Tôi vẫn thường nhủ: “Trong mỗi trận rượu, chỉ nên uống một thứ rượu. Trong môi đêm xem hoa, chỉ nên thưởng thức một loài hoa”. Tôi sợ sự pha tạp. Nhưng đêm nay tôi phá lệ. Bởi vì cái chậu hoá trứ đanh ấy hình như đem đến cho chúng tôi một niềm tư lự... Lúc này đã ngà ngà, tôi thấy nên quẳng gánh ưu phiền, bèn bảo thượng tướng:
- Lão huynh ơi đêm nay phá lệ...
- Sao? Phá lệ?
- Nghĩa là lão huynh nên cho đệ thưởng thức cái vườn lan của huynh.
Khát Chân có một vườn lan mà ông giấu kín ở sân sau nhà hậu đường. Ông dấu diếm những giò lan quý như dấu diếm những nàng ái phi. Ông vẫn độc hưởng vườn lan. Hiếm ai ông cho gặp mặt. Nhưng với Nguyên Trừng tôi hôm nay ông phá lệ. Khát Chân ghé tai nói mấy câu với ông lão bộc, rồi bảo tôi: Có giò Thanh Thanh lan mới ra hoa. Ở Thăng Long chưa nhà nào có giống lan này. Có người khách Chiêm Thành mang nó về từ núi Phù Nam vùng Chiêm Động, Hoá Châu.
Hai người gia nhân khiêng chậu lan ra. Khóm lan trồng trong chiếc chậu men nâu mộc mạc. Thượng tướng cho đặt chậu lan ở góc đình Tị Huyên, ông tỉ mỉ ngắm nghía, xê dịch cho cây hoa nằm ở một tư thế đẹp nhất, ưng mắt nhất. Hai giò hoa lan thanh mảnh, từ đám lá xanh mềm mại vươn lên trời run rẩy; tưởng chừng như chúng cũng cảm giác thấy sự lạ lẫm của góc đình nơi chúng vừa di chuyển đến. Những bông hoa đậu ở sát đầu cành dài như những con bướm mầu cốm, phảng phất xanh và thoáng ánh vàng; những con bướm mảnh dẻ xòe cánh rung rinh, nối đuôi nhau như chực bay vào ánh trăng đêm huyền ảo.
Không ai bảo ai, cả thượng tướng cả tôi đều sửa khăn, sửa áo, sửa cả tư thế ngồi trên chiếu cho thoải mái, cho tề chỉnh. Một lễ nghi để đón hồn hoa... Một lễ nghi để ngắm hoa...
Chúng tôi chờ đợi gió. Chờ đợi một thoảng gió xuân. Chờ đợi một sự di chuyển vô hình lặng lẽ của một cái gì đó như linh thiêng... Chúng tôi đang chờ đợi một mùi hương... Những cánh hoa mầu cốm rung rinh kia, đến một phút nào đó, sẽ toả ra một thứ hương tinh tế, gần thì chẳng thấy, chỉ ở xa xa mới nhẹ nhàng thoáng gặp. Lúc này, rất sợ một luồng gió phũ, chúng tôi cầu mong một thoáng hây hây, thứ gió thoảng mà ta hay bắt gặp lúc xuân. Rất lo lắng, bởi vì gió chỉ hơi quá chút xíu cũng đủ hương tan. Có cảm giác như chỉ một tiếng động mạnh cũng đủ làm thứ hương hiếm hoi ấy biến mất... Mùi hương vương giả chờ đợi ấy. tôi bỗng cảm thấy như nó đang e dè ẩn núp đâu đó. Chỉ đến lúc Nguyên Trừng tôi lim dim nhắm mắt, mới thấy nó chập chờn trước mặt.
Chén rượu hạt mít đang cầm trên tay bỗng dừng lại bên môi. Ta sợ cả vị rượu tê tê đầu lưỡi cũng làm lấn át hương chăng? Tôi từ tốn, khẽ khàng đặt chén rượu xuống, cứ như thể cả đến một động tác thô tục cũng đủ làm tan vỡ thứ hương mảnh mai ấy.
Chính đến lúc này, hương lan bỗng ngát lên sực nức, để rồi chỉ một lát sau đó, nó đã chơi vơi trốn vào thinh không...
Lão tướng Khát Chân bỗng dưng cười ha hả.
Nguyên Trừng tôi sực tỉnh, ngạc nhiên ngẩng đầu lên và chợt trông thấy những chiếc đèn lồng đang từ rừng mai tiến ra. Hai cô hầu cầm đèn lui sang hai phía, nhường chỗ cho một cô gái áo hồng đến bên thềm cúi đầu thi lễ. Khi cô gái ngẩng đầu lên, Nguyên Trừng tôi hoàn toàn sửng sốt vì sắc đẹp của cô. Một vóc người gọn gàng thon thả, nhưng hoàn toàn khác những vóc dáng lả lướt của các cô công chúa, tiểu thư mà tôi vẫn thường gặp Cô chiết khăn vàng, khuôn mặt tròn, lông mày nét ngang, phía dưới cánh mũi xinh xắn là cái miệng rộng với đôi môi đỏ. Điều lạ lùng: Nguyên Trừng tôi bỗng cảm thấy khuôn mặt ấy rất quen thuộc, có thể đã gặp nhiều lần mà không tài nào nhớ ra.
