Các băng ghi âm và biên bản công khai cho thấy hai phản ứng khác và phần nào trái ngược nhau của Nhà Trắng khi Hồ sơ Lầu Năm Góc lên trang ngày 13-6-1971. Một mặt, bản thân Nixon tỏ ra lạc quan với các nội dung được công bố, trong đó có những thông tin không mấy tốt đẹp về các Tổng thống tiền nhiệm, người của Đảng Dân chủ. Nhưng đồng thời ông sợ rằng sự việc sẽ là một tiền lệ cho những tiết lộ nay mai về hoạt động và chính sách bí mật ông ta đã và đang áp dụng với Đông Dương. Hai thái độ có phần trái ngược nhau chính là cơ sở dẫn đến những hành động của Tổng thống và người của ông. Nó đưa Nixon đến sự sụp đổ hoàn toàn về chính trị mà người ta vẫn gọi tên là vụ Watergate.
Nixon và Henry Kissinger lần đầu tiên nhắc đến vấn đề trên vào một ngày chủ nhật. Hai thái độ đã được bộc lộ. Gọi điện cho Tổng thống từ California, Kissinger bình luận:
"Theo dư luận(105), sự kiện này có thể sẽ có phần thuận lợi cho ta. Đây sẽ là cơ hội tốt để người ta thấy các chính quyền trước đã đẩy chúng ta đến với Việt Nam như thế nào… Tôi cho là dư luận cũng đã tự phát hiện ra vấn đề rồi, vì… nếu trước đây họ quy kết đây là cuộc chiến tranh của Nixon thì những gì bài báo chỉ ra là, nếu có là cuộc chiến tranh của ai đó thì đấy chính là chiến tranh của Kennedy, là chiến tranh của Johnson… Vì thế nếu phe Dân chủ vẫn luôn phàn nàn rằng… chúng ta sai lầm, thì nay đã rõ ràng … ai phải chịu trách nhiệm trước hết cho mớ hỗn độn này…"
Nó đã là một lời buộc tội chính quyền trước.
Sang ngày hôm sau Tổng thống mới tỏ ra thoải mái hơn với cách giải thích này. Nhưng ngay từ đầu ông đã lo sợ các hồ sơ "Lào và Campuchia"(107) - cụ thể là những đợt ném bom - trọng tâm trong các mục tiêu và chiến lược bí mật của Tổng thống có thể bị lộ ra ngoài từ chính Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng.
Dù sao, Tổng thống cũng sẽ chỉ lo lắng nếu có những tiết lộ về chính quyền của ông. Ngoài ra ông không hề bận tâm tới các tiết lộ về đời những Tổng thống trước. Ông không sợ ảnh hưởng đến khả năng tiếp tục chính sách đối ngoại bí mật của mình. Quá lạc quan Nixon còn trông chờ những tiết lộ mới, chứng minh cho sai lầm của các lãnh đạo của đảng Dân chủ, đặc biệt là Kennedy. Với ông, Ted Kennedy là đối thủ khó chơi nhất trong năm 1972. Ông hy vọng những loạt bài này sẽ còn tiếp tục để gây thêm tai tiếng cho gia đình Kennedy.
Thứ hai, ngày 14-6, khi tờ Thời báo đã đăng được hai kỳ, vào 7 giờ 13 phút tối, Nixon trao đổi với Cố vấn đối nội, John Ehrlichman:
Ehrlichman: Thưa Tổng thống, thưa ngài Bộ trưởng Tư pháp (Mitchell) (108) đã gọi đến nhiều lần về những bài báo trên Thời báo New York. Bộ Tư pháp cho rằng nếu Bộ trưởng không cảnh cáo tờ Thời báo, thì ông có thể sẽ phải rút bỏ quyền khởi tố tờ báo này. Ông muốn biết liệu Tổng thống có đồng ý cảnh cáo Thời báo trước khi số báo đầu tiên của họ được tung ra vào ngày mai hay không?
Tổng thống: Hmmm.
Ehrlichman: Tôi thấy có những dấu hiệu không thuận lợi cho vấn đề này nếu tính đến cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội (dự kiến vào thứ tư về dự thảo luật McGovern-Hatfield về cắt giảm ngân sách chiến tranh từ tháng 12-1971).
