Erik Lange và mục sư Honorius đi dọc bờ biển về phía bắc của đảo xa dần cây đèn pha mà mục sư đã đến thăm. Họ theo hướng ai về nhà nấy.
Trước mặt họ mở ra khoảng rộng vắng vẻ của bãi đá cuội trong lúc thuỷ triều thấp với dải thắt lưng cát và đá. Bước chân vẫn trên mặt đất cứng trong gió hiu hiu dưới bầu trời bao la thật là thú vị. Những cồn cát lởm chởm cây guốc bê hình như tạo ra cho biển những câu hỏi thầm lặng, ở đàng xa, phía trong xa vùng đất, nơi các đỉnh núi bị xoá mờ trong sương xám, ngọn bradlyaerg dựng lên cái chóp xanh lục nhạt.
Hai người đàn ông đi về phía đó. một đàn chim vỗ cánh bay khá xa trên biển và những con sóng phủ bọt lên những đá cuội và những con sứa.
Ông thầy thuốc và ông mục sư quay lại phía ngọn tháp màu vàng trắng cắm trong cát. Tường và mái của ngôi nhà màu xám như những công sự có dáng như chiếc quan tài ở dưới những cồn cát. Trong cảnh âm u này mũi nhọn của hòn đảo có vẻ như một ngón tay giơ ra chỗ biển trời hoà lẫn vào nhau.
Những bước đi của người bưu tá và chân con chó của anh ta đã in dấu trên cát. Anh đã qua đây một tuần trước.
Erik Lange nhớ lại đã trông thấy, ngay năm đầu cư trú ở đây, những khúc gỗ bị sóng đánh vào dưới chân các cồn cát.
Thuỷ triều thấp để lộ ra một quãng rộng những đá ngầm phía tây bắc. Erik đã chạy đến đấy như bị thúc đẩy bởi hy vọng đột ngột muốn thấy xuất hiện ở đấy một vùng đất mất như thể bờ biển Jutland đã có thể gần lại!
Bây giờ anh đã hiểu rằng trong vài giỡ nữa một phần tư dặm mà đảo tăng lên trong lúc này sẽ biến mất dưới nước.
- Thưa ông Honorius – anh nói – ông đã đi vòng hết một phần ba dặm vuông diện tích đảo này chưa?
Mục sư ngước mắt lên. Ông bước đi, cúi người xuống cát, chiếc ô ở sau lưng.
- Chưa – ông nói, vừa lắc đầu – chưa đi, nhưng tôi đã trông thấy nó từ trên cao của Sonderbjaerg bao bọc xung quanh bờ biển.
Erik Lange ngập ngừng một lát:
- Ông đã cảm thấy gì khi nhìn thấy cảnh này.
- Tôi cảm thấy cái gì ư? Tôi đã nghĩ rằng đối với tôi dưới là thế giới, và tôi phải xây dựng sự nghiệp của tôi ở đây.
Erik Lange nhìn nghiêng lên thái dương, đôi má lõm, mí mắt nặng nề trập xuống của mục sư. Và anh còn nghĩ, cũng như hôm đó, ở nhà anh, bên cạnh Ellen, người này đã không biết gì cả về cuộc sống trên đảo, nếu biết thì ông ta đã chẳng bao giờ đến nơi này. Anh tiếp tục nói, giọng rất khẽ:
- Ông định nói gì, thưa mục sư? – anh nói, lần đầu tiên anh gọi ông bằng chức danh của ông.
- Tôi muốn nói là chỉ riêng ở đây, tôi có thể không hổ thẹn khi nghe người ta gọi tôi như ông vừa gọi đấy.
- Tại sao chỉ riêng ở đây?
- Bởi vì ở đây, không có ai khác muốn mang chức vụi đó vì vinh quang của Chúa.
Họ tiếp tục im lặng bước đi. một con ác là biển bay trước mặt họ không một tiếng vỗ cánh, và lượn phía trên con đường lún lõm, nơi đoàn cứu nạn phải đi qua mỗi khi bão biển tấn công vào bờ.
