Trong huyện có người làng nọ vốn là kẻ vô lại. Một buổi sáng ngủ dậy, thấy có hai người tới bắt đi, tới đầu chợ, gặp người đồ tể treo nửa con heo lên giá, hai người lấy hết sức xô vào, y chợt thấy mình dính liền vào với thịt heo. Lát sau người đồ tể chặt thịt bán, vung dao cắt xẻo, cắt tới đâu y thấy đau tới đó, buốt tới tận xương tủy. Sau lại có người hàng xóm của y tới mua thịt, cứ cò kè trả giá, hết thêm mỡ lại bớt nạc, cắt vụn cả ra, lại càng đau đớn. Đến khi thịt heo đã bán hết, y mới tìm đường về được. Về tới nhà thì mặt trời đã lên cao, người nhà nói rằng y dậy muộn, bèn kể lại những việc mình đã gặp. Gọi người hàng xóm để hỏi, thì quả là đi chợ mua thịt mới về tới nói là có bao nhiêu miếng thịt bao nhiêu miếng mỡ đều đúng vanh vách. Trong vòng buổi sáng mà đã qua một phen bị tùng xẻo chẳng cũng lạ sao!
404. Trung Thừa Họ Vu
(Vu Trung Thừa)
Trung thừa Vu Thành Long đi tuần sát tới huyện Cao Khâu (tỉnh Giang Tô). Gặp lúc có người thân hào sắp gả con gái, quần áo nữ trang rất nhiều, đêm bị kẻ trộm đào ngạch vào lấy hết sạch, quan phủ huyện không biết làm sao truy tìm. Ông Vu sai đóng hết các cổng thành, chỉ mở một cổng cho dân ra vào, sai người canh giữ khám xét rất ngặt để tìm tang vật. Lại ra lời hiểu thị rằng "Tất cả người trong thành đều phải về ở nhà, chờ hôm sau khám xét xem có giấu diếm của cải ăn trộm không". Rồi ngầm dặn những người canh giữ cửa thành lưu ý xem ai ra vào cổng thành nhiều lần thì bắt. Quá trưa thì bắt được hai người, nhưng chỉ đi tay không không có hành lý gì. Ông nói "Đây đúng là kẻ trộm rồi", hai người phân trần không thôi. ông sai cởi áo ra để khám, thấy phía trong áo còn mặc thêm hai chiếc áo đàn bà, đều là vật ăn trộm được. Đại khái chúng sợ hôm sau lục soát khám xét nên vội mang đi giấu, nhưng quần áo nhiều quá khó mang xách nên cứ ngầm mặc trong người ra vào nhiều lần.
Lại lúc ông làm Tri huyện, có lần qua huyện bên cạnh, sáng sớm đi gần tới thành thấy hai người cáng một người bệnh. Người bệnh trùm một cái chăn lớn, trên gối để lộ ra mái tóc, có cài một chiếc trâm hình con phượng, nằm nghiêng trên cáng. Có ba bốn người đàn ông khỏe mạnh đi theo bên cạnh, thay nhau lấy tay đè mép chăn xuống sát người bệnh như sợ gió lọt vào. Cứ giây lát lại ghé vào bên đường cho hai người khác thay phiên khiêng cáng. ông Vu đi qua rồi, sai người quay lại hỏi, họ đáp là em gái bị bệnh nặng phải đưa về bên nhà chồng. Ông đi được hai ba dặm, lại sai người quay lại xem họ vào thôn nào. Sai nhân đi theo, tới một thôn nọ thấy có hai người đàn ông ra đón họ vào nhà, trở lại bẩm với ông. Ông hỏi quan huyện ấy rằng trong thành có giặc cướp gì không, quan huyện đáp rằng không. Lúc ấy triều đình quy trách nhiệm về quan lại rất nghiêm khắc, trên dưới đều sợ nên cho dù trong hạt bị trộm cướp cũng ẩn nhẫn không dám nói ra.