Tổng thống: Ý cậu là khởi tố tờ Thời báo?
Ehrlichman: Đúng thế.
Tổng thống: Quỷ thần ơi, tôi không muốn truy tố tờ báo. Tôi muốn truy ra tên khốn nào đã cung cấp tài liệu cho bọn họ.
Ehrlichman: Vâng, nếu chúng ta tìm ra kẻ đó.
Tổng thống: Đúng vậy… Tôi muốn rằng, chúng ta có thể kiện tờ Thời báo được chứ?
Ehrlichman: Hiển nhiên là được.
Tổng thống: Hãy đợi nào - đợi đã - có phải ngày mai bọn họ sẽ đăng thêm một câu chuyện?
Ehrlichman: Vâng.
Tổng thống: Tại sao không đợi đến ngày mai?
Ehrlichman: Đề nghị của Bộ trưởng là, ông nghĩ chúng ta nên có một hình thức cảnh cáo trước như thế nào đó với tờ Thời báo và sẽ tiếp tục làm như vậy nếu bọn họ vẫn không dừng lại. Như thế sẽ không mất đi quyền khởi kiện. Nhưng nếu không cảnh cáo trước, chúng ta sẽ bị xỏ mũi - ngồi đây và để bọn họ mặc sức mà không tỏ thái độ phản đối.
Tổng thống: Hãy đợi một ngày nữa. Cho bọn họ thêm một ngày, còn sau đó thì… tôi cũng chưa biết… chưa biết.
Kể cả trong lúc trò chuyện với Ehrlichman và với Mitchell ngay sau đó, dù lúc này đã đồng ý để Bộ trưởng Tư pháp đưa ra một lời cảnh cáo "sơ bộ"(109) cho tờ Thời báo ngay chiều hôm sau, Tổng thống cũng chưa hề nhắc đến lệnh đình chỉ xuất bản từ toà án. Họ mới chỉ nghĩ sẽ truy tố tờ Thời báo và người đứng đằng sau. Nội trong ba ngày đầu tiên, qua tất cả những biên bản ghi âm, chúng ta chưa một lần nào nghe thấy Tổng thống hay các cộng sự Nhà Trắng của ông, thậm chí Kissinger, bày tỏ ý kiến mượn lệnh của toà án để ngăn chặn việc xuất bản. Hình như chỉ Mitchell và Bộ Tư pháp mới nghĩ đến việc làm đó. Thứ ba Mitchell đề nghị toà án ra lệnh đình chỉ xuất bản lấy lý do việc tiếp tục sẽ gây tổn thương trực tiếp và không thể vãn hồi đối với an ninh quốc gia. Tổng thống nói với Haldeman rằng nếu công khai trước dư luận các chương về Kennedy trong Hồ sơ Lầu Năm Góc có thể có tác dụng tốt, "Lệnh của toà án chỉ có hiệu lực đối với tờ Thời báo thôi đúng không Bob?"(110) Haldeman khẳng định chắc chắn. Thảo luận với Haldeman và Kissinger tại Phòng Bầu Dục, Tổng thống nói: "Tiết lộ mớ tài liệu dính dáng tới Kennedy đi. Sẽ tiết lộ hết… Vì một phần đang bị rò rỉ rồi, sẽ để rò rỉ tất cả những gì ta muốn"(111).
Một phần mối quan tâm của Tổng thống với đối thủ Ted Kennedy là vì ông cần lôi kéo bộ phận cử tri dao động theo Đạo Thiên Chúa về phía mình, không để ngả về phe Dân chủ. Ứng cử viên hàng đầu cho cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của Đảng Dân chủ lúc đó, Thượng nghị sỹ Edmund Muskie, cũng là một người Thiên Chúa giáo. Nixon cũng rất nóng lòng chờ đợi các tài liệu về vụ ám sát Tổng thống miền Nam Ngô Đình Diệm lên mặt báo. Tờ Thời báo đã gửi đơn khiếu kiện lệnh hạn chế xuất bản lên Toà án tối cao và có nhiều khả năng Toà sẽ đưa ra lệnh đình chỉ vĩnh viễn. Thời gian không còn nhiều. Tổng thống cần gấp rút công bố các chứng cớ tối mật về cái chết của nhà lãnh đạo theo Đạo Thiên chúa trong cuộc đảo chính được người anh trai của Ted Kennedy, Tổng thống Kennedy hậu thuẫn.
