Gặp phải cảnh mẹ chồng cay nghiệt, cô Hoẻn cắp áo trốn nhà ra đi, đoạn tuyệt với anh chồng lưng đen, khố bện, từ giã cái cảnh cà chua mắm mặn, với cái đời chân lấm tay bùn. Cô đi đâu? Bẵng đi sáu bảy tháng trời, biệt vô âm tín khiến cho hai họ xảy nhiều điều xếch mếch. Bỗng một hôm, lũ trẻ chăn trâu tới tấp chạy về làng, hoảng hốt báo:
"Có tây về làng ta!" Các tướng nấu rượu lậu nhớn nhác xô nhau cất dọn giấu giếm, cả cái lão trùm Đẩu đương du dương say tỉnh với mấy phân thuốc phiện ngang cũng vội nhỏm dậy lẻn ra đầu nhà vứt cái hến thuốc xuống ao! Tây càng đi gần tới, lũ trẻ càng xô nhau chạy, mọi người đứng trong bụi hàng, hay nấp trong cổng nhìn ra:
Một anh tây lính mũi lõ râu xồm, mình cao, bụng phệ, dắt chiếc xe đạp đi bên cạnh một người đàn bà phấn son sặc sỡ, quần áo lam, giày cao gót, chiếc ô xanh biếc, chiếu xuống bộ mặt phấn bị mồ hôi loang lổ, bộ răng trắng nhom nhem khấp khểnh như rã rụa với bộ môi cong mỗi khi cười nói. Bộ răng ấy, bộ môi ấy đã làm cho dân làng nhận được là cô Hoẻn, con ông đĩ Hoét! Đi sau là một mụ vú già khệ nệ vác chiếc va li to kệch. Lũ trẻ quê ngờ nghệch chắp hai tay lên cổ, hấp háy trông theo, các "chủ lò rượu" yên tâm, chỉ lão trùm Đầu tha thiết tiếc mấy phân thuốc phiện, giậm chân, đạp cẳng, lẩm bẩm chửi bâng quơ cho hả giận rồi vào! Một bữa cơm thết chàng rể mà cảnh nôn nao rộn rịp như trong làng có loạn, nào xua gà, đuổi cá, chuốc từ nải chuối, kén từ mớ rạ, vất vả nhất là ông anh đi lùng mua rượu, bánh. Trong khi ấy thì cô tây Hoẻn dắt đức lang quân đi khắp đình chùa miếu mạo. Ông đĩ Hoét cũng áo the khăn lượt dẫn theo sau, giảng giải từ bệ tế thần nông tới văn chỉ tế thánh Khổng, mở rộng cửa đình cho con rể xem chỗ phụng tự, chỗ ăn ngồi. Sau những tiếng rụt rè nhỏ nhẹ của ông đĩ Hoét, cô Hoẻn lại cong môi chĩa răng ra thông ngôn lại bằng một chuỗi tiếng bồi, lũ trẻ chạy theo xem cũng học lỏm được mấy chữ "lúy phe", "lúy điếc".
Bác lính tẩy lúc bấy giờ trông hiền lành ngoan ngoãn tệ! Chẳng thế mà mỗi lần đi ra xa một tý, cô Hoẻn gầm lên một tiếng "sê ghi" mà chậm lại, là cô nhả tiếng ta chửi thống cho một hồi, chỉ thấy anh Tây há hốc mồm ra cười, chứ không hằm hằm độc dữ như mấy anh tây đoan về bắt rượu mọi ngày. Cô Hoẻn càng thấy dân làng đổ ra xem, lại càng trổ tiếng tây dữ! Vừa nói vừa khua tay mua chân cười nói tự nhiên, nhưng cũng nhiều người chê là lố bịch! Chiếc va li trong đựng những gì? Đó là những khí cụ văn minh của tây đủ cải hóa cả một gia đình ông đĩ Hoét! Này thì đây: Của quý mà con gái và con rể đem lại cho ông: một cái kê pi, một cái cát két, hai thứ tiện dụng cho cha và anh lúc cày bừa, dùng nó che nắng mà không bị gió lật như đội nón, bốn chiếc bành tô vàng đã cũ, hai cái sơ mi đàn ông, ba cái cóc sê viền đăng ten, trông cũng hay hay, bà đĩ Hoét tính không hay đỏm dáng, chỉ dấn vài nước nâu là được một cái vừa làm áo vừa làm yếm, tiện biết bao! Này lại hai đôi giày, một đôi bằng da dưới có đinh lởm chởm, đôi này ông đĩ sẽ dùng khi có đám thứ việc làm, còn đôi băng túp thì để cho ông anh khi đi tuần có cái dùng cho đỡ xéo phải gai. Đến cái khăn bông tắm kích nô, tuy còn lành nhưng hân ố nhiều chỗ. Ông đĩ Hoét bảo:
Cái này nhấn vài nước vỏ xó để mùa rét làm khăn bịt đầu thì ấm chán! Một cuộn tranh trong có đủ cả ảnh mấy tướng Foch, lòe loẹt, những mẫu áo tây gọn ghẽ của hàng thợ may, cô Hoẻn mắt trông, tay chỉ cho cả nhà xem những cái hay cái lạ trong quyển cát ta lô nào cái cối xay hạt tiêu, cái cối xay cà phê, cái cối vắt nước chanh, cái cùi dìa, cái phóng sét.
Ai cũng nắc nỏm khen cô thông minh sáng láng, giá không đi ra ngoài, thì đời nào biết được như thế! Cô lại quá cao hứng bắt ông bố đặt tên hai con chó. Một con đặt tên là con phốc để thay tên con cộc, một con đặt tên là ki ki để thay tên là cái! Vì cô rất ghét gọi chó mà lại cứ rống lên êu-êu, cộc-cộc! Cô bắt dọn riêng cho cô một cái chái nhà để cô đem bộ giường về kê, phòng khi đi về có chỗ nằm, hoặc khi chồng đi "man nơp" hay đi "câu lơn" thì cô về ở cho vui. Ngày vui ngắn chẳng đầy gang, vợ chồng cô sắp từ biệt ra đi, ông đĩ Hoét còn giữ lại việc trả của cho người chồng cũ. Cô trợn mắt nói:
"Thây mẹ chúng nó, tôi lấy tây thì tôi tức là đầm rồi, đứa nào vô phúc thì động đến lông chân tôi mà chơi, thầy đừng lo! Việc làm ăn cứ chăm chỉ rồi có muốn tậu ruộng tậu vườn, nếu trong làng ai bán thì thầy cứ ra bảo tôi. Thằng này tuy khá, nhưng nó sắp phải về tây, chẳng bòn cũng thiệt".
- Thế "anh nó" không sang nữa ư? Rồi làm thế nào? - Không sang thì thôi, lấy thằng khác, cần gì! Trong khi nói chuyện anh tây lúi húi sửa cái xích xe đạp, cô Hoẻn cầm cái ô tần mần xỉa xuống đất thành những lỗ con, rồi ngước mắt nói:
- Rồi tôi sẽ dắt díu cho lũ trẻ làng ta ra ngoài ấy, dạy dỗ cho tiếng tây thông thạo, phấn son vào, ăn mặc vào rồi mối manh cho khéo, bùa thuốc cho linh, thay quyền cha mẹ chúng nó mà gả bán cho tây thì phải biết là khá!... Tội gì mà cứ bắt chúng nó chăn trâu cắt cỏ ở chốn quê mùa này, khổ bỏ mẹ đi ấy.
Tiếng chuông xe đạp bấm kính coong, báo hiệu giục đi, cô Hoẻn nhoẻn mép nghiêng mình chào bố mẹ, bác lính tây ngả mũ, chìa tay ra bắt tay ông đĩ Hoét mà bảo:
“Ông già bố cu tốt" kèm theo một tiếng cười ròn rã gửi lại cái nhà tranh. Lũ trẻ chạy theo một cách bạo dạn hơn!