Trong gian mật thất tại dinh quan thái Bảo, hai mái đầu chụm gần nhau. Trần Nguyên Hàng lắc đầu:
- Thế là hỏng rồi. Đức vua đã hoàn toàn suy sụp.
Trần Khát Chân trầm ngâm:
- Sắp dời đô? Hiểm hoạ đang đến gần. Nàng Ngọc Kiểm đã hy sinh cả tính mạng để cảnh báo chúng ta. Chẳng lẽ chúng ta, những rường cột của nhà Trần, lại không bằng người đàn bà đó, lại không nghĩ ra được một điều gì để cứu vãn cơ đồ?
Thái bảo Trần Nguyên Hàng giọng lo lắng:
- Nghe nói hoàng thượng đang có ý định truyền ngôi cho thái tử An. Ván cờ đang ở thế kịch liệt. Hồ Quý Ly đang đi nước rút. Quý Ly sẽ làm nhiếp chính.
Thực ra dù hoàng thượng có bị mất quyền, có đi tu, hoặc xấu nhất có bị giết, thì chúng ta vẫn có cớ để nêu cờ chính nghĩa. Ngoài đức vua Thuận Tôn ra, Nghệ Hoàng hiện nay vẫn còn những người con các bà cung phi như Mẫn Vương Ngọc và Nam quận vương Trần Ngôi. Vấn đề chủ chốt vẫn là lực lượng phò Trần của chúng ta. Theo ý tôi, thế của phe Quý Ly đang rất mạnh, nhưng phe phò Trần thực ra cũng không yếu. Chỉ có điều bất lợi cho chúng ta là phe Hồ Quý Ly nắm được những địa vị chủ chốt, nắm được những quan lại cấp dưới. Còn các đại thần hầu như đều ngả theo ta. Hiện nay, tình thế đã hoàn toàn rõ ràng. Trước kia, Quý Ly chỉ lộng quyền. Chúng ta đã thất bại trong việc ngăn chặn sự lộng quyền. Quyền hành càng lớn tất nhiên sẽ đi đến tiếm ngôi. Tình hình cấp bách lắm rồi!
Trần Nguyên Hàng ngậm ngùi:
- Chúng ta đã hao tổn tâm trí sắp đặt bao mưu kế...
Trần Khát Chân giọng nghiêm trọng:
- Những mưu kế sắp tới cần phải quyết liệt hơn.
Nguyên Hàng ghé tai thì thầm:
- Bùi Bá Kỳ lại mới gặp tôi...
- Sao? Bá Kỳ ư?
- Phải... Ông ta vẫn muốn liên hệ với chúng ta.
Khát Chân:
- Trước khi gặp ông, Bá Kỳ đã đến nói chuyện với tôi
- Ông từ chối?
- Đúng vậy Tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Phải từ chối thôi. Tôi bảo với Kỳ: “Ông nghĩ kỹ mà xem, Thân Bao Tư nước Sở đã đứng trước cung vua Tần khóc ròng rã bảy ngày đêm; Tần đã cứu Sở. Nhưng kết quả cuối cùng là Tần thâu tóm toàn bộ các nước về tay mình, kể cả nước Sở Nay, nếu chúng ta cầu cứu nhà Minh... cái chung cục chắc ông đã rõ...”
Thái bảo Nguyên Hàng lắc đầu:
- Tôi lại nghĩ có hơi khác một chút. Tôi nghĩ: bọn loạn thần tặc tử ai cũng có thể giết được. Đó là vâng mệnh trời, việc đó ta không thể một ngày làm ngơ. Người trong nước giết không được, thì người nước láng giềng có thể giết. Người nước láng giềng không giết được, thì kẻ di địch, mọi rợ cũng có thể giết... Vì thế có thể nhờ người Minh giết.
Trần Khát Chân có vẻ buồn:
- Tôi không ngăn trở Bùi Bá Kỳ. Ông ta cứ làm theo cách nghĩ của ông ta. Nhưng còn về phần chúng ta, nếu như lòng dân có thể theo ta, điều đó chính vì chúng ta có đại nghĩa; mà một điều để chứng tỏ đại nghĩa là chúng ta không thể sơ suất thơ ngây, đem lòng tin vào kẻ ngoại bang. Họ không hào phóng cho không chúng ta đâu. Điều quan trọng trong cuộc mua bán này, chúng ta không thể dễ dàng đặt cọc nhân phẩm của riêng mình và non sông gấm vóc của tổ tiên.
Thái bảo Nguyên Hàng lặng đi, nhưng rồi ông cũng phải gật đầu:
- Huynh nghĩ như vậy là cặn kẽ. Vì nôn nóng nên tôi có phần nào sơ suất.
- Bá Kỳ cũng rất nôn nóng, nhưng phải nhận rằng ông ta là bậc trung thần. Tuy nhiên... mà thôi ta nên gác chuyện đó lại.
Nguyên Hàng hỏi:
- Vậy theo huynh, hiện nay ta có cách gì?
- Đệ nghĩ nên nắm lấy binh sĩ. Tôi là nhà võ nên biết có rất nhiều tướng sĩ của ta có lòng vì đại nghĩa. Ông thấy Đỗ Tử Mãn, Đặng Tất ra sao?
Trần Khát Chân lắc đầu.
- Còn Nguyễn Cảnh Chân, Trần Vấn?
Khát Chân lại lắc đầu.
- Còn xa kỵ tướng quân Phạm Khả Vĩnh? Ông này vô cùng kín đáo.
Khát Chân cười:
- Đúng ông ta thật kín đáo. Lắm lúc ta còn tưởng ông về hùa với Quý Ly... Tuy nhiên, ông ta có mối giao tình với tôi.
- Ông nói sao?
- Khả Vĩnh có mối giao tình với tôi kể từ ngày đánh Chế Bồng Nga. Ông Vĩnh và tôi đều được Nghệ Hoàng phong tước hầu và chức tướng quân. Nghệ Hoàng còn ban yến riêng cho hai người. Lúc ăn, Nghệ Hoàng nắm lấy tay hai chúng tôi đặt lên nhau. Người nói: “Các khanh đã cứu nguy cho nhà Trần thoát khỏi một phen đại nạn. Ta nay đã già rồi, cũng sắp trở về với tiên tổ. Nhà vua hãy còn ít tuổi. Các khanh là những người giỏi quân cơ. Khi ta đã đi xa rồi, tới lúc đó chắc còn nhiều việc xảy ra. Mong rằng các khanh sẽ là những cột trụ cho nước nhà. Ta rất trông cậy ở hai khanh”. Nói xong thượng hoàng rơm rớm nước mắt. Càng ngày thái sư càng lộng quyền. Phạm Khả Vĩnh đóng cửa ở nhà ít giao du với mọi người. Ra triều đình, ông ta ít nói. Tôi thở dài cho rằng ông ta đã đổi chí, hoặc sợ hãi, nên mũ ni che tai, an hưởng thái bình, sống chết mặc bay. Cháu Khả Vĩnh là Phạm Tổ Thu làm gia tướng của tôi. Tôi thăm dò thái độ. Thu bảo: “Bác Vĩnh tôi rất kín đáo ngay cả vợ con, bác cũng chẳng bao giờ hở ra điều gì về việc triều chính”. Tôi nói: “Ông Vĩnh từ xưa đến nay vốn trọng lễ nghĩa và nghiêm trang, linh cẩn”. Tổ Thu dè dặt: chính vì vậy, nên tiểu nhân mới mạnh dạn xin đức ông trực tiếp gặp gỡ bác. Tôi hỏi: “Tại sao anh khuyên tôi như vậy? “ Tổ Thu thưa: “Chính vì bác tôi là người trọng lễ nghĩa”. Nghe lời khuyên của Tổ Thu tôi đến gặp xa kỵ tướng quân Phạm Khả Vĩnh.
Nhận được danh thiếp của tôi, tướng quân ăn mặc tề chỉnh cùng gia thuộc ra đứng chờ đón ở thềm nhà tiền đường. Câu đầu tiên của ông ta là: “Nhờ ơn sáng đức vua, nhờ tài kinh bang tế thế của quan thái sư, anh em ta mới được an hưởng thời thái bình như hôm nay...”. Tôi như bị một gáo nước lạnh, đớ người ra. Sau đó, ông chuyện trò với tôi rất niềm nở. Tôi phải gượng gạo tiếp chuyện. Đang ở thế chủ động, tôi đâm ra bị động, mãi mới nhập được vai, làm cho câu chuyện bớt phần lúng túng. Sau đó, tôi định cáo từ ra về, nhưng Khả Vĩnh cứ ân cần mời tôi ở lại uống rượu, lấy cớ rằng bữa tiệc đại mai mà tôi mời ông đầu năm, ông không dự được vì ốm. Tôi lại đành gượng gạo ép mình vào tiệc, định nâng chén tiêu sầu mà lòng càng sầu thêm. Ông ta nhắc lại trận đánh Chế Bồng Nga ở Hoàng Giang. Ông kể chuyện, đôi mắt long lanh. Tôi hỏi: “Té ra quan huynh vẫn còn nhớ chuyện xưa?”. Ông ta cười hỏi lại: “Ông cũng còn nhớ chuyện xưa chứ?”. Lúc đó tôi cũng cười. Mấy đứa gia nhân chạy xuống bếp lấy thêm rượu và món nhắm. Đến bấy giờ, Vĩnh mới hỏi tôi: “Còn việc thượng hoàng ban yến sau đó. Ông có nhớ không “Quên sao được!”. “Hôm đó hoàng thượng khóc” - rồi dặn dò chúng ta...”. “rồi cầm hai tay chúng ta đặt lên nhau” - “tôi không quên?” - “Cả tôi cũng ghi sâu trong lòng?” Chúng tôi cầm tay nhau cười lên ha hả. Đúng lúc đó bọn gia nhân mang thêm thức nhắm và rượu lên.
Trần Nguyên Hàng trầm ngâm:
- Tôi hiểu ý bác. Ngoài Phạm Khả Vĩnh, trong triều còn nhiều người cùng chí hướng với chúng ta nhưng không dám bộc lộ ra.
Tôi chắc vậy. Còn vài người chủ chốt như trụ quốc Trần Nhật Đôn, hành khiển Lương Nguyên Bưu, thượng thư Hà Đức Lân...
Thái bảo Nguyên Hàng rất chú ý đến triều chính, nên việc nhân sự thuộc như lòng bàn tay:
- Trần Nhật Đôn là tôn thất, lại chơi thân với Sư Hiền, cứ nhờ Sư Hiền thăm dò là tốt hơn cả. Lương Nguyên Bưu và Hà Đức Lân từ trước đến nay chúng ta vẫn dè dạt không dám quan hệ, vì họ được Quý Ly kéo vào vây cánh. Chính Quý Ly, sau khi thượng hoàng băng, đã cất nhắc họ vào chức hành khiển, làm người thân tín bên cạnh Thái sư. Tuy nhiên. chừng hơn năm nay tình thế đã khác. Lương Nguyên Bưu vốn dòng dõi vinh hiển lâu đời, tổ tiên làm quan từ đời nhà Lý; cụ nội Bưu lại có công lớn trong trận đánh Toa Đô, được vua Trần Nhân Tôn phong tước hầu. Bưu là người tài, lúc đầu Bưu tâm phục Quý Ly, nhưng từ khi thái sư bắt dời đô vào Thanh Đô Trấn. Ông ta thay đổi hẳn. Việc Quý Ly bắt ông dỡ điện Thuỵ Chương và Đại An đem vào xây dựng Tây Đô, đã làm ông phẫn nộ. Có người thân cận với Bưu đã cho tôi biết tâm sự kín đáo của ông. Còn Hà Đức Lân năng nổ nên được Quý Ly tin cậy Nhưng gần đây, ông rất ưu tư. Nhất là chính sách hạn điền, bắt người có ruộng tự cung khai, cắm biển đề tên chủ ruộng, ai thừa số quy định thì sung công. Hành khiển Hà Đức Lân phản ứng, chỉ dám nói với người thân tín trong phủ: “Đặt ra phép này chỉ cốt để cướp ruộng của dân mà thôi”. Thế mà câu nói đó cũng đến tai Quý Ly. Thái sư giáng Lân từ chức hành khiển xuống thượng thư.
Thượng tướng Khát Chân vui vẻ:
- Việc chúng ta chỉ cốt nắm các đại thần. Cánh quan võ đã có tôi và tướng Khả Vĩnh. Còn cánh quan văn, xin ông lo liệu giúp. Việc cơ mật này chỉ vài người biết với nhau là đủ... Những ngày sắp tới, tôi lo thu xếp gia đình vào Tây Đô ngay kẻo Quý Ly ngờ vực. Trong lúc lộn xộn thế này, ta có nhiều cơ hội tiếp xúc với các vị đại thần... Tình thế khẩn trương lắm rồi, xin quan huynh cẩn trọng...
Hai người bái biệt chia tay. Nhà quan Thái bảo ở gần Quốc Tử Giám, sát Đại Hồ, chạy dài suốt từ phía Tây đến phía Nam Thăng Long, từ Quốc Tử Giám nối liền đến khu Trại Mai của Thượng tướng. Khát Chân mặc giả dân thường, Phạm Ngưu Tất đội nón lá làm người lái đò chèo thuyền cho tướng quân. Trong đêm lạnh, con thuyền của Khát Chân xào xạc đi trong bãi sậy. Những con vạc từ mặt hồ bay lên, kêu ngơ ngác trong cái mù mịt hơi nước được ánh trăng chiếu vào trông như khói đục. Những người đánh cá trên hồ gõ nhịp đuổi cá, tiếng thanh tre đều đều buồn man mác. Một người đàn bà nào đó cất tiếng hát. Hát rằng:
...Can qua... rồi lại can qua...
Cái cò lầm lũi ai mà xót thương
Đêm trường... rồi lại đêm trường
Co ro cánh vạc gió sương lạnh lùng...Thượng tướng nghe tiếng hát thấy nao nao trong dạ. Giọt sương đêm hay giọt nước mắt chợt đọng lại và chảy dài trên gò má vị anh hùng... Ông giơ bàn tay to, lạnh ngắt của mình quệt ngang mặt.