Thứ tư, Tổng thống nói với Henry Kissinger: "Tôi muốn đưa lên báo các tài liệu (112) về vụ ám sát Diệm. Cần một người bên anh làm việc này". Im lặng, ông Cố vấn an ninh quốc gia không nói gì. Tổng thống nói tiếp: "Thôi được, tôi sẽ làm".
Lúc đấy Kissinger mới nói: "Không nên để người bên tôi tiết lộ tài liệu mật".
Tổng thống nhắc lại: "Tôi sẽ công bố".
Sau khi Kissinger đi khỏi(113), ông gọi điện thoại và giao nhiệm vụ này cho Cố vấn Nhà Trắng Charles Colson. Ông này đảm bảo là mọi việc sẽ được hoàn thành, cho dù hôm thứ hai ông ta đã nói "Đơn giản chúng ta không thể cho phép báo chí đăng tải các văn bản mật"(114).
Trong nhiều ngày sau đó, tờ Bưu điện Washington và Boston Globe đều không được phép đăng bài do Mitchell liên tiếp yêu cầu hạn chế. Tôi gợi ý tờ Bưu điện đăng lên các tài liệu khác tạm gác bài về chính quyền Johnson vì tôi chỉ muốn đưa ra một trường hợp điển hình và không muốn dư luận nghĩ chỉ có chính quyền Johnson mới thường xuyên dối trá. Tờ Bưu điện nghe theo, đăng câu chuyện của Eisenhower, về quyết tâm ngăn chặn cuộc bầu cử ở Việt Nam từ năm 1954 đến 1956. Nhưng chủ bút của Globe, Tom Winship lại muốn có các thông tin về chính quyền Kennedy, lấy lý do rằng ở Boston người ta có những hứng thú đặc biệt với chuyện về gia đình Kennedy. Buổi tối hôm đó, cấp dưới báo cáo với Tổng thống Nixon là số buổi tối của tờ Boston Globe "có một bức hình lớn(115) của John F. Kennedy và bốn câu chuyện khác nhau… làm Kennedy phát điên". Ông hỏi: "Có cả Diệm chứ? Rất tốt?"
Tuy nhiên sự thực ngược lại. Câu chuyện về Diệm không xuất hiện trên tờ Boston Globe. Mitchell trước đó đã gọi đến cho chủ bút toà soạn này và nhắc nhở anh ta, như Winship nhớ lại:
"Tôi buộc phải làm như vậy(116) với các anh (yêu cầu lệnh đình chỉ từ toà án vì nếu không sẽ khiến các toà soạn khác không bằng lòng, sẽ không công bằng cho tờ Thời báo và Bưu điện".
Trong khi tờ Globe bị cấm đoán, thì tờ Chicago Sun - Times đã cho đăng các tài liệu về vụ ám sát Diệm vào ngay tối hôm đấy, ngày 22-6. Đây là tờ báo thứ tư đi ngược lại những cảnh cáo trước đó của chính phủ về nguy cơ đe doạ An ninh quốc gia.
Chicago Sun-Times cũng là tờ báo đầu tiên được phép xuất bản, trong ngày hôm đó cũng như nhiều ngày liên tiếp sau mà không hề bị doạ đình chỉ.
Trong khi đó, Tổng thống ngày càng quyết tâm với ý định tìm kiếm và phanh phui từ các hồ sơ mật những tài liệu có thể hạ thấp uy tín của cựu Tổng thống và anh em nhà Kennedy. Một chủ đề thường xuyên trở đi trở lại trong nhiều tháng sau đó và thậm chí nhiều năm là vụ việc nào để lộ ra cho báo chí thì sẽ có tác động lớn nhất: vụ Vịnh Con Lợn, khủng hoảng tên lửa Cuba, Bức tường Berlin hay là vụ ám sát Diệm. Đây rõ ràng là một công việc nghiên cứu không hề đơn giản, cần phải do một người có đầy đủ cảm quan về lịch sử cùng nhiều phẩm chất khác nữa, thực hiện. Sau khi đã xem qua danh sách các ứng cử viên cho công việc này do Haldeman và Ziegler đưa lên vào ngày 24-6, trong lúc FBI vẫn đang truy lùng tôi, Nixon nhận xét:
"Tốt nhất là có một người hiểu rõ vấn đề này. Có nghĩa là, chúng ta cần một Ellsberg, một Ellsberg đứng về phía ta; nói cách khác, một học giả thông thuộc về lịch sử và hiểu được anh ta đang phải tìm kiếm thứ gì"(117).