Ông tới quán xá rồi, sai người nhà hỏi kỹ, quả nhiên có người nhà giàu bị cướp vào nhà phóng hỏa giết chết. Ông gọi con người nhà giàu tới hỏi, người ấy không nhận là nhà vừa bị cướp. Ông nói “Ta đã tra xét thay, biết được bọn cướp ở đây rồi, chẳng xa xôi gì đâu”. Con người nhà giàu bèn dập đầu năn nỉ, xin ông rửa hờn cho người chết. Ông tới gõ cửa gặp quan huyện, cắt đặt lính khỏe rầm rộ ra thành, tới thẳng thôn nọ, bắt được tám người, vừa hỏi cung đã nhận tội. Hỏi người đàn bà bị bệnh là ai, chúng khai "Đêm ấy cùng về kỹ viện nên bàn với kỹ nữ, đặt vàng trong cáng cho cô ta nằm ôm lấy để che giấu, vừa mới chia chác xong", mọi người đều phục ông Vu sáng suốt như thần.
Có người hỏi vì đâu mà ông biết chúng là bọn cướp, ông đáp "Chuyện này rất dễ, chỉ vì người ta không để ý thôi. Đời nào có chuyện đàn bà nằm trên cáng mà lại để đàn ông thò tay vào trong giữ chăn bao giờ? Vả lại chốc chốc lại đổi vai khiêng cáng, có vẻ rất nặng nhọc, đủ biết trên cáng còn có đồ vật khác nữa. Mà nếu đàn bà có bệnh phải đưa về thì phải là đàn bà ra cổng đón chứ. Đây lại là hai người đàn ông, mà chẳng hề ngạc nhiên hỏi han một lời, nên biết chắc đó là bọn cướp”.
405. Vương Tử An
(Vương Tử An)
Vương Tử An là danh sĩ huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông) nhưng lận đận mãi ở chốn trường ốc. Khoa ấy vào thi xong, Vương rất mong mỏi, gần đến ngày ra bảng thì uống rượu say mèm, về nằm trong phòng. Chợt có người bẩm ngựa báo tin thi đỗ tới Vương choàng dậy nói "Thưởng người báo tin mười ngàn”. Người nhà thấy say, nói dối cho qua chuyện "Xin cứ ngủ yên, đã thưởng rồi", Vương lại ngủ tiếp. Giây lát lại có người bẩm “Ông đỗ Tiến sĩ". Vương nói một mình "Còn chưa lên kinh, làm sao đã đỗ Tiến sĩ”. Người ấy nói “Ông quên rồi à? Đã qua tam trường rồi". Vương cả mừng lại vùng dậy gọi "Thưởng người báo tin mười ngàn”. Người nhà lại nói dối "Xin cứ ngủ yên! Đã thưởng rồi". Lát sau, một người bước mau vào bẩm “Ông thi điện đỗ Hàn lâm, Trưởng ban đang có mặt”. Nhìn ra quả có hai người đang lạy trước giường, áo mũ tề chỉnh. Vương gọi dọn rượu mời, người nhà lại ậm ừ, cười thầm là say tới như thế.
