani cười. Ông cũng cười. Chí của ông là vậy. Tất nhiên, ông không phải là loại mìn chống tăng thường. Ông là mìn tấn, đánh sụp cả một lâu đài….
Ông gườm hai đối thủ thôi: Ngô Đình Nhu và Nguyễn Thành Luân. Với Ngô Đình Nhu, ông biết rằng ông chỉ được dùng như một “ngọn giò lái” đá ngược vào các lực lượng thân Pháp. Nhu nắm mạng sống của ông như nắm những lằn chỉ tay của gã. Dùng ông là con đường ngắn nhất triệt tiêu mối nguy hiểm bước đầu khi gia đình họ Ngô giành được quyền bính. Tới một độ nào đó, ông giống như vỏ chanh; các biện pháp mà Nhu sẽ thực hiện với ông chẳng khác nào các biện pháp mà chính ông đã thực hiện với bao nhiêu kẻ - thực tế, có quá khứ y hệt ông, chỉ kém hơn ông tài luồn lách và hiểu biết những chuyện hậu trường, chuyện đi đêm. Ông dự kiến chi li mọi thứ. Phải tạo cái vẻ phục tùng nhà Ngô đến độ ai ai cũng chửi ông phản bội. Càng bị chửi, ông càng bám chắc cái phao. Mặt khác, phải nắm thật nhiều chủ bài – những chố nhược trí mạng của chế độ: ông không thiếu bản sao những bức thư tình nóng bỏng của Trần Lệ Xuân và các nhân vật nặng cân, kể luôn vài tấm ảnh. Ông có cả những tài liệu về sự trác táng của Ngô Đình Luyện, về hoạt động tuy mang áo tôn giáo song đích thị là kinh tài của giám mục, về các vụ buôn của bà Ngô Thị Hoàn tức Cả Lễ, về Ngô Đình Cẩn, Trần Trung Dung, về vợ của Nguyễn Hữu Châu – chị ruột Lệ Xuân…
Ông không quên la cà với tùy viên quân sự Mỹ, thiếu tá James Casey, nhưng chưa vồn vã. Để xem người Mỹ “biết người biết của” không.
Ông đã sẵn trong túi lá đơn gửi tổng thống, một lần nữa xin cho ra đơn vị trực tiếp bình định các nơi. Trong thời buổi nầy – giáo phái như ngọn đèn dầu le lói, còn Việt Cộng đang mai phục – những chiến dịch càn quét chắc sẽ nâng nhanh địa vị ông hơn là quanh quẩn với chức giám đốc an ninh quân đội… Lần trước, Diệm chấp nhận cho ông điều khiển chiến dịch “Trương Tấn Bửu” bình định Đông Nam Bộ kéo dài 3 tháng rưỡi từ giữa tháng 7-1956; kết quả dù được thổi phồng vẫn quá khiêm tốn.
Với Nguyễn Thành Luân, ông e dè không phải vì Luân được họ Ngô tin cậy, đầu che cái ô “con nuôi của giám mục”, được đại sứ Mỹ đặc biệt trọng thị. Ông đã so găng vài hiệp với Luân và tự thú mình chưa đủ bản lĩnh. Vả lại, ông hiểu biết Luân còn quá sơ sài. Mấy bẫy rập giương lên rồi sập xuống, chẳng thu được chút gì đáng kể. Khi nghe điện thoại của Tiểu Phụng hẹn Luân, ông khấp khởi. Ông không cần món quà của Tiểu Phụng định tặng Luân – chắc là bản danh sách điệp viên, một số tài liệu quan trọng nào đó – nhưng ông cần bắt quả tang Luân hành động lén lút, kiểu tình báo. Trong trường hợp đó, ông sẽ còng cổ Luân nộp cho Nhu, hoặc khống chế Luân. Đằng nào cũng có lợi. Thế mà, rốt lại, một thằng cha Hoa kiều vớ vẩn tên Lưu Kỳ Phong lạ hoắc thế mạng cho Luân và Tiểu Phụng cũng bị giết.