Lẽ dĩ nhiên Tổng thống vẫn có một thái độ khác đối với tôi và những việc làm của tôi. Ông vui mừng vì tôi đã tạo ra tiền lệ giải mật chóng vánh và rò rỉ thông tin về các đời Tổng thống trước đây của Đảng Dân chủ. Mặt khác, ông cũng lại lo rằng chính nó cũng sẽ là tiền lệ cho người khác tiết lộ thông tin về bản thân ông. Điều này dễ thấy trong một cuộc thảo luận của Tổng thống với Kissinger ngày 13-6 xung quanh Hồ sơ "Lào và Campuchia". Muốn ngăn chặn nguy cơ đó, câu trả lời hiển nhiên sẽ là tìm và truy tố kẻ nào cung cấp tài liệu cho tờ Thời báo - "thằng quỷ nào đã tuồn những tài liệu đó cho bọn họ".
Cho dù có là ai đi chăng nữa, Tổng thống muốn kiện hắn ra toà để "tất cả mọi người trong cái chỉnh phủ này đều biết sợ Chúa". Vào ngày thứ ba, 15-6, Tổng thống đập tay xuống bàn, nói: "Quỷ tha ma bắt, phải tống một tên nào đó vào tù… chỉ cần có thế?" (118). Hôm đó, ông hỏi Milchell: "Có cách nào anh tóm cổ được cái gã Ellsberg ngay lập tức được không? Mà Ells- gì nhỉ?" (119)
"Ellsberg".
Nixon nói mỉa mai: "Ellstein… được rồi, thây kệ. Có thể là Ellstein, hoặc Halperin hoặc Gelb. Cả ba tên này đều có liên hệ với cánh báo chí".
Hai hôm sau, ngày 17-6, Nixon không còn giữ được bình tĩnh nữa khi Haldeman nhắc đến tôi, ông ta hỏi ngay:
"Tại sao FBI(120) chưa tóm lấy nó rồi tống vào quan tài? Đó là bước tiếp theo đúng không?"
Buổi sáng hôm đó chúng tôi đã trên đường trốn chạy.
Điều đặc biệt cấp bách với chính quyền này là ngăn chặn những người khác làm theo tiền lệ của tôi. Vì Nixon và Kissinger và tôi, chúng tôi đều có chung suy nghĩ. Chúng tôi biết phải giữ kín chính sách Việt Nam thực sự nếu muốn nó khả thi.
Cả hai người đều cảm thấy sự nhạy cảm khi có người nghi ngờ và tranh cãi về chính sách của họ. Tuy nhiên, khác với tôi, họ lại không cho những gì mình đang làm là ngớ ngẩn, liều lĩnh, vô vọng và sai lầm. Nhưng đồng thời hai người cũng hiểu rằng người khác sẽ nghĩ như vậy nếu nhờ vào những lài liệu mới được tiết lộ, chính sách của họ không còn được giữ bí mật và bị dư luận Mỹ hiểu lầm.
Cũng trong cuộc đàm thoại đầu tiên liên quan đến tờ Thời báo vào chủ nhật, ngày 13-6-1971, Tổng thống đặc biệt lo sợ các cuộc ném bom lên đất Campuchia đầu năm 1969 có mật danh "Thực đơn", một loạt các cuộc tấn công lúc đầu được đặt tên là "Điểm tâm", "Bữa trưa" và "Bữa tối", có thể bị tiết lộ.
Tương tự, ngày thứ ba, 15-6, Kissinger thúc giục Tổng thống đưa ra truy tố những kẻ phải chịu trách nhiệm: "Tổng thống, ngài phải thật mạnh tay(121) bởi vì nếu đã có những thứ này trên Thời báo New York, sang năm ngài sẽ gặp tình cảnh tương tự. Hồ sơ của chính quyền này sẽ lại bị tuồn ra ngoài trong thời gian tranh cử (năm 1972). Tôi muốn nói những người này…"
Nixon đáp lại: "Tôi hiểu, họ sẽ lấy được toàn bộ hồ sơ về các chiến dịch Thực đơn".