Hồi lâu, Vương lại nghĩ không thể không ra ngoài cho vẻ vang với làng xóm, cất tiếng gọi Trưởng ban, nhưng gọi cả chục lần vẫn không thấy thưa. Người nhà cười nói "Xin tạm nằm thêm một lúc, ông ta vừa ra ngoàí". Hồi lâu quả nhiên Trưởng ban lại tới, Vương đập giường giậm chân mắng thằng đầy tớ chậm chạp đi đâu mất mặt, Trưởng ban nổi giận nói “Đồ học trò khố rách vô lại, nãy giờ ta đùa với ngươi, mà ngươi mắng thật à?". Vương giận lắm vùng dậy tát cho rơi cả mũ, Vương cũng ngã theo. Vợ vào đỡ dậy nói "Sao mà say tới mức này?”. Vương đáp "Thằng Trưởng ban đáng ghét, ta phải trị nó chứ say cái gì?". Vợ cười nói "Trong nhà chỉ có một mụ già ban ngày nấu cơm, ban đêm ấp chân cho ông, lấy đâu ra Trưởng ban? Chờ đến khi ông rạc xương ra ấy à?". Con cái đều phì cười, Vương cũng hơi tỉnh rượu, chợt như tỉnh mộng mới biết những việc trước đó đều là nhảm nhí. Nhưng vẫn nhớ việc Trưởng ban rơi mũ, tìm tới sau cửa thấy có một cái núm giải mũ to bằng cái chén, mọi người đều lạ lùng. Vương cười nói "Người xưa bị quỷ trêu chọc, ta nay thì bị hồ lấy làm trò cười"
Dị Sử thị nói: Học trò vào trường thi có bảy cái giống. Lúc mới đầu, đi chân mang tráp giống ăn mày. Lúc gọi tên, quan thét lính mắng giống thằng tù. Lúc về chỗ ngồi, nhô đầu lố nhố, thò cẳng quều quào giống ong lạnh cuối thu. Lúc ra khỏi trường thi, tâm thần thảng thốt, trời đất đổi màu giống chim bệnh rời lồng. Lúc chờ ra bảng thấy cây cỏ đều sợ sệt, mơ mộng cũng chập chờn, nghĩ tới chuyện thi đỗ thì khoảnh khắc lầu gác tựa mọc lên, nghĩ tới chuyện thi rớt thì chớp mắt xương cốt như mục nát, đứng ngồi không yên giống con khỉ bị trói. Chợt tới lúc ngựa ruổi báo danh, không có tên mình thì tinh thần suy sụp chết điếng giống con nhặng say thuốc, ai chọc ghẹo cũng không biết. Đầu tiên thì lòng dạ tan nát, chửi quan trường không mắt, bút mực không thiêng, mọi đồ dùng học hành đều đem đốt, đốt không cháy thì giẫm đạp, giẫm đạp không vỡ thì ném xuống cống, rồi xõa tóc vào núi, quay mặt vào vách, nếu lại có kẻ lấy văn chương "thả phù”* khen hay dâng cho mình, nhất định sẽ vác dao rượt. Không bao lâu, ngày tháng trôi đi, lòng dạ nguôi dần, lại đâm ra ngứa nghề, thì giống chim cưu vỡ trứng, đành tha rác làm tổ, ấp ủ trứng mới vậy. Tình cảnh như thế, người trong cuộc khóc lóc tưởng chết song người ngoài cuộc nhìn vào chỉ thấy buồn cười. Vương Tử An nháy mắt trong lòng sinh muôn mối, chắc hồ quỷ cười trộm đã lâu mới nhân lúc bị say mà đùa cợt, nên lúc đầu giường tỉnh rượu, há không bật cười tự nhạo mình sao? Nghĩ lại cái ý vị của sự đắc chí chỉ trong chớp mắt, các ông trong rừng văn thì chỉ được trong đôi ba chớp mắt, thế mà Vương Tử An chỉ nếm hết trong một buổi, cái ơn của hồ đáng sánh với của bậc phòng sư** vậy.
* Văn chương thả phù: tức văn chương bát cổ dùng trong khoa cử ngày trước, gồm có tám đoạn, chuyển ý từ đoạn trước sang đoạn sau thường dùng hai chữ "thả phù” (vả lại) để đưa đẩy.
** Phòng sư nguyên văn là "tiến sư”, chỉ các quan chấm thi, ngày trước học trò đi thi được lấy đỗ phải làm lễ tạ ơn, Tôn trọng như bậc thầy.
406. Trẻ Chăn Trâu
(Mục Nhụ)
Có hai đứa trẻ chăn trâu vào núi gặp hang sói, thấy trong có hai con sói con, bèn bàn tính rồi mỗi đứa bắt một con, chia nhau leo lên hai cái cây cách nhau vài mươi bước. Giây lát sói mẹ về, vào hang thấy mất con, có vẻ lo lắng hoảng sợ. Một đứa trẻ bèn kéo tai kéo chân sói con cho nó kêu lên, sói mẹ nghe tiếng ngẩng nhìn, giận dữ lao tới dưới gốc cây, gầm thét cắn xé. Đứa trên cây kia lại chọc cho sói con kêu ầm lên, sói mẹ nghe tiếng, ngoảnh nhìn bốn phía, vừa trông thấy thì bỏ gốc cây này phóng qua, đứng dưới gầm thét. Tiếng sói con lại kêu lên trên cây bên này, sói mẹ lại phóng qua, cứ thế miệng không ngừng gầm, chân không ngừng chạy, qua lại vài mươi lần thì chạy chậm dần, gầm nhỏ dần, sau cùng nằm phục xuống hồi lâu không động đậy. Hai đứa trẻ leo xuống nhìn, thì đã đứt hơi chết rồi.
Nay có kẻ cường hào trợn mắt vỗ kiếm như định nuốt sống người ta, kẻ làm cho y nổi giận bèn đóng chặt cửa. Y chữi mắng kiệt sức khan tiếng thấy không ai chống lại, há chẳng đắc ý tự cho là oai hùng? Không biết đó chỉ là cái oai của thú vật, người ta cố ý chọc ghẹo để làm trò vui mà thôi.
407. Anh Ất Ở Kim Lăng
(Kim Lăng Ất)
Người bán rượu ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) là Ất, mỗi khi cất rượu xong lại ngâm vào nước cho nồng thêm, người mạnh rượu bao nhiêu cũng chỉ uống vài chén là say mềm, nhờ vậy nổi tiếng là có rượu ngon, trở nên giàu có. Một buổi sáng thức dậy, thấy có con hồ say nằm cạnh hầm rượu, bèn trói chặt bốn chân, đang tìm dao để giết thì hồ tỉnh dậy cầu khẩn rằng "Xin tha cho, ông muốn gì cũng được”. Ất bèn thả ra, nó lăn lộn vài cái biến thành người. Lúc ấy có họ Tôn ở cùng ngõ, vợ bị hồ ám, Ất nhân đó hỏi. Hồ đáp "Đó là ta đấy". Ất thấy người em dâu họ Tôn rất đẹp, xin hồ dắt theo, hồ lấy làm khó. Ất nài nỉ mãi, hồ bèn đưa đi, tới một cái hang, hồ lấy một tấm áo đưa cho, nói "Đây là của tiên huynh để lại, mặc vào thì có thể tới đó được". Ất mặc vào đi về nhà, người nhà đều không ai nhìn thấy, tới khi mặc áo thường trở ra, họ mới nhìn thấy. Ất cả mừng, cùng hồ tới nhà họ Tôn, thấy trên tường dán lá bùa lớn vẽ mấy nét ngoằn ngoèo như con rồng. Hồ sợ nói "Hòa thượng ác thật ta không vào được", bèn lui lại bỏ đi.
Ất mon men tới gần thì có con rồng thật từ vách nhô ra, ngẩng đầu muốn bay tới, sợ quá cũng lui lại. Đó là họ Tôn tìm được một nhà sư nước ngoài nhờ trấn yểm hồ, nhà sư mới trao cho lá bùa về trước dán chứ chưa tới. Hôm sau nhà sư tới, lập đàn làm phép, hàng xóm kéo qua xem, Ất cũng trà trộn trong đó, chợt biến sắc bỏ chạy về nhà, tới cửa thì ngã xuống đất biến thành con hồ, chân tay còn mặc quần áo người. Nhà sư toan giết, vợ con Ất lạy lục năn nỉ, nhà sư bèn sai trói nhất lại, hàng ngày cho ăn uống, được vài hôm thì chết.