Ông mục sư siết hai bàn tay xung quanh chiếc ô.
- Bác sĩ ơi, chắc là từ lâu rồi ông không tin ở Chúa nữa, ông có còn nhớ sự "hiện hữu" của Người?
Erik ngập ngừng, Honorius tiếp tục sôi nổi:
- Tôi không nói về Thần Linh, Tinh Thần Phổ Độ, hay là cái gì mà ông đánh giá, những thứ mà ông đặt vào chỗ Chúa. Chúa của Kinh Thánh chúng tôi, của Chúa thần khải, của Chúa riêng mình.
Mắt Erik gặp khuôn mặt táixanh dưới bóng chiếc mũ và anh nhớ lại sự ghê sợ thiêng liêng của thời trẻ thơ.
- Tôi thấy rằng đó là ông nhớ lại. chứ ai dám tin rằng mình được gần Chúa để tự nhủ là biểu hiện của Người, là tiếng nói của Người trên thế gian này?
Thầy thuốc mỉm cười:
- Tôi tìn rằng có những người dám tin thế và số người đó không phải là ít, nghĩa là…
- Cái gì vậy?
Erik Lange nhún vai
- Ở đây, thật thế, họ không mạo hiểm một cách tự nguyện lắm đâu. Cứ hỏi cụ già Bek về các ông mục sư trong vòng năm mươi năm nay.
- Và ông không hiểu vì sao tôi lại dám, vì sao tôi buộc phải đến đây?
- Vì sao ông lại dám thì tôi biết, còn vì sao ông lại buộc phải thì không.
- Hừ - ông mục sư nắm cánh tay anh – vậy là ông không biết gì hết về sự lo sợ của Chúa, lớn đến nỗi có khả năng thắng được những nỗi lo sợ của chính con người?
Honorius bỏ mũ và lau trán, mặc dù khí biển mát mẻ.
- Chúa bé nhỏ một khi người cần sự phục vụ của tôi, Chúa sẽ hùng mạnh một khi người có thể cho tôi can đảm để hiến dâng sự phục vụ đó cho Người.
Họ kề vai nhau tiến bước dưới bầu trời chiều âm u. Ngọn Nordbaerg lớn dần trước mặt họ như thể nó là núi Arante, chứng tỏ họ không phải lạc giữa biển cả, mà mảnh đất này còn thuộc về họ.
- Tôi hiểu, ông mục sư ạ - Erik nói tiếp, vừa rẽ hướng về làng theo những vết bánh xe – ông thích không buộc phải gặp ở đây một vài đồng sự ở lại…trên đất liền.
- Chính là họ - những bàn tay gầy của Honorius siết chặt chiếc ô hơn – đã làm Chúa bé nhỏ khi Người cần đến sự phục vụ của tôi.
Họ đi qua cái buồng điện thoại đơn độc dưới chân ngọn Nordbyarerg, từ đây người gác có thể báo động cho trạm cứu hộ trong trường hợp có tai nạn. Rồi họ đi dọc theo những bãi cát trên hoang mạc.
Rất xa trước mặt họ, gần như ở sát mặt đất một vài điểm sáng lấp lánh trong làng.
Wenn alle untreu werden
So bleib ich Dir doch treu
Dass Dankbarkeit auf Erden
Nicht ausgestorben sei Erik Lange cảm thấy bài thánh ca của Eberhard vang lên trong anh. Bỗng nhiên anh kêu lên:
- Này, ông đã đến nhà cụ giáo Bek rồi chứ?
Honorius lắc đầu:
- Tôi đến đây chỉ mới một tuần. Có phải là ông già biết nhiều mục sư và đã là giáo viên thuộc quyền của họ, của tất cả các mục sư?
- Vâng, cụ ấy sống ở đây từ năm mươi lăm năm. Tôi nghĩ rằng chính cụ ấy đã là mục sư thực sự trong nửa thế kỷ qua. Bây giờ thời của cụ ấy đã hết, có lẽ là bắt đầu thời của ông đấy.
- Có thể thế, bác sĩ ạ, giá tôi có thời gian để chứng minh như cụ ấy.
Erik ngập ngừng một lúc, rồi nói:
- Chiều thứ bảy này ông hãy đi cùng chúng tôi đến nhà cụ ấy. Tôi tin rằng…hay là thôi, hãy chờ tôi hỏi trước xem ông có thể đến không, và xem tôi có thể kể cho ông biết vì sao tôi buộc phải hỏi xin phép.
Honorius nhìn anh ngạc nhiên, nhưng Erik xua tay.
- Không, tôi không thể nói với anh gì hết, không thì tôi lại phải nói với ông tất cả.
Ông mục sư dừng lại. Ông nhìn lại phía sau lưng. Ánh sáng ngọn đèn pha lớn bừng lên bất thình lình và tắt đi, chiếc tàu toả sáng lên ở hai dặm ngoài rồi ngọn lửa của nó biến đi trong khi ngọn lửa của chiếc đèn pha lớn xuất hiện lại.
Trên một gò đất của hoang mạc dựng lên cây cột nặng nề của chiếc đèn pha địa phương. Người ta thấy đi đi lại lại trước kính cửa là một người gác, dân chài trong làng. Thình lình lửa cháy sáng trên cao giống như một ngọn đèn lón làm cho bóng đen dày đặc hơn xung quanh hai người đi dạo. Honorius lại nói:
- Tôi cảm thấy sức sống mãnh liệt ở đây, một mình tôi trong đám giữa những ngọn sóng. Ở nơi này còn gì dễ dàng hơn là cảm nhận được tiếng nói của Người?
Ở phía ngoài làng hai người bị đuổi kịp bởi người gác đèn chiếu. Anh ta có vẻ vội vàng vì họ nghe anh ta thở dồn.
Anh bỏ chiếc mũ viền lông và vượt qua hai người.
- Chào Boje Grue – Erik Lange nói.
Người gác ngạc nhiên dừng lại. Quả đúng như người ta đã nói rồi! Ông bác sĩ đã nói với mọi người rồi!
Anh ta hơi ngập ngừng một chút, mũ cầm tay, vừa ngó nghiêng về phía ông mục sư.
Erik mỉm cười. Anh chàng chắc là vội vã đi xem người mới đến đảo.
- Chúng tôi đã đến tận chỗ đèn pha – Erik giải thích.
- Đúng, đúng rồi! Vâng từ chỗ đèn chiếu, tôi đã trông thấy các ông đi dọc Nordstrand.
Ông mục sư đến thăm người gác đèn pha ư? Đúng! Đúng thế!
Người đàn ông gật đầu, mắt không rời ông mục sư.
Honorius nhìn anh ta, ông đỏ mặt, hai tay sờ lần trên đầu khoằm chiếc ô.
- Tôi là mục sư mới của đảo – ông nói, vừa giữ đôi mục kỉnh sát vào khuôn mặt mỏng dính đóng khugn trong mớ tóc và chòm râu đen xanh, nổi bật lên trên cảnh hoang mạc, như trả lời một câu hỏi nghiêm túc và quan trọng.
- Chúc mừng ông mới đến – Boje Grue đáp. Và anh nói thêm – Miễn là ông cảm thấy tốt ở chỗ chúng tôi!
- Tôi tin thế - ông mục sư trả lời – nếu không thì tôi đã không đến.
- Thế thì còn gì bằng. còn ông bác sĩ? Người ta nói ông không ở lại làng này?
- Không phải thế đâu, Boje Grue ạ. Trái lại chúng tôi chỉ nghĩ đến chuyện ở lại đây thôi.
- Thật thế, thật thế ư!
Ngư dân gật gật đầu thêm lần nữa:
- A, thế là người ta cũng sống được ở đây!
Rồi anh đội lại chiếc mũ lông và đi về phía những nhà có tường thấp quét vôi, hình như xuất hiện từ mặt đất đàng sau cái nền đắp bằng đá. Không khí lạnh co mùi cá trích rán.
- Anh ta sẽ đi kể hết cho những người khác – Erik nói.
Honorius kêu lên:
- Có thực là cần phải kể rằng chúng ta, hai người phục vụ chúng ta ở lại nhiệm sở của chúng ta không?
Erik Lange mỉm cười:
- Trong một buổi chiều như chiều hôm nay thì thật khó mà đoán được rằng ở đây có những ngôi nhà và lại có cả người nữa. Phải nhìn kỹ mới phát hiện được những dấu vết của sự sống trên đảo!
- Tuy nhiên tôi tin rằng cuộc sống vẫn tự nó diễn ra và phát tiếng gọi – mục sư nói, vừa hất đầu về phía cái bóng nghiêng đang xoá mờ trong bóng tối trên đường phố.
- Đúng đấy, bởi vì họ đã phải chịu thiếu mục sư từ lâu rồi, thiếu cả thầy thuốc nữa.
Erik nói thêm mấy tiếng sau, giọng rất khẽ.
Vừa lúc ấy một vệt sáng yếu hiện lên ở một ngôi nhà, ở cái nhà đầu tiên thuộc một thương gia trên đảo. Cánh cửa kính rít lên chỗ bản lề và Ellen bước ra trên bậc thềm, cánh tay ôm những gói hàng. Cô còn nói với một người nào ở trong cửa hàng.
- Ông hãy gửi thứ còn lại cho Steffen Tannis, cho đứa bé.
Rồi cô cúi chào từ giã và bước xuống đường phố.
- Tannis? Có phải vợ anh ấy ngày mai chôn, tôi sẽ phải làm lễ? – Honorius hỏi.
Lange gật đầu.
- Vâng, chị ấy đẻ một đứa con ngay cái đêm ông đến đây. Tôi không biết còn có chuyện gì với đứa bé này nữa, nhưng có điều không hay. Mẹ bị câm, đành rằng câm không di truyền! Bố là một kẻ vô lại, kẻ độc nhất loại đó ở đây.
- Vợ ông sẽ chăm sóc tốt đứa bé và sẽ thấy rõ nó thế nào – Honorius gặng lại.
Erik bỗng hiểu ra sự cầu xin câm lặng trong đôi mắt Ellen ngay từ cái đêm đầu tiên đó và từ cả tuần nay.
- Cầu mong Chúa phù hộ, Ellen – anh kêu lên, vừa siết bàn tay vợ trong tay anh, lấy làm ngạc nhiên về sự hăng hái của cô.
- Cảm ơn anh, Erik Lange!
Mục sư nâng mũ lên rồi đi khuất vào trong bóng tối của lối mòn dẫn đến ngôi nhà đơn độc.
Khi hai vợ chồng đi ra khỏi bóng tối để tìm thấy lại ánh sáng yếu ớt của ban ngày mà đầm lầy phản chiếu lại, Ellen hỏi:
- Anh Erik, có nghiêm trọng không anh nhỉ? Anh có nghĩ là em có thể đưa đứa bé về chỗ chúng ta, về nhà ấy mà? – cô hơi vượt lên phía trước để nhìn mặt chồng.
Erik cúi mặt trước cái nhìn của vợ, rồi anh ho.
- Ừ được, Ellen ạ, anh nghĩ rằng anh phải đền bù cho em vì bao nhiêugiờ cô đơn!
- Em chưa bao giờ cảm thấy đơn độc ở đây, Erik ạ!
Anh nhìn bờ cỏ sẫm của lối đi và giải cát hẹp.
- Ngay cả khi…
Anh vẫn không dám ngước mắt lên, nhưng Ellen dừng lại và anh bị buộc gặp phải một cái nhìn toả sáng khiến anh bối rối.
- Nhưng – anh nói – em không biết…
Rồi anh im lặng, hoảng sợ vì những gì anh suýt phản bội và đánh mất trong giây phút này, hoảng sợ vì sự đau khổ anh sắp gây ra cho Ellen và cho bản thân anh.
Nụ cười của Ellen, tuy nhiên, còn rạng rỡ hơn khi họ đi vào trong bóng râm của bụi cây liễu.
- Erik, anh đừng nói gì cả và đừng băn khoăn gì hết – cô nói nhỏ nhẹ, vẫn giữ nguyên nụ cười – Anh không biết rằng em đã biết anh, em đã hiểu rằng anh sẽ trở về với em à?
- Ellen, vậy là em đã biết?
Anh đứng im giữa rặng liễu.
- Em đã biết hết và biết hơn anh. Ôi, anh chàng mơ mộng, anh nghĩ rằng nếu không phải là như thế thì em sẽ mạo hiểm đi theo anh đến đảo này ư?
Anh cúi đầu xuống hơn nữa, không hiểu là anh xấu hổ trước cô ấy hay trước bản thân mình.
- Mơ mộng, em bảo thế ư? Công trình của anh, như vậy, chỉ là một giấc mộng?
- Chính là vì công trình của anh mà em đánh gía anh là người mơ mộng. Những người khác không thể mở cái đó, nhưng anh đã không thể thực hiện được nó.
Chiếc gậy của Erik đi theo dải cát của lối mòn.
- Từ đâu em biết được điều ấy?
Cô không trả lời ngay, bàn tay cô lướt nhẹ trên bàn tay chồng.
- Erik, nếu nó không như thế thì anh có đến đảo này không?
- Em định nói gì?
- Chuyện của anh thì cũng giống như của Hanna. Chị ấy có thể sinh ra một đứa con, nhưng chị ấy thiếu sức lực cần thiết để sống cho nó.
- Nhưng…
- Và vì vậy anh đã nấp ở đây, anh đã cần một sự nghỉ ngơi lớn hơn sự nghỉ ngơi mà anh tạo ra cho những người khác.
- Ellen, những điều em nói rất đúng, cái đó là một phần của con người anh. Khi anh nghĩ là anh đổ trách nhiệm cho em…
Cô còn cười, một nụ cười bảo vệ của người mẹ, người mẹ mà anh không bao giờ biết.
Bỗng nhiên cô thì thầm và lần đầu tiên nụ cười của cô biến mất.
- Erik, an hsẽ không rời bỏ em nữa chứ?
Anh ngước mắt lên.
- Ellen, nếu hôm nay anh phải rời bỏ em, rời bỏ đảo thì thà anh lao xuống biển. Chỉ ngay bây giờ anh mới cảm thấy quyền được nói anh là chồng em – Anh nói thêm.
- Anh đã lấy được quyền đó ngay từ khoảnh khắc đầu tiên em trông thấy anh.
- Không, không, Ellen, và từ…hạnh phúc biết bao khi cuối cùng được nói với em tất cả!
Cô đã lấy lại nụ cười. Hình như cô cười sự sai lầm của anh, sự luyến tiếc của anh.
Còn anh thì ngắm nghía cô:
- Anh tin rằng nếu em có nhận tất cả những đứa trẻ của làng làm con nuôi đi nữa thì em cũng vẫn đủ sức để đáp đền cho chúng đủ mọi thứ!
Cô có một nụ cười khẽ và tự tin, rồi, bỗng nhiên cô nhìn vào đôi mắt anh:
- Và nếu như anh không nhầm, nếu đứa bé bị mù?
Anh thong thả lắc đầu;
- Em sẽ có đủ ánh sáng cho nó.
Rồi anh cúi xuống hôn lên bàn tay lạnh giá đang siết chặt bàn tay thật chắc