Tôi cho rằng hai người này, cũng như tất cả những người khác đều hiểu các tài liệu gốc có ý nghĩa thế nào với các tiết lộ của báo chí. Trong tháng 3-1969, William Beecher đăng một câu chuyện tỉ mỉ trên tờ Thời báo về các đợt ném bom bí mật lên đất Campuchia. Chính quyền đã tức giận đến nỗi quyết định chỉ đạo FBI bí mật tiến hành nghe trộm (đương nhiên là bất hợp pháp) một loạt các nhân viên NSC và các nhà báo để truy ra nguồn cung cho tờ báo. Nhưng câu chuyện này vì thiếu tài liệu gốc làm bằng chứng, chẳng qua cũng chỉ là vụ việc trong ngày và sau khi Lầu Năm Góc thẳng thừng bác bỏ, đã hoàn toàn bị lãng quên. Khả năng những tài liệu khác bị lôi ra ánh sáng sau tiền lệ của Hồ sơ Lầư Năm Góc, cho dù chậm hai hay ba năm sau nữa, lại là một vấn đề khác.
Có những lý do đặc biệt cho tính nhạy cảm của chiến dịch tấn công Campuchia mang tên Thực đơn(122). Câu chuyện Beecher kể ra đã làm ê mặt Nhà Trắng vì những chi tiết về một chiến dịch mà Nhà Trắng đã muốn giấu kín với Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird và Bộ trưởng Ngoại giao William Rogers. Cả hai người đều phản đối mạnh mẽ việc mở rộng chiến tranh. Nhắc tới chính sách về Việt Nam, Nixon và Kissinger đều coi bọn họ gần như kẻ thù. Hai ông luôn mong giấu kín họ càng nhiều và càng lâu càng tất, vì ngại sự phản đối quyết liệt, hoặc thậm chí trong trường hợp của Laird, ông ta sẽ báo lại với Quốc hội hay cho cánh nhà báo. Nếu hai Bộ trưởng có được Tổng thống thông báo điều gì đi nữa thì cũng chỉ rất sơ sài, và vào phút chót. Tuy nhiên, khi nói chuyện với Kissinger vào ngày 13 và nhiều lần sau đó, Nixon e ngại là hai vị Bộ trưởng đang có trong tay các tài liệu lẽ ra họ không nên có hoặc các bản ghi nhớ các cuộc trao đổi với Tổng thống. "Bất cứ khi nào(123) tôi trao đổi với Rogers và Mel (Lairdl về một trong các vấn đề này, về Lào và Campuchia, … tôi cho là họ đều tự mình ghi âm lại … họ thường tự mình suy luận ra từ những gì tôi yêu cầu, anh biết rồi đấy".
Kissinger đảm bảo với Nixon: "Đúng là họ sẽ tự suy luận ra những gì Tổng thống yêu cầu, nhưng họ sẽ không hiểu được lý do đâu". Những lý do ấy ông ta và Tổng thống luôn thận trọng không để hai người biết được, đặc biệt trên văn bản.
Sự thật là trong suốt năm 1971, các cuộc ném bom gây áp lực lên miền Bắc Việt Nam và Lào đều dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nixon và Kissinger, thông qua một "kênh nối thẳng" tới Đô đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân. Hai người bí mật vượt mặt Laird, vẫn với lý do cũ, Laird không ủng hộ. Một bí mật đặc biệt nhạy cảm là lúc này FBI vẫn đang tiến hành nghe trộm văn phòng và nhà riêng của trợ lý quân sự của Laird, tướng Robert E. Pursley, để biết ông Bộ trưởng nắm được những thông tin gì về các chiến dịch và ông ta có tiết lộ điều gì cho quốc hội. Cần nhớ Laird đã từ bỏ Quốc hội để chuyển sang làm việc cho chính quyền.