Trần Khát Chân ân cần:
- Thật làm phiền con, Thanh Mai ạ. Đã khuya mà con vẫn đến. Sở dĩ phải mời ngay vì đức ông Nguyên Trừng mới từ Tây đô ra. Đức ông vắng mặt ở Thăng Long mấy tháng nay nên chưa được nghe giọng hát của con. Đức ông là người sành âm luật... Mà con lại tài đàn hát, mới xuất hiện danh đã nổi như cồn.
Cô đây là Thanh Mai ư? ở Tây đô người ta cũng đồn Thăng Long mới xuất hiện một trang tài sắc tuyệt vời. Thật hân hạnh hội ngộ...
Trần Khát Chân vuốt râu. Ông khẩn khoản:
- Đêm nay huynh muốn được hưởng cả tiếng đàn thanh tao của lão đệ nữa. Nghề đàn nức tiếng của lão đệ, huynh mới chỉ nghe danh mà chưa một lần được thưởng thức.
Nguyên Trừng tôi chợt thấy cao hứng, bằng lòng. Cô hầu mặc áo xanh, bưng ra cây nguyệt cầm, rồi quỳ xuống dâng lên. Tôi ngồi trên chiếc đôn sứ, vắt chân chữ ngũ so dây, cầm đàn dạo khúc “phượng hoàng”, rồi sang khúc “Chu trung thính vũ (Trong thuyền nghe mưa), rồi thong thả lẩy cung “Tuỳ hứng lan hương”. Tiếng đàn bổng trầm, chờn vờn như cái bóng loang loáng của ngọn bạch lạp đùa dỡn lúc ẩn lúc hiện trên những lùm mai. Nó e ấp như hương lan ngập ngừng mời gọi. Nó lắng xuống đến mức như câm lạng, để rồi lan toả làm ta ngây ngất. Khúc nhạc tuỳ hứng không lời, khúc kỷ niệm về một loài hoa khi đã gặp sẽ suốt đời khó quên.
Tôi dạo đàn, thỉnh thoảng lại ngẩng lên và bất chợt gặp đôi mắt thăm thẳm của Thanh Mai. Tiếng đàn của tôi mời mọc, những mong muốn trong thâm tâm tôi cũng như mời mọc. Lúc đầu nàng thoáng cười, mãi sau mới đáp ứng. Một giọng hát trong veo cất lên:
Ai bảo hương lan không say?
Hương lan như rượu đầu xuân.
E ấp cho chàng ngất ngây.
Em là bông lan mảnh mai
Hãy tắt gió đi... chàng ơi!
Tắt cả tiếng đàn
Kẻo em run rẩy.Tôi sung sướng mỉm cười. Cô gái đã đọc được ý thơ trong khúc nhạc không lời.
Ai xui câu hát nghiêng nghiêng
Ai xui chén rượu lung liêng?
Ai xui sóng sánh giao duyên?
Ai xui con mắt ưu phiềnTôi sáng mắt lên. Tiếng đàn đã nhập đồng và tiếng hát cũng nhập đồng. Chưa một lần nào trong đời đã có người hiểu tiếng đàn của tôi đến thế. Tiếng hát, tiếng đàn càng lúc càng quyện vào nhau. Tưởng như những tà áo xanh, áo tím, những xiêm tráng váy hồng đang xoắn xuýt với nhau trên cột đu xuân. Tiếng hát Thanh Mai đã dứt, nhưng ngón đàn của Trừng tôi vẫn như lưu luyến. Tiếng đàn vẫn lãng đãng, như một nỗi lo, nó sợ rằng giọng hát sẽ ngừng dứt hẳn. Tiếng đàn chợt như tiếng lo âu. Nó chìm xuống, nhưng lại cố nổi lên bám víu, vẫy gọi.
Trên chiếu tiệc, mọi người lặng im. Tướng quân nhìn tôi, và Nguyên Trừng tôi nhìn Thanh Mai, còn cô gái thì... mơ màng. Tất cả đều như suy nghĩ. Mọi người nghĩ gì? Có phải sự liên tưởng về một dòng sông, trên đó những cánh bèo bồng bềnh?... Và những đợt sóng? Rồi cuối cùng là những gì đó... rất mơ hồ... có thể rất khủng khiếp... hoặc rất đẹp đẽ... đang như những vạt mây trôi tới?... Ai mà biết được...
Bỗng dưng Thanh Mai lại cất tiếng hát. Hát rằng
Ai bảo hương lan không say?
Ai uống hương lan để quên lối về?
Ai uống hương lan đường vào bến mê...Câu hát lơ lửng của cô bỗng dứt, và tiếng đàn của tôi cũng bừng tỉnh, nó bặt im tức khắc. Chiếu tiệc chợt giật mình tỉnh mộng. Cả ba chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Thanh Mai đã hát gì vậy? Lão tướng nhìn cô kinh ngạc, và cả Trừng tôi nữa, tôi cũng nhìn cô, ngạc nhiên không kém. Tôi tự hỏi “Nàng là ai?”.
Cô ta trả lời câu hỏi thầm của tôi bằng một nụ cười bí hiểm - Và cô quay mặt nhìn ra khu vườn mai đang im lìm tắm ánh trăng lu.