Ông chưa đưa nổi Luân vào tròng trong khi có vẻ Luân phát giác ở ông nhiều bí mật. Vụ ném lựu đạn đoàn Kim Thoa, vụ giết trung úy Minh, luôn vụ Tiểu Phụng, nhất là vụ Trịnh Minh Thế. Có lần, gặp ông, Luân hỏi:
- Thiếu tá Vọng, thiếu tá Hùng mạnh giỏi không?
Ông đã hớ hênh trả lời là mạnh. Đáng lý, phải giả bộ ngơ ngác. Dưới trướng ông đến hàng trăm thiếu tá, sao lại trả lời ngay.
Luân lại nói bâng quơ:
- Họ sài súng “mút” của Anh khá lắm!
Thiếu tá Vọng đã núp dưới biển dừa nước cạnh cầu Lăng Tô, dùng khẩu súng trường Anh hiệu Remington có máy ngắm khử Trịnh Minh Thế - chỉ bắn một phát.
Ông đã phản công:
- Tôi không biết tài súng trường của họ. Nhưng tôi biết tài bắn súng lục của ông!
Nói như vậy, ông ám chỉ Luân cũng có thể vấy vào một “xì căng đan”.
Luân cười rộ. Cô nhà báo Mỹ Fanfani – con quỷ cái nầy mê mệt thằng Luân – cười phụ họa. Và, ông phạm tiếp một sai lầm nghiêm trọng: ông im lặng, đỏ mặt….
“Phải cho thằng Luân đo ván!” – Ông thề với nghề nghiệp như vậy… Phải cho đo ván trước khi Lansdale hội đủ các dữ kiện về cái chết của Trịnh Minh Thế và rút ra kết luận.
Giết Trịnh Minh Thế, ông không chỉ đơn thuần làm theo khẩu lệnh của Nhu. Ông có tính toán riêng. Phải chăng đây là sự rạn nứt đầu tiên giữa anh em Diệm – Nhu với Mỹ? Thế có thể chưa phải là cái gì cả đối với họ Ngô và Mỹ, song Mỹ vỗ béo Thế và Nhu ra lệnh thủ tiêu Thế. Tốt lắm! Mỹ buộc phải suy nghĩ về mấy con ngựa đang kéo cỗ xe của họ ở Nam Việt. Bây giờ, đó là vết cào nhẹ trong mối quan hệ Mỹ - Ngô. Vài vết cào nữa sẽ thành vết thương tấy mủ… Cái quan trọng là đừng để lòi lưng ông – người trực tiếp chọn chỗ phục kích cho thiếu tá Hùng, thiếu tá Vọng. Trên đòn cân của Mỹ hiện thời, ông tự biết mình chỉ là chiếc lông so với tảng đá Ngô Đình Diệm
Ông đã từng nói xa nói gần cho Nhu hiểu là Luân nghi ông dính vào vụ Trịnh Minh Thế. Nghi ông tức là nghi Nhu. Nghe ông, Nhu phán một câu, ông lạnh xương sống:
- Ông kỹ sư nghi vì hành động ít nhiều có sơ hở. Ông kỹ sư nghi, nghĩa là tổng thống nghi, đại sứ Mỹ Nghi. Chỉ còn cách xóa hết dấu vết…
Tốt nhất là im lặng và cho Luân đo ván… “Xóa hết dấu vết” đã có, nghĩa là xóa ông bằng cách nào đó…
Hội chợ Ban Mê Thuột – một thứ “kẹc mết” (1) đấu xảo – mà lại được chăm sóc kỹ, quá kỹ. Trùm mật vụ Trần Kim Tuyến, trùm cảnh sát Phạm Xuân Chiểu, đích thân vợ chồng Nhu, luôn Luân và người yêu đều có mặt trên đó. Tất nhiên, Mai Hữu Xuân hiểu liền ý nghĩa của cái hội chợ ở nơi đèo heo hút gió kia.
Làm gì bây giờ? Thiếu tướng Mai Hữu Xuân đi lại cả tiếng đồng hồ trong phòng làm việc vủa ông. Lần lần, ông hình dung ra một chuỗi khả năng có thể xuất hiện: Fulro, giáo phái, phòng nhì Pháp, Đại Việt, tàn quân Bình Xuyên, Cộng sản… hàng tá phe nhóm nuôi mối thù không đội trời chung với Diệm, chắc chẳng bỏ lỡ cơ hội. Diệm mà ngã xuống lúc nầy, cũng hay. Cộng sản chưa đủ mạnh, giáo phái sụp đổ, Pháp ra đi và đang vướng ở Bắc Phi. Mỹ, dứt khoát là Mỹ sẽ bỏ bàn cờ cũ, xếp lại bang cờ mới. Tại sao trong các quân cờ quan trọng cỡ xe pháo mà lại không có tên Mai Hữu Xuân, người đầy đủ kinh nghiệm trị an nội địa? Diệm mà ngã xuống, Nhu và Luân trừ phi trốn vào sứ quán Mỹ, khó thoát tay ông. Ngược lại, chính ông khám phá một âm mưu ám sát tổng thống, đúng là sự kiện hấp dẫn. Tha hồ yêu sách, tha hồ vẽ rồng vẽ rắn. Tha hồ lái chính sự xứ nầy vào quỹ đạo mà ông và Savani từng vạch, từng chạm cốc, từng thề thốt…
Thiếu tướng bấm chuông. Thiếu tá Hùng – vẫn mấy sợi lông đen phe phẩy trên cằm – đứng nghiêm.
- Kêu luôn thiếu tá Vọng! Ta bàn công việc gấp…
*
Lần nầy, Ly Kai gặp Dương Tái Hưng trên tầng chót khách sạn Majestic. Dương Tái Hưng, trong bộ complet màu xanh nước biển, trẻ hẳn ra, không phảng phất một tí dáng dấp Hoa Kiều. Gặp Dương Tái Hưng, Ly Kai không được thoải mái lắm. Gã chưa tiến thêm một chút nà trong đòi hỏi của Dương Tái Hưng tìm hiểu “chỗ nhược” của Nguyễn Thành Luân. Tay kỹ sư nầy không uống rượu – uống khá khỏe song không nghiện – không gái. Còn tiền – do hai khoản trên – Ly Kai đoán chắc là không động tay va.
Con đường vòng qua Bá Thượng Đài và Lâm Sử coi mòi quá ngoằn ngoèo. Bá Thượng Đài, cả Diệu Thọ, Tào Phu, Tần Hoài, chẳng giúp ích gì cho gã. Ngay Lâm Sử, ông ta cốt khai thác Ly Kai, chớ tuyệt không môi giới cho Ly Kai tiếp cận Nguyễn Thành Luân. Có một lần, Lâm Sử bị Ly Kai nằn nì quá, tổ chức một buổi tiếp xúc với một người trong nhóm Giải Liên. Người đó được giới thiệu bí danh là Sáu Sơn. Còn tên thiệt, chính Lâm Sử tiết lộ: Nghị Lực – cán bộ nằm vùng của Việt Cộng, quê Bạc Liêu.
Buổi tiếp xúc diễn ra trong một căn phố lao động vùng Cầu Muối, có thể nói là một cú “nốc ao” đối với Ly Kai. Nghị Lực đón Ly Kai với vẻ lạnh nhạt và nghi kỵ. Tất nhiên, Lâm Sử giới thiệu Ly Kai trong một thân phận rất khả ái: Hoa kiều “khai minh” (2). Thế mà Nghị Lực lại hỏi thẳng Ly Kai: định mở sòng bạc ở đâu? Tay nầy quả là đáo để. Ly Kai nói tiếng Việt, Nghị Lực đối đáp tiếng Việt. Ly Kai nói tiếng Quảng, Nghị Lực nói tiếng Quảng. Rồi tiếng Tiều, Hẹ, Phúc Kiến, Bắc Kinh…
Sau cùng, Ly Kai cố gắng ném quả bóng vào khung thành: “Ông quen với Nguyễn Thành Luân?”
Nghị Lực cười – nụ cười như đi guốc trong bụng Ly Kai:
- Đây là điều chính yếu phải không?
“Tỉu na má!” – Ly Kai chửi thề thầm. Khi gã chửi thề, dù là thầm, gã vẫn dùng tiếng Xán Thầu mẹ đẻ.
- Tại sao ông lại để ý một kỹ sư đang cộng tác với ông Nhu? Tôi có biết kỹ sư Luân lúc ông ấy làm tiểu đoàn trưởng. Một người kháng chiến. Và, từ sau đình chiến có nhiều biến đổi. Ông muốn tìm hiểu kỹ sư Luân về phương diện nào?
Ly Kai lúng túng.
- Tôi là một người Hoa đã đi kháng chiến. Nếu ông muốn chúng ta làm quen trong công việc cứu trợ đồng bào Hoa nghèo của chúng ta thì tôi sẵn sàng trao đổi với ông. Còn ông định lôi kéo tôi vào công việc khác, thì xin lỗi ông; lần gặp nay coi như lần chót. - Nghị Lực bảo.
- Ông Lâm Sử… - Ly Kai ấp úng.
- Tôi và Lâm Sử khác nhau!
Ly Kai chợt nhớ câu thần chú mà Dương Tái Hưng và Lâm Sử đã đọc với gã:
- Tổ quốc…
- Ông muốn nói cái gì về Tổ quốc? Nơi nuôi tôi lớn, cho tôi tấm lòng, đó không phải là một Tổ quốc nữa của tôi hay sao?
- Ông là người lai? - Ly Kai hỏi một câu ngớ ngẩn.
- Không, tôi không lai. – Nghị Lực trả lời rất rõ – Song dòng máu mà tôi mang có phần do hạt gạo Việt Nam. Và trên hết tôi có cái đầu để suy nghĩ và điều khiển cho hành động. Chứ không phải cái đầu đặc cứng…
Ly Kai ngán ngẩm. Gã vốn dốt chính trị. Đời gã được rèn trong sấp ngửa, đỏ đen. Hoặc “tài” hoặc “xỉu”. Còn thằng cha Nghị Lực nầy coi bộ cứng cựa. Rút lui là thượng sách.
- Kỹ sư Luân mà biết ông điều tra ông ta, lại dính đến Lâm Sử thì tôi e rằng ông khó sống. Kỹ sư Luân theo ông Ngô Đình Nhu, ông ta dư sức khai tử ông. Còn tôi, tôi đến gặp ông, bạn bè Hoa Kiều đều biết. Nay mai, tôi bị quấy rầy gì thì ông đừng hòng yên ổn.
Nghị Lực ném lại câu dữ dằn đó rồi lại mất dạng.
… Vậy mà Dương Tái Hưng không trách mắng gì gã. Câu chuyện thủ thỉ quanh chuyến du lịch của Dương Tái Hưng. Ông ta chơi ở Hồng Kông, và hình như ông ta sang Mỹ. Sang Mỹ thì chắc, bởi ông thuật lại cho Ly Kai buổi họp báo của tướng Collins về vấn đề Việt Nam. Ông ta có ghé Bắc Kinh hay Đài Bắc hay không, ông ta không hé nửa lời.
Mãi khi uống cà phê, Dương Tái Hưng mới hỏi công việc của gã. Gã thông báo về việc Nhu và Luân vắng mặt ở Sài Gòn.
- Tôi tin rằng một âm mưu đang xúc tiến nhằm xóa ông Diệm. Điều quan trọng cấp bách là ông phải cung cấp cho tôi mọi dấu hiệu của âm mưu đó. Ông Diệm sẽ lên Ban Mê Thuột. Ai biết tin nầy thì kẻ đó liên quan gần hoặc xa với âm mưu. Ông hiểu chưa?
Ly Kai rối đầu. Gã tìm Lâm Sử còn nôn nóng hơn Dương Tái Hưng.
- Ông nghĩ xem ông có cách nào nắm tin tức nhanh nhất. Có thể ta đã chậm. Tôi giao ông một nhiệm vụ: Phá bất cứ âm mưu nào định ám hại ông Diệm. Phá, ông nghe chưa?
Thấy Ly Kai ngơ ngác, Lâm Sử nhấn mạnh:
- Lợi ích tổ quốc hiện giờ là bảo tồn ông Diệm. Sự sống của ông Diệm rất cần cho Tổ quốc!
Ly Kai càng ngơ ngác hơn.
- Ông kém khiếu chính trị quá!
Ly Kai vui vẻ nhận lời phê phán nầy.
- Ông Diệm chưa hoàn thành sứ mạng lịch sử của ông ta!
“Tỉu na má!” – Ly Kai đối lại bằng câu chửi thề thầm.
- Sứ mạng chính của ông Diệm là tiêu diệt, hoặc ít ra làm suy yếu lực lượng Việt Cộng. Ông ta mới mở đầu công việc lớn lao đó. Phải thêm thời gian nữa. – Lâm Sử nói thật hăng.
- Mà, người Hoa phản đối ông Diệm. Ông ta buộc người Hoa lấy quốc tịch Việt, cấm một số nghề…
Lâm Sử lắc đầu:
- Ông khờ khạo thật. Cấm nghề nầy ta làm nghề khác. Còn quốc tịch đó chỉ là giấy tờ. Gọi ông là Ly Kai hay Lý Giai, có sao đâu?
- Phá tất cả âm mưu, hành động toan ám hại ông Diệm. Ông nhớ cho! – Lâm Sử nhấn mạnh lần nữa.
Ly Kai thật sự hoang mang: Lắm ông Hoa và lắm chủ trương. Tất nhiên, gã vẫn im ỉm trước Lâm Sử về Dương Tái Hưng.
Gã lập một chương trình: sẽ có mặt ở Ban Mê Thuột. Còn bây giờ thì sục sạo, nghe ngóng…
*
Ngay ngày hôm Nhu và Luân – có Trần Kim Tuyến và Phạm Xuân Chiểu theo – lên đường đi Buôn Hồ, một dạ hội tưng bừng mở tại biệt điện vào 7 giờ tối.
Có mặt động đủ giới thượng lưu của thủ phủ Tây Nguyên và Trung phần: thiếu tướng Lê Văn Kim, tư lệnh quân đoàn và tư lệnh quân khu, đặc sứ Tôn Thất Hối, đại biểu chính phủ Nguyễn Đôn Duyến, giám đốc sở kinh tế Nguyễn Điền, giám đốc nha thông tin Vũ Văn Tĩnh… Nhưng người khách quý nhất lại là trung tướng André Trần Văn Đôn, tổng tham mưu phó, phụ trách lục quân. Ông lên Tây Nguyên săn bắn và do ông lên Tây Nguyên mà có buổi dạ hội nầy.
Trước hết, phu nhân của cố vấn Ngô Đình Nhu, người chủ dạ tiệc, nói mấy lời. Cũng rõ ràng thôi: nhân nhà tôi và tôi lên thăm Ban Mê Thuột, chúng tôi mời bạn hữu đến vui. Nhà tôi bận công việc bất khả kháng, nên xin lỗi bạn hữu. Mong bạn hữu xem tối nay như tối trong gia đình.
Trong chiếc áo hở tận vai, bộ mặt và đôi môi khéo trang điểm, bộ ngực cố ý phô bày, Trần Lệ Xuân lấn cả cành anh đào to tướng đặt giữa phòng.
Vỗ tay nồng nhiệt.
- Tiện thể, tôi xin giới thiệu cô Hoàng Thị Thùy Dung, vị hôn thê của thiếu tá kỹ sư Nguyễn Thành Luân, khách quý của vợ chồng tôi, có mặt hôm nay…
Lệ Xuân chìa tay về chỗ Dung. Cô đứng lên, khẽ gật đầu đáp tiếng vỗ tay. Trong chiếc áo dài màu thiên thanh, Dung nổi bật vẻ thùy mị. Cử tọa, gần nhu điều tất yếu, nhìn một lúc hai phụ nữ và so sánh. Nhưng, Dung đã ngồi xuống. Lệ Xuân chưa bàn trước với cô về việc giới thiệu nầy.
Sáng nay, trước khi lên xe, Luân đã dự đoán có cái màn nhảy nhót và dặn Dung cẩn thận.
- Cẩn thận như thế nào? - Dung hỏi vặn
- Tỷ như cô không quen uống rượu mạnh…
Luân chỉ nói bấy nhiêu, song trong đáy mắt anh, Dung hiểu hoàn toàn những lo âu.
“Phần anh, anh đi vào chỗ chẳng an toàn gì, sao không suy tính…” - Dung nói thầm, bởi vì cô hiểu chuyến đi Buôn Hồ của Luân na ná như ra trận. Còn khó hơn ra trận nữa. Cô không được quyền đi theo. Nhu không cho và Luân cũng vậy. Đành ngồi ở biệt điện thắc thỏm nghe tin. Xế nay, Vũ Xuân Quang mời Dung đến trước máy truyền tin. Từ chỗ nào đó, Luân nói chuyện với cô:
- Luân đây… Luân đây…
Cô quýnh quáng, không kịp bấm nút “nói”, gào to:
- Em đây, Dung đây…
Khi Vũ Xuân Quang chỉnh lại máy, cô mới trấn tĩnh:
- Anh đó hả? Em đây.. Vui. Khỏe. Không đi chơi đâu hết. Đợi anh về. Anh nhớ coi chừng…
Nói tới đó Dung quên phứt nên dặn Luân coi chừng cái gì. Một giọng vui chen vào máy của đại tá Chiểu:
- Coi chừng các cô gái Rhađê phải không?
- Coi chừng rắn! – Dung bí quá, nói bừa.
Tiếng cười nhộn ở đầu máy bên kia.
- A bientôt! (3) – Dung đáp lời Luân. Cô tần ngần mãi với chiếc ống nghe dù máy đã chuyển làn sóng.
- Cô không quen uống rượu mạnh!
Dung nhớ lời dặn dò đó. Trần Lệ Xuân là con quỷ cái. Nó dám làm tất cả những gì để hạ nhục và kềm chế Dung, Dung hiểu. Khi Dung đứng lên đáp lễ quan khách, cô đã bắt gặp tia mắt nham hiểm của mụ. Mụ ganh. Dung nhỏ hơn mụ cả chục tuổi, trang sức sơ sài, vẫn giành sự ngưỡng mộ của người có mặt.Cái trò đài các nầy khiến Dung lợm. Giá mà không phải là nhiệm vụ, giá mà không vì “anh ấy”, cô rời biệt điện ngay lập tức.
Một người tuổi lối 30, mũi thẳng, da trắng – tóm lại, rất bảnh trai – xán lại chỗ Dung:
- Rất hân hạnh được làm quen với cô Thùy Dung. Tôi là đại úy Nguyễn Thuần, người Hà Nội, ở ngành không quân.
Giọng anh ta hơi uốn éo, thái độ thì sỗ sàng. Dung ngồi yên, không chìa tay.
- Ông là phi công?
- Vâng, tôi học lái máy bay chiến đấu tại trường Oran, Algérie, sau đó tu nghiệp tại căn cứ Clark, Phi Luật Tân… Cô cũng là người Hà Nội?
“Bắt đầu màn quỷ quái rồi đó!” – Dung nghĩ thầm trong khi gã đại úy nhìn chằm chằm mắt cô.
- Cô Thùy Dung không mời tôi ngồi chung bàn với cô sao?
Dung cười lạt, không trả lời.
- Trong buổi dạ tiệc nầy, cô là cây đinh.
Gã đại úy lải nhải. Trần Lệ Xuân làm như tình cờ quay về hướng hai người, cười kín đáo.
Mọi người chạm cốc. Gã đại úy mời Dung. Cô đứng lên và nhúng môi. Chất rượu cay xé.
“Giờ nầy, anh đang ở đâu? Chúc anh an toàn!”, Dung nhớ tới Luân. Mắt cô long lanh và gã đại úy hiểu lầm.
- Cô có bàn tay đẹp, thật đẹp.
Gã đại úy tán tỉnh. Có vẻ gã chờn vờn muốn ve vuốt bàn tay Dung. Tới mức nầy, Dung đâm hoảng. Cô cúi gầm mặt, vân ve cái ly.
- Cô uống đi… - Gã đại úy giục – tôi uống cạn rồi! – Gã lật úp ly của gã.
- Tôi không quen uống rượu. – Dung nói gần như thỏ thẻ.
- Uống rồi khắc quen! – Gã đại úy kéo ghế gần Dung hơn một chút và đột nhiên nói như thì thầm – Cô có chiếc cổ tuyệt vời. Nếu cô mặc áo như bà Lệ Xuân thì tôi cam đoan cả Ban Mê Thuột nín thở!
“Khả ố!” - Dung nghĩ là không nên kéo dài lối lập lờ nầy nữa.
- Thưa ông, tốt nhất là ta nên định rõ cách xưng hô. – Dung rắn rỏi – Tôi gọi ông bằng ông. Phần tôi, tôi là bà Nguyễn Thành Luân. Tôi không thích bất kỳ lối xưng hô nào khác!
Gã đại úy, tuy bị hẫng, song thuộc loại lỳ lợm.
- Được thôi… Gọi cô hay bà, chẳng có gì quan trọng. Cái quan trọng là tôi đang ngồi gần một người con gái đẹp. Chút nữa thưa bà Nguyễn Thành Luân, xin bà cho phép tôi mời bà cũng nhảy một bản…
Đèn biệt điện chuyển sang mờ ảo. Nhạc dìu dặt. Từng cặp lướt trên sàn gỗ.
“Làm thế nào đây?” – Dung lại bối rối. “Từ chối nhảy ư? Sẽ phật lòng Trần Lệ Xuân. Nhảy ư? Nhất là nhảy với gã đại úy nầy ư?”, Dung khe khẽ lắc đầu.
Nhưng gã đại úy đã đứng lên, chìa tay. Phép lịch sự không cho Dung từ chối. Vả lại, trong phòng, chỉ còn mỗi Dung là nữ chưa bắt cặp. Trần Lệ Xuân đang lã người trong cánh tay của trung tướng André hào hoa.
Gã đại úy nhảy rất đẹp. Dung giữ đúng cự ly vừa phải với gã, và cô làm cho gã kinh ngạc:
- Bà nhảy giỏi quá!
*
Trung tướng André và Lệ Xuân khuất dần sau cành đào. Lợi dụng một vệt tối, André siết chặt thân hình Lệ Xuân.
Lệ Xuân cười khúc khích:
- Chi mà vội vậy… Anh lên Ban Mê Thuột làm gì?
André say đắm nhìn vào môi Lệ Xuân, thều thào:
- Đi tìm em!
- Thật không?
- Sao không thật? Chồng em đi săn thú rừng. Anh đi săn em…
Gã đại úy bắt gặp cảnh đó. Gã nói khẽ:
- Dẫu sao, bà Nhu cũng đã nửa chừng xuân…
Dung chẳng thấy gì cả. Cô tập trung vào bước nhảy, với cô là một nhiệm vụ. Nhiều lần, gã đại úy cố ý lái cô vào cái vùng tối sau cành đào, Dung đã giữ gã giữa sàn gỗ.
Nhạc chấm hết, bản Valse đầu tiên. Lại uống, lại ăn, lại nhảy. Sau tuần sâm banh, Dung tự thấy sự rút lui của cô không thể gây khó chịu cho Lệ Xuân và quan khách, cô chào Lệ Xuân. Gã đại úy xin phép đưa cô, cô chưa kịp từ chối thì chính thiếu tướng Lê Văn Kim làm việc đó:
- Tôi xin được tiễn bà một đoạn. – Kim nghiêng người, rất lễ phép. Dung cám ơn ông. Gã đại úy bực mình, ngồi phịch xuống ghế.
- Tôi ái mộ ông kỹ sư và hy vọng sẽ có dịp làm việc chung với ông…
Lê Văn Kim nói như vậy, trước khi Dung rẽ về hướng phòng riêng.
*
Dạ hội tan vào một giờ đêm. Bằng cách nào đó không ai rõ, André có mặt trong phòng Lệ Xuân.
- Người ta nói em làm chính trị trong mọi trường hợp. Ngay tại phòng nầy… đúng không? – André nói khi cả hai đã lõa lồ trên giường.
- Anh lại tin vào những lời đồn nhảm đó sao? Với anh, em yêu! – Lệ Xuân áp sát người và André, vuốt ve chiếc ngực nở nang của ông ta.
André chỉ còn mỗi việc ôm chầm lấy mụ. Trong tiếng thở dồn dập của André, Lệ Xuân hỏi:
- Tại sao anh lên Ban Mê Thuột? Anh đi với ai?
---
(1) kermesse: hội chợ - tiếng Pháp
(2) chữ của Trung Cộng, ý chỉ người Hoa “tiến bộ”.
(3) Hẹn gặp lại – tiếng Pháp