Thêm vào đó, Quốc hội, cơ quan cấp ngân sách cho các chiến dịch, được nhận những thông tin mật hoàn toàn giả mạo về mục tiêu ném bom. Hàng trăm nhân viên làm việc tại trụ sở của MACV và CINCPAC đêm ngày bận rộn làm giả các kế hoạch ném bom mật và các bản báo cáo hậu chiến sự, làm giả toạ độ các mục tiêu bị ném bom, để mọi người tưởng rằng họ đang ở Nam Việt Nam chứ không phải là ở Campuchia. Vào năm 1971, khi Nixon ra lệnh ném bom Cánh đồng Chum ở Lào (một địa điểm không hề liên quan đến các tuyến đường lấn chiếm của miền Bắc), ông ta đã dùng đến cơ cấu ghi sổ kép như đã từng dùng để che đậy vụ ném bom Campuchia. Có những trường hợp đến cả các phi công cũng không được biết đích xác toạ độ ném bom của họ. Song chủ yếu mục đích của Nixon vẫn là che giấu Quốc hội và dư luận (và ở một mức nào đó, cả Laird và Rogers, về qui mô và tần suất các chiến dịch). Tổng thống không có ý định và kế hoạch này cũng không nhằm đánh lừa các nước Cộng sản - mục tiêu ném bom của ông ta, hay các đồng minh của họ.
Những người trên mặt đất không thể nhầm lẫn và cũng không ai nghĩ họ nhầm lẫn về kẻ đang dội bom B-52 xuống đầu mình.
Một hệ thống bí mật như vậy đã được chính quyền này giữ kín trong gần bốn năm - cho đến khi một trung sĩ (một trong số hàng trăm người liên quan đến hoạt động giả mạo này) đột nhiên băn khoăn rằng có thể Tổng thống cũng không được biết về các mục tiêu ném bom thực sự. Anh ta đã đem những tài liệu này trao cho Thượng nghị sỹ Harold E. Hughes. Khả năng thực tế của vị Tổng thống đương nhiệm có thể bí mật thả hàng trăm nghìn tấn bom xuống một đất nước không hề có chiến tranh với chúng ta chính là minh chứng hùng hồn nhất cho hiệu quả của một hệ thống hậu chiến bí mật. Nó cho phép Tổng thống bí mật phát động cuộc chiến, leo thang chiến tranh. Điều đó không thể thấy ở các vị vương chúa ngày trước.
Dù thế, vào thời điểm nói tới, các cuộc ném bom bí mật đã kéo dài được hơn hai năm, bắt đầu từ trước và còn mãi tới sau cuộc xâm lược ngang nhiên Campuchia (và còn tiếp tục được giữ kín thêm gần hai năm sau đó). Nhưng việc nó vẫn bị che mắt cho thấy đây là một phần của một chính sách đe doạ bí mật vẫn chưa hoàn thành. Và lần này, vẫn chính là cử tri Mỹ bị che mắt, chứ không phải các quốc gia cộng sản, những mục tiêu đe doạ hay đồng minh của họ. Còn cả một năm nữa mới xảy ra các cuộc tấn công vào mục tiêu trên sông Hồng và các vụ ném bom B-52 vào Hà Nội và Hải Phòng, cho dù kế hoạch dự phòng đã nhiều lần được lên lịch từ năm 1969. Hà Nội cáo buộc và các quan sát viên xác thực, rằng Mỹ chủ định ném bom từng phần đê sông Hồng trong mùa xuân 1972. Phải mãi đến giữa năm 1971 người ta mới phanh phui ra tất cả các hành động chính quyền đã, đang và sẽ thực hiện - những cột trụ trong chính sách bí mật của Nixon. Một khi chính sách này bị phơi bày, Quốc hội có thể viện lý do hạn chế về ngân sách để phản đối nó. Đó là nguyên do cho những bước đi vội vã nhằm chặn lại hay ngăn cản bất kỳ thông tin rò rỉ từ chính quyền đương nhiệm, trong khi khuyến khích thông tin về các chính quyền cũ. Đó là lý do cho các lệnh đình chỉ xuất bản trước đây chưa bao giờ được dùng tới và cho các hành động cũng chưa bao giờ có tiền lệ đi cùng những lệnh đình chỉ kia.
Tuy nhiên vào lúc đó, chúng tôi vẫn chưa thể biết mình có bị đem ra xét xử trước toà hay không. Những sự kiện liên quan đến vụ việc của chúng tôi đã quá rõ ràng. Tôi cũng đã thừa nhận và cung khai tất cả những hành động người ta cáo buộc cho tôi.
Nhưng chưa bao giờ có một đạo luật nào của Quốc hội quy kết tội phạm những hành động như của tôi: không được phép của cấp trên, sao chụp và trao tài liệu "bảo mật" chính thức cho báo giới, Quốc hội và những người mà các nguyên tắc hiến định của chúng ta gọi là "công chúng độc lập". Phần lớn các nước, không chỉ là các chế độ chuyên chính như Trung Quốc mà cả nền dân chủ khai sinh ra chúng ta, Vương quốc Anh, cũng đều có những đạo luật như thế. Họ không có Hiến pháp với Điều luật bổ sung thứ nhất như chúng ta, ở đó quy định Quốc hội không được phép thông qua một đạo luật nào có nội dung tương tự. Không tồn tại một cơ sở luật pháp rõ ràng hay ngụ ý nào cho cả một cơ chế phân loại tài liệu được hình thành từ những mệnh lệnh hành pháp của chính phủ, bắt đầu từ Thế chiến II. Những quy định về quản lý tài liệu kín, mật và tuyệt mật tạo nên một hệ thống hành chính, theo đó những ai làm việc trong ngành hành pháp một khi đã dặt bút ký vào lời tuyên thệ hay chấp thuận giữ bí mật, nếu để lộ thông tin mà không được phép, sẽ phải chịu những hình phạt hành chính, có thể bị khước từ quyền tiếp cận với các thông tin mật hoặc nặng hơn, bị sa thải. Một nguyên tắc cơ bản của hiến pháp quy định thẩm quyền của chính phủ là, Tổng thống không được phép ban hành các đạo luật hình sự, cho dù bằng mệnh lệnh hành chính hay một cách nào khác chăng nữa. Chỉ Quốc hội mới đủ thẩm quyền ban hành luật. Và ngoại trừ một số loại bí mật nhất định và trong phạm vi rất hẹp, không liên quan gì tới Hồ sơ Lầu Năm Góc - như dữ liệu về vũ khí nguyên tử, tin tức tình báo thu thập qua kênh thông tin liên lạc, và gần đây là danh tính của các điệp viên bí mật - Quốc hội, nếu chiếu theo Điều luật bổ sung thứ nhất của Hiến pháp, chưa bao giờ đưa ra một đạo luật như thế.
Hầu như tất cả mọi người, vào thời điểm đó hoặc một thời gian về sau đều không nhận thấy rằng, việc tôi và Tony Russo bị khởi tố hình sự vì tội sao chép đủ loại tin tức của chính phủ - không nhằm mục đích bí mật chuyển giao những thông tin này cho một thế lực nước ngoài nào (tội làm gián điệp) mà nhằm tiết lộ ("rò rỉ") thông tin cho báo chí và dư luận Mỹ - là chưa từng có tiền lệ và vô cùng đặc thù trong lịch sử. Sự việc ấy cũng đặc thù không kém gì so với những kiềm chế và những nỗ lực đình chỉ xuất bản đã dẫn chúng ta đến với vụ án mang tên Hồ sơ Lầu Năm Góc, một vụ án giờ đã được chuyển lên Toà án tối cao.
Thực tế dễ hiểu là trên đất nước này trước đây chưa từng có trường hợp nào bị truy tố vì đã để rò rỉ thông tin. Rất nhiều lần trong thời gian tôi làm việc trong chính quyền, bất cứ khi nào nhận được bản tóm lược một thông tin mật, hay kí vào một thoả thuận giữ bí mật trước khi được phép tiếp cận xử lý chúng, tôi đều được nhắc nhở về khả năng bị truy tố hình sự nếu để lộ thông tin mà chưa được cho phép. Những lời cảnh cáo ở đây luôn luôn viện dẫn đến các điều khoản trong Đạo luật Tội làm gián điệp, mà theo đó người chịu trách nhiệm đầu tiên là tôi. Và quy kết cho tôi tội rò rỉ thông tin trái phép, chứ không phải tội làm gián điệp. Trong thực tế, những cảnh báo này báo trước rằng nhiều phần của đạo luật về tội làm gián điệp sẽ được dