Bên cạnh các bài viết về chiến tranh Việt Nam, trong chuyên đề này chúng tôi cũng giới thiệu những góc nhìn về những cuộc chiến tranh khác.
[1]I.
Từ lâu rồi, ít nhất trong sáu thập niên qua, hình ảnh đã trở thành nền móng để chúng ta đánh giá và ghi nhớ về những cuộc xung đột quan trọng. Bảo tàng ký ức phương Tây ngày nay phần lớn thuộc về thị giác. Những tấm hình có một sức mạnh vô song xác định việc chúng ta nhớ về các sự kiện như thế nào, và giờ đây, có thể những liên tưởng quyết định của người dân mọi nơi về cuộc chiến đánh phủ đầu Iraq mà Hoa Kỳ tiến hành năm ngoái sẽ là những tấm hình tù binh Iraq bị Mỹ tra tấn trong nhà giam nổi tiếng xấu xa nhất thời Saddam, nhà tù Abu Ghraib.
Chính quyền Bush và những người bảo vệ chính quyền ấy chỉ lo tìm cách hạn chế thảm họa trong quan hệ với công chúng - khi những bức hình đó được phổ biến - hơn là tìm cách giải quyết những vụ phạm luật phức tạp của giới lãnh đạo và của đường lối chính sách mà những hình ảnh đó phơi bày. Trước hết là việc đặt không đúng chỗ hiện thực vào chính những tấm hình đó. Phản ứng đầu tiên của chính quyền là nói rằng tổng thống kinh ngạc và ghê tởm trước những tấm hình đó, như thể lỗi lầm hoặc cảnh ghê rợn xuất phát từ những hình ảnh, chứ không phải là những gì mà những bức hình mô tả. Từ "tra tấn" được tránh nói đến. Nhiều lắm chính quyền cũng chỉ thừa nhận là tù nhân có thể đã bị "hành hạ" hay bị "làm nhục." "Cảm tưởng của tôi là những cáo buộc được đưa ra cho tới lúc này là sự hành hạ, điều mà tôi tin đứng về mặt kỹ thuật thì khác với tra tấn," Bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld nói trong một cuộc họp báo. "Vì thế tôi sẽ không đề cập đến từ tra tấn ."
Từ ngữ được thay đổi, thêm vào hay bỏ bớt đi. Chính việc cố né tránh sử dụng từ "diệt chủng" mười năm trước đây khi 800 nghìn người Tutsis ở Rwanda bị người Hutu láng giềng thảm sát chỉ trong vòng vài tuần lễ cho thấy Hoa Kỳ hoàn toàn không có ý định can thiệp. Từ chối gọi đích danh những sự kiện xảy ra trong nhà tù Abu Ghraib - và ở những nơi khác trên lãnh thổ Iraq và Afghanistan, cũng như ở Vịnh Guantanamo - là tra tấn thì cũng
trắng trợn như việc từ chối không gọi vụ diệt chủng ở Rwanda là diệt chủng. Một trong những định nghĩa về "tra tấn" trong công ước về tù binh mà Hoa Kỳ đã ký kết là "việc cố tình gây ra bất cứ sự đau đớn hay chịu đựng nghiêm trọng nào, dù về thể xác hay tâm lý, đối với một cá nhân để buộc cá nhân đó hay một người thứ ba cung cấp thông tin hoặc thú tội.” (Ðịnh nghĩa này xuất phát từ Công ước năm 1984
Chống tra tấn và Chống việc đối xử dã man, vô nhân tính hay những Hình phạt mang tính nhục mạ. Những định nghĩa tương tự cũng đã có từ khá lâu trong những đạo luật thông thường và trong các hiệp ước, khởi đầu với Ðiều 3 - thường có trong bốn công ước Genève năm 1949 - cũng như trong rất nhiều công ước về nhân quyền gần đây.) Công ước 1984 tuyên bố: "Không có bất cứ trường hợp ngoại lệ nào, dù là trong tình trạng chiến tranh hay bị đe dọa bởi chiến tranh, do bất ổn chính trị nội bộ hay bất cứ tình trạng khẩn trương công cộng nào, có thể được dùng để biện minh cho việc tra tấn." Tất cả những qui ước về tra tấn ghi rõ việc này bao gồm cả những hành động làm nhục nạn nhân, chẳng hạn như để tù binh trần truồng trong phòng giam hay ngoài hành lang.
Dù chính quyền đương thời có đưa ra bất kỳ biện pháp nào để giới hạn những tổn hại do những tiết lộ đang lan rộng về việc tra tấn tù nhân ở Abu Ghraib và những nơi khác gây ra - như đem xét xử, lập tòa án quân sự, cho phục viên không danh dự, việc từ chức của một số quan chức quân sự cao cấp hay quan chức hành chánh có trách nhiệm và những bồi thường lớn lao cho nạn nhân – nhưng có lẽ từ "tra tấn" sẽ còn tiếp tục bị cấm sử dụng. Thừa nhận việc người Mỹ tra tấn tù nhân sẽ đi ngược lại với những gì chính quyền Hoa Kỳ đã kêu gọi công chúng tin tưởng vào các mục đích đạo lý của người Mỹ và, dựa vào những đạo lý đó, người Mỹ có quyền đơn phương hành động trên trường quốc tế.
Thậm chí ngay cả khi tổng thống buộc phải sử dụng từ “tiếc,” trong thời điểm những tổn hại cho danh tiếng của Hoa Kỳ ngày càng lan rộng và sâu ở khắp nơi trên thế giới, thì trọng tâm của sự hối tiếc đó dường như vẫn là về những tổn hại đối với sự ưu việt đạo đức mà người Mỹ tự nhận. Thật vậy, tổng thống Bush đã nói ở Washington vào ngày 6 tháng 5, khi đứng bên vua Abdullah II cuả Jordan, rằng ông "lấy làm tiếc về những sự nhục mạ mà các tù nhân Iraq cũng như gia đình họ phải gánh chịu." Nhưng ông nói tiếp, "Ðiều đáng tiếc không kém là những ai thấy những hình ảnh đó đã không hiểu được bản chất thực và cái tâm của người Mỹ."
Nếu chỉ xét đến những nỗ lực của Hoa Kỳ ở Iraq bằng những hình ảnh đó, hẳn có vẻ "không công bằng" đối với những người biện minh rằng cuộc chiến đã lật đổ được một trong những bạo chúa tàn độc của thời hiện đại. Sự phối hợp khổng lồ của hàng loạt chuỗi hành động là điều không thể tránh khỏi trong một cuộc chiến, một cuộc chiếm đóng. Ðiều gì đã làm cho một số hành động trở thành tiêu biểu và những hành động khác thì không? Vấn đề không phải ở chỗ việc tra tấn được thi hành bởi những cá nhân (chẳng hạn “không phải tất cả mọi người”), mà ở chỗ liệu nó có phải là việc làm có hệ thống hay không. Ðược phép. Ðược tha thứ. Tất cả mọi hành động đều do các cá nhân thực hiện. Vấn đề cũng không phải là đa số hay chỉ một thiểu số người Mỹ làm những chuyện như thế, mà là bản chất của những chính sách do chính quyền này thực thi và cách tổ chức quyền hành đã đưa đến những hành động như vậy.
II.
Nhìn qua lăng kính này, những tấm hình đó chính là chúng ta. Chúng đại diện cho sự thối nát căn bản của bất kỳ cuộc chiếm đóng nước ngoài nào, cộng thêm những chính sách đặc trưng của chính quyền Bush. Người Bỉ ở Congo, người Pháp ở Algerie cũng đã tra tấn và hạ nhục tình dục những người dân bản xứ bất phục tùng. Hãy thêm vào bức tranh thối nát chung này sự hoang mang bối rối, hầu như không hề có chuẩn bị của nhà cầm quyền Mỹ tại Iraq để đối phó với những thực tế phức tạp sau "giải phóng." Hãy thêm vào đó những chủ thuyết bao trùm, đặc trưng của chính quyền Bush là Hoa Kỳ đang tiến hành một cuộc chiến tranh bất tận và, nếu tổng thống quyết định như vậy, thì những người bị bắt giữ trong cuộc chiến này trở thành "những kẻ chiến đấu ngoài vòng pháp luật" - một chính sách khởi xướng bởi Donald Rumsfeld đối với tù nhân Taliban và Qaeda ngay từ tháng 1, 2002 - vì thế, như Rumsfeld đã tuyên bố, “đứng về mặt thuật ngữ mà nói,” họ "không được hưởng bất kỳ quyền hạn nào theo công ước Genève." Vậy là bạn có một công thức tuyệt hảo cho sự bạo tàn và tội ác giáng xuống hàng ngàn người đang bị giam giữ mà không có cáo trạng hay được phép gặp luật sư trong những nhà tù do người Mỹ cai quản, được dựng lên kể từ sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9, 2001.
Như vậy, liệu có phải vấn đề không phải chính ở những tấm hình đó, mà ở điều đã xảy ra với “những nghi can” bị Hoa Kỳ giam giữ tiết lộ qua những bức hình đó hay không? Không: điều kinh khủng phơi bày qua những hình ảnh đó không thể tách rời khỏi điều kinh khủng là những tấm hình đó đã được chụp - với những kẻ hành tội đứng tạo dáng, hả hê thỏa mãn trước những tù nhân bất lực của họ. Lính Ðức trong Thế chiến thứ Hai chụp hình những điều tàn bạo mà họ thi hành ở Ba Lan, ở Liên bang Sô-Viết, nhưng họa hoằn lắm mới có những tấm hình chụp đao phủ cùng với những nạn nhân của mình, như ta thấy trong cuốn "Chụp hình Holocaust" của Janina Struk mới xuất bản gần đây. Nếu có gì để so sánh với điều mà những hình ảnh tra tấn đã nói lên thì đó là những tấm hình chụp nạn nhân người da đen bị hành hình trong thời gian từ 1880 đến 1930, với hình ảnh người Mỹ nhăn nhở với những thân xác trần truồng bị mất tay chân của một người đàn ông hay một phụ nữ da đen treo trên một cành cây phía sau lưng họ. Những tấm hình giết người đó lưu kỷ niệm cho một hành động tập thể mà những kẻ tham dự cảm thấy việc họ làm là hoàn toàn đúng. Những tấm hình từ Abu Ghraib cũng thế.
Bản chất của những tấm ảnh hành hình được chụp nói trên là để ghi lại các chiến tích - do
một nhiếp ảnh gia chụp để sưu tầm, lưu lại trong album và trưng bày. Nhưng những tấm hình do những người lính Mỹ ở Abu Ghraib chụp phản ánh sự thay đổi trong cách dùng những hình ảnh đó - chúng trở thành những thông điệp được quảng bá và lưu hành hơn là những món đồ cần lưu giữ. Máy ảnh kỹ thuật số là sở hữu thông dụng của người lính. Ở những nơi mà một thời việc chụp hình chiến tranh là nghề của phóng viên nhiếp ảnh, bây giờ chính những người lính đều là những nhiếp ảnh gia - ghi lại cuộc chiến, với những niềm vui, những cái mà họ cho là ăn ảnh, sự dã man của họ - rồi trao đổi hình ảnh với nhau, và e-mail khắp thế giới.
Càng ngày càng có nhiều người tự quay hình những việc họ làm. Ít ra, hay đặc biệt là ở Mỹ, ý tưởng của Andy Warhol là quay những sự việc thực xảy ra vào thời gian thực - cuộc sống không bị biên tập, tại sao lại cần biên tập những thước quay về đời sống? - đã trở thành bình thường qua vô số những đoạn phim trên mạng điện tử, trong đó người ta ghi lại đời thường, mỗi người trên sân khấu thực cuộc đời họ. Ðây chính là tôi - thức dậy, ngáp, vươn vai, đánh răng, sửa soạn bữa sáng, đưa con đi học. Người ta quay hình mọi khía cạnh trong đời sống của mình, lưu trữ trong hồ sơ máy vi tính và chuyển đi khắp nơi. Ðời sống gia đình đi đôi với việc quay hình cuộc sống gia đình - ngay cả khi, hay đặc biệt khi gia đình đang trong cơn dằn vặt của khủng hoảng và nhục nhã. Rõ ràng là việc liên tục và tận tụy quay video từng thành viên trong gia đình cả khi đối thoại lẫn độc thoại trong nhiều năm đã trở thành chất liệu gây ngạc nhiên nhất trong bộ phim tài liệu "Capturing the Friedmans" gần đây của Andrew Jarecki về một gia đình ở Long Island gặp rắc rối với những cáo buộc về lạm dụng tình dục trẻ em.
Càng ngày càng có nhiều người cho rằng cuộc sống gợi dục là cuộc sống được ghi lại trong những tấm hình kỹ thuật số hay trong phim nhựa. Và có lẽ việc tra tấn còn hấp dẫn hơn, đáng ghi lại, khi có tình dục trong đó. Rõ ràng chúng ta thấy, khi càng thêm nhiều hình ảnh từ Abu Ghraib xuất hiện trước công chúng, là những tấm hình tra tấn được xen lẫn hình ảnh khiêu dâm về lính Mỹ làm tình với nhau. Thật vậy, hầu hết những bức hình tra tấn đều mang chủ đề tình dục, như trong những bức có cảnh ép buộc tù nhân biểu diễn hay thực hiện những động tác tình dục với nhau. Một tấm ngoại lệ, đã trở thành kinh điển, là về một người đàn ông bị bắt đứng trên một cái thùng, đầu bị bịt kín, có giây điện lòng thòng, theo như báo cáo thì người này được cảnh cáo là sẽ bị điện giật chết nếu té xuống. Dầu vậy, không có nhiều những hình ảnh tù nhân trong tư thế đau đớn, hay bị bắt đứng giang tay. Không còn phải hồ nghi khi những việc đó được gọi tra tấn. Chỉ cần nhìn vào sự kinh hoàng trên nét mặt nạn nhân là đủ rõ, cho dù những tình trạng "stress" như thế nằm trong giới hạn chấp nhận được của Lầu Năm góc. Nhưng dường như hầu hết các tấm hình đều thuộc về một tập hợp chủ đề lớn hơn, chủ đề tra tấn và khiêu dâm: cảnh một phụ nữ trẻ dắt một tù nhân trần truồng bằng một dây xích chó đi quanh là hình ảnh “nữ quái” kinh điển.
[2] Và bạn tự hỏi không hiểu bao nhiêu phần của việc tra tấn tình dục gây ra cho tù nhân ở Abu Ghraib là do ảnh hưởng từ kho hình khiêu dâm khổng lồ trên internet - và những người bình thường, bằng việc gửi qua mạng những trang quay chính họ, cố ganh đua (với những hành động đó - ND).
III.
Sống là để được chụp hình, để còn gì lưu lại về một đời người, và vì vậy, tiếp tục sống bình thản, hay ra vẻ bình thản, trước ống kính không ngừng nghỉ của máy quay. Nhưng sống cũng là tạo tư thế chụp. Hành động là tham gia vào chuỗi hành động được ghi lại qua hình. Vẻ thỏa mãn trước hành động tra tấn giáng xuống những nạn nhân trần truồng, bó trói và bất lực chỉ là một phần của câu chuyện. Sự thỏa mãn sâu thẳm nằm trong việc được chụp hình, và người được chụp giờ đây hân hoan nhìn vào ống kính thay vì nhìn thẳng và cứng đơ (như trong quá khứ). Các sự kiện phần nào đã được sắp xếp để chụp hình. Cái cười nhăn nhở là cho ống kính. Sẽ là điều thiếu xót nếu sau khi đã chất những người đàn ông trần truồng lên nhau mà lại không chụp được hình họ.
Xem những hình đó, bạn tự hỏi, làm sao một người có thể cười nhăn nhở trước những đau khổ và sự nhục nhã của một người khác? Ðưa chó săn lại gần bộ phận kín và chân của những tù nhân trần truồng đang co rúm lại vì sợ? Ép buộc những tù nhân bị cùm chân, trùm đầu, thủ dâm hay thực hiện khẩu dâm với nhau? Và bạn cảm thấy ngây thơ khi đặt câu hỏi như vậy, vì câu trả lời, hiển nhiên, là người đời làm những điều như thế với người khác. Hãm hiếp và gây đau đớn cho bộ phận sinh dục là một trong những hình thức tra tấn thông thường nhất, không chỉ xảy ra trong những trại tập trung của Phát xít và ở Abu Ghraib thời Saddam Hussein nắm quyền. Người Mỹ cũng vậy, đã và còn tiếp tục làm thế khi được lệnh, hay khi người ta làm cho họ cảm thấy rằng những người mà họ có quyền lực tuyệt đối để áp đặt đáng bị làm nhục và hành hạ. Họ làm thế khi họ được hướng dẫn để tin rằng những người họ đang tra tấn thuộc về một chủng tộc, một tôn giáo thấp kém hơn. Ý nghĩa của những tấm hình này không chỉ là những hành động như vậy đã được thực hiện, mà còn là việc các thủ phạm rõ ràng không hề thấy có gì sai trái về những điều các tấm hình trưng bày.
Thậm chí còn đáng kinh hoàng hơn, vì những tấm hình được chụp với ý định sẽ gửi đi cho nhiều người khác cùng xem: đó là một trò vui. Và ý tưởng vui này, than ôi, ngày càng - trái ngược với những gì tổng thống Bush đã nói với thế giới - trở thành một phần "bản chất và trái tim đích thực của người Mỹ." Thật khó mà đo được mức độ gia tăng của việc chấp nhận sự tàn bạo trong đời sống ở Hoa Kỳ, nhưng bằng chứng thì có ở khắp nơi, bắt đầu bằng những trò chơi video đầy cảnh chém giết là thú tiêu khiển chính của bọn con trai - liệu việc xuất hiện trò chơi điện tử "Tra tấn bọn khủng bố" có còn xa nữa chăng? - đến việc coi bạo lực là một trò vui đã lan tràn như bệnh dịch trong nghi thức của các băng nhóm trẻ. Tội phạm bạo hành giảm, nhưng những khoái cảm dễ dàng tìm thấy trong bạo lực hình như đã tăng. Từ những vụ chọc ghẹo học sinh mới rất nhẫn tâm ở nhiều trường trung học các vùng ngoại vi nước Mỹ - như mô tả trong phim "Dazed and Confused" do đạo diễn Richard Linklater thực hiện năm 1993 - cho đến những nghi thức hành hạ tàn nhẫn thể xác và nhục mạ tình dục trong các câu lạc bộ nam sinh viên và trong các đội thể thao, Hoa Kỳ đã trở thành một quốc gia nơi những tưởng tượng và thực hành bạo lực được xem như là những trò giải trí lành mạnh và vui.
Những điều trước đây được phân loại là khiêu dâm, chẳng hạn như việc thực hành các ham muốn loạn dâm - như trong phim “Salo,” bộ phim cuối cùng, gần như không xem nổi, của Pier Pasolini, (năm 1975), tả các cảnh say sưa tra tấn tại một tiểu đồn của phát-xít ở miền Bắc nước Ý cuối thời Mussolini - giờ đây, một số người xem như trò chơi giải trí vui nhộn hay để xả hơi. Ðem "chất những người đàn ông trần truồng lên nhau" cũng giống như một trò chơi khăm trong các câu lạc bộ nam sinh đại học, một người đã gọi và nói như vậy với Rush Limbaugh và cho hàng triệu thính giả đang nghe chương trình trò chuyện trên radio của ông ta. Liệu người gọi, ta tự hỏi, đã thấy những tấm hình đó chưa? Không quan trọng. Sự quan sát - hay tưởng tượng? - thật chính xác. Nhưng điều có thể còn làm nổi một số người Mỹ giật mình là câu trả lời của Limbaugh: "Chính xác!" Ông ta reo lên như vậy. "Chính xác đó là quan điểm của tôi. Chẳng khác gì với lễ gia nhập câu lạc bộ nam sinh Skull and Bones,
[3] vậy mà chúng ta sắp phá nát cuộc sống của nhiều người vì thế, và chúng ta sẽ cản trở nỗ lực quân sự của chúng ta, rồi chúng ta sắp thật sự đóng đinh họ chỉ vì họ đã giải trí." "Họ" ở đây là những binh lính Mỹ, những người tra tấn tù nhân. Và Limbaugh tiếp tục, "Bạn biết không, mỗi ngày họ đều đang bị nhằm bắn. Tôi đang nói đến những người đã giải trí, những người này. Bạn đã từng nghe nói về giải tỏa cảm xúc chưa?"
Chấn động và kinh hoàng là những gì mà quân đội của chúng ta đã hứa hẹn với dân Iraq. Và chấn động và kinh hoàng cũng là điều mà những tấm hình đó đã thông báo cho thế giới biết rằng người Mỹ đã đem đến: một khuôn mẫu những hành vi phạm tội công khai, bất chấp các qui ước quốc tế về nhân đạo. Những người lính ngày nay chụp hình, với ngón cái giơ lên tán thưởng, trước những hành động dã man họ thực hiện, rồi gửi những tấm hình đó cho đồng đội. Những bí mật trong đời sống riêng tư mà trước đây gần như bằng mọi giá bạn tìm cách che dấu đi, thì bây giờ bạn lại lớn tiếng khoe, hòng được mời lên đài truyền hình để phô ra.
Ðiều những tấm hình này cho thấy là một nền văn hóa vô liêm sỉ cũng như sự hâm mộ bao trùm trước những hành động tàn ác không thể tha thứ.
IV.
Quan niệm cho rằng tổng thống và Bộ trưởng quốc phòng xin lỗi hoặc bày tỏ nỗi “ghê tởm” là đã trả lời đủ là cả một sự xúc phạm tới tri giác đạo đức và lịch sử của con người. Việc tra tấn tù nhân không phải là một sơ suất. Ðó là hệ quả trực tiếp của chủ thuyết chiến tranh toàn cầu đứng-về-phía-ta-hay-chống-lại-ta. Bằng chủ thuyết này, chính quyền Bush đã tìm cách thay đổi, thay đổi triệt để, thế đứng quốc tế của Hoa Kỳ, sắp đặt lại các cơ chế và quyền lực quốc nội. Chính quyền Bush đã đưa Hoa Kỳ vào một chủ thuyết chiến tranh giả tôn giáo, một cuộc chiến bất tận - vì "chiến tranh chống khủng bố" chính là như vậy. Chiến tranh bất tận dùng để biện minh cho việc giam giữ vô thời hạn. Những người bị bắt ngoài vòng qui định của hệ thống pháp lý Mỹ là những kẻ "bị giam giữ" (detainees); Hai chữ "tù binh," gần đây vừa mới trở thành lỗi thời, hẳn có thể đã gợi cho thấy họ có quyền được đối xử theo công pháp quốc tế và luật lệ của những xứ sở văn minh. "Cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố" bất tận này - mà cả cuộc xâm lăng biện minh được ở Afghanistan và cuộc chiến bất khả thắng ngu xuẩn ở Iraq đã được Lầu Năm Góc gói trọn trong đó – hiển nhiên dẫn đến việc nhục mạ và tước đoạt nhân phẩm của bất kỳ người nào bị chính quyền Bush cho là nghi phạm khủng bố: một khái niệm không được tranh luận và, trên thực tế, thường được quyết định bí mật.
Những cáo trạng dành cho hầu hết những người bị giam giữ ở Iraq và Afghanistan không hề tồn tại. Theo Hội Chữ Thập Ðỏ, từ 70 đến 90% những người bị giam dường như không phạm tội gì ngoài việc họ đã có mặt không đúng nơi, đúng lúc, cuốn vào và bị bắt trong các cuộc càn quét "nghi can." Biện luận chính cho việc giam giữ họ là để "thẩm vấn." Thẩm vấn điều gì? Bất cứ chuyện gì. Bất cứ chuyện gì mà một người bị giam giữ có thể biết. Nếu thẩm vấn là lý do để giam giữ tù nhân vô hạn định, thì đe dọa thể lý, nhục mạ và tra tấn trở thành điều không thể tránh được.
Nên nhớ: ở đây chúng ta không nói về những vụ hãn hữu nhất, chẳng hạn tình trạng " bom nổ chậm" đôi khi được sử dụng như một trường hợp hạn chế, biện minh cho việc tra tấn những tù nhân nắm giữ thông tin về một vụ tấn công sắp xảy ra. Ðây chỉ là việc thu thập thông tin tổng quát, không chuyên, được quân đội và các quan chức hành chánh dân sự Mỹ phê chuẩn để biết thêm về một tổ chức ma quỉ mà người Mỹ gần như không nắm được thông tin gì, lẩn khuất ở những quốc gia mà hiểu biết của Hoa Kỳ là hoàn toàn mù tịt: trên nguyên tắc, bất kỳ thông tin nào cũng có thể hữu dụng. Một cuộc thẩm vấn nếu không thu thập được thông tin gì (bất kể loại thông tin nào) thì bị xem như một thất bại. Càng có cớ để biện minh cho việc chuẩn bị bắt tù nhân khai báo. Làm họ nhụt chí, gây cho họ căng thẳng – đây là các uyển ngữ che đậy những hành vi cầm thú xảy ra trong các nhà tù Mỹ, nơi giam giữ những kẻ tình nghi khủng bố. Bất hạnh thay, như thượng sĩ Ivan (Chip) Frederick ghi trong nhật ký, một tù nhân có thể quá căng thẳng mà chết. Hình ảnh một người đàn ông bó trong túi xác với đá lạnh trên ngực rất có thể chẳng khác gì người tù mà Frederick mô tả.
Những hình ảnh đó sẽ không phai mờ. Ðó là bản chất của thế giới kỹ thuật số nơi chúng ta đang sống. Thật vậy, hình như cần có những tấm hình đó để giới lãnh đạo của chúng ta thừa nhận rằng họ đang có những vấn đề trước mắt. Xét cho cùng, kết luận từ báo cáo của Ủy Hội Quốc Tế Chữ Thập Ðỏ, tường thuật của các ký giả và sự phản đối của các tổ chức nhân đạo về sự trừng phạt dã man đối với những "người bị giam" và "nghi can khủng bố" trong nhà giam của quân đội Mỹ ở Afghanistan rồi ở Irag, được phổ biến đã hơn một năm. Nhưng chắc là những báo cáo đó không hề được tổng thống Bush, phó tổng thống Chenney, cố vấn Condoleezza hay bộ trưởng Rumsfeld đọc. Rõ ràng là phải có những tấm hình mới khiến được họ quan tâm, khi không thể che dấu được nữa. Chính những tấm hình biến vụ việc thành "có thực" đối với Bush và các cộng sự viên. Trước đó, chỉ có những con chữ, dễ che dấu hơn trong thời đại của chúng ta, với vô số các phiên bản kỹ thuật số tự tạo và tự phổ biến, cũng dễ quên hơn rất nhiều.
Giờ đây, những bức hình đó sẽ còn tiếp tục "tấn công" chúng ta – theo cách nhìn của nhiều người Mỹ. Liệu người ta sẽ quen dần với chúng? Một số người Mỹ nói họ xem đã quá đủ. Tuy nhiên, phần còn lại của nhân loại thì chưa. Cuộc chiến bất tận thì dòng suối hình ảnh tuôn ra cũng bất tận. Không hiểu liệu các nhà biên tập giờ đây có bàn đến việc phổ biến thêm hình ảnh, hay trưng ra những tấm hình không bị cắt xén (như vài tấm hình đã được phổ biến rộng rãi: hình một người đàn ông bị trùm đầu đứng trên một cái thùng ở những góc nhìn khác, có khi ghê sợ hơn) thì sẽ làm "lợm giọng" hoặc quá ám chỉ chính trị không? “Chính trị” ở đây xin đọc là: chỉ trích đề án thực dân của chính quyền Bush. Bởi vì không còn nghi ngờ gì về tổn hại mà những tấm hình đã gây ra cho, như Rumsfeld điều trần, "thanh danh của những nam nữ chiến binh anh hùng của quân đội, những người can đảm, có trách nhiệm và chuyên nghiệp đang bảo vệ tự do của chúng ta ở khắp hoàn cầu." Sự thiệt hại này - đối với danh tiếng, thể diện và sự thành công của Hoa Kỳ như một siêu cường duy nhất - là điều mà chính quyền Bush cho là bất hạnh chủ yếu. Làm thế nào mà việc bảo vệ "tự do của chúng ta" - tự do của 5 phần trăm nhân loại - dẫn đến việc đòi hỏi đưa lính Mỹ "đi khắp địa cầu" thì chẳng hề được các quan chức dân cử bàn đến.
Những phản ứng ngược đã bắt đầu. Ngườì Mỹ đang được cảnh cáo chống lại việc say sưa tự lên án. Việc tiếp tục phổ biến những tấm hình đó đang được nhiều người Mỹ xem như gợi ý rằng chúng ta không có quyền tự vệ: xét cho cùng, chúng (những kẻ khủng bố) đã gây sự trước. Chúng - Osama bin Laden? Saddam Hussein? có gì khác nhau đâu? - đã tấn công chúng ta trước. Thượng nghị sĩ James Inhofe của bang Oklahoma, một nghị sĩ Cộng hòa trong Ủy Ban Quân Vụ Thượng Viện, nơi bộ trưởng Rumsfeld đã từng ra điều trần, quả quyết rằng ông không phải là người duy nhất của ủy ban đã "tức giận về sự tức giận" bùng nổ do những tấm hình đó “hơn" là về điều những hình ảnh đó nói lên. "Những tù nhân này," nghị sĩ Inhofe giải thích, "họ không ở tù vì những vi phạm luật lưu thông. Nếu họ bị giam trong những khu biệt giam 1-A hay 1-B, thì họ là những kẻ sát nhân, là những tên khủng bố, là những phiến quân. Nhiều người trong số đó có lẽ trên tay đã dính máu của người Mỹ. Trong khi đó chúng ta lại quá quan tâm đến cách đối xử với những cá nhân này." Ðó là lỗi của "giới truyền thông" đã quấy lên và còn tiếp tục khơi dậy những bạo động chống lại người Mỹ trên toàn cầu. Nhiều người Mỹ nữa sẽ chết. Vì những tấm hình đó.
Dĩ nhiên là có câu trả lời cho cáo buộc này. Người Mỹ đang bị giết không phải vì những tấm hình đó, mà vì những hình ảnh đó tiết lộ những chuyện gì đang xảy ra, xảy ra với sự đồng lõa của hệ thống chỉ huy - như trung tướng Antonio Taguba ám chỉ, và binh nhì Lynndie England đã nói; và (cùng với những người khác), nghị sĩ Lindsey Graham của bang South Carolina, thuộc đảng Cộng hòa, sau khi được xem một loạt những tấm hình vào ngày 12 tháng 5 từ Lầu Năm góc, có ý kiến, "Một số hình có nội dung rất chi tiết khiến tôi nghi ngờ có bàn tay người khác đạo diễn hoặc khuyến khích." Nghị sĩ Bill Nelson của bang Florida, thuộc đảng Dân chủ, thì nói rằng khi xem một tấm hình không bị cắt xén chụp một đống người đàn ông trần truồng ở hành lang – phiên bản này cho thấy nhiều binh lính khác nữa cũng có mặt, một số thậm chí không thèm để ý đến cảnh đó - thì thấy trái ngược với luận điểm của Bộ quốc phòng cho rằng chỉ có những người lính bê bối mới liên quan đến những hành vi đó. "Từ đâu đó trong hệ thống quân giai," nghị sĩ Nelson nói về những người thực hiện việc tra tấn, "họ nhận được lệnh hay được ai đó nháy mắt cho phép." Một luật sư biện hộ cho kỹ thuật viên Charles Graner Jr., là người có trong hình, đã để cho thân chủ của mình nhận diện những người trong tấm hình không bị cắt xén. Theo tờ Wall Street Journal, Graner nói rằng bốn trong số những người đó là lính quân báo và một nhà thầu dân sự làm việc với bên quân báo.
V.
Nhưng sự khác biệt giữa hình ảnh và thực tế - cũng như giữa những chối quanh và chính sách - có thể dễ dàng bốc hơi. Chính quyền ước muốn điều đó xảy ra. "Còn rất nhiều tấm hình và các thước phim video khác nữa," Rumsfeld đã thừa nhận như vậy trong lời điều trần. "Nếu chúng được công bố cho công chúng, hiển nhiên sẽ làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn." Tồi tệ hơn cho chính quyền và những kế hoạch của họ, chắc vậy, không phải cho những nạn nhân hiện thời - và trong tương lai? - bị tra tấn.
Giới truyền thông có thể tự kiểm duyệt, nhưng, như Rumsfeld đã thừa nhận, khó có thể kiểm duyệt được binh sĩ ở hải ngoại, những người không viết thư thăm nhà, như trong quá khứ, những lá thư có thể bị các nhà kiểm duyệt quân đội bóc ra đọc và bôi đen những dòng chữ không chấp nhận được. Binh lính ngày nay giống những du khách, theo lời của Rumsfeld, "họ mang máy hình kỹ thuật số chạy lung tung, chụp những tấm hình không thể tin được này và gửi, trái luật, cho giới truyền thông, trước sự ngạc nhiên của chúng tôi." Nỗ lực của chính quyền nhằm giữ lại những tấm hình đó được thực hiện theo nhiều hướng. Hiện nay, cuộc tranh cãi chuyển sang lĩnh vực pháp lý: giờ thì người ta xếp những hình ảnh đó vào mớ bằng chứng cho các vụ hình sự sẽ xử trong tương lai, những vụ mà kết quả có thể bị ảnh hưởng nếu chúng được công bố bây giờ. Chủ tịch Ủy Ban Quân Vụ Thượng viện, nghị sĩ Cộng hòa John Warner của bang Virginia, sau khi xem những hình chiếu dương bản ngày 12 tháng 5 về những nhục mạ tình dục và bạo hành đối với tù nhân Iraq, đã phát biểu ông cảm thấy "rất mạnh mẽ" rằng những tấm hình ảnh mới này "không nên được phổ biến cho công chúng. Tôi cảm thấy chúng có thể gây nguy hiểm cho những chiến binh nam nữ của quân lực đang phục vụ và đối mặt với những rủi ro rất lớn."
Nhưng sức ép thực sự nhằm giới hạn việc phổ biến những tấm hình xuất phát từ những nỗ lực liên tục hòng bảo vệ và bao che cho việc chính quyền có những chính sách cai trị sai lầm ở Iraq - đồng hóa "sự tức giận" về những tấm hình đó với một cuộc vận động làm suy yếu sức mạnh quân sự của Mỹ và những mục đích nó đang theo đuổi. Sự đồng hóa này cũng giống như cách nghĩ của nhiều người, coi việc phát hình ảnh của lính Mỹ tử trận trong cuộc xâm lăng và chiếm đóng Iraq trên truyền hình như những chỉ trích ngầm về chiến tranh, càng ngày càng sẽ bị xem là không yêu nước khi phổ biến những tấm hình mới làm và làm hoen ố thêm hình ảnh về nước Mỹ.
Suy cho cùng, chúng ta đang trong tình trạng chiến tranh. Một cuộc chiến bất tận. Và chiến tranh là địa ngục, hơn cả những gì những người đưa chúng ta vào cuộc chiến thối nát này đã nghĩ tới. Trong nhà gương kỹ thuật số, những hình ảnh đó sẽ không biến mất. Ðúng thế, một tấm hình giá trị hơn ngàn lời viết. Và cho dù những nhà lãnh đạo của chúng ta quyết định không ngó mắt xem những hình ảnh đó, thì cũng còn hàng ngàn tấm hình và băng video khác nữa. Không thể ngăn chặn được.
Nguồn: “Regarding the Torture of Others” by Susan Sontag, New York Times Magazine, 23.5.2004
[1]Nguyên tựa đề tiếng Anh của bài viết này là “Regarding the Torture of Others”. Tác phẩm xuất bản gần đây nhất của Susan Sontag có tựa đề: “Regarding the Pain of Others”.
[2]Dominatrix trong nguyên bản. Từ này trong tiếng Anh gợi một hình ảnh cụ thể: một phụ nữ mặc đồ da bó sát người, cổ đeo dây (xích chó), cầm roi quất và mang lại khoái cảm cho những người khổ dâm.
[3]Một trong những câu lạc bộ nam sinh ở trường Ðai học Yale, Khi còn học ở đó, Tổng thống Bush đã tham gia câu lạc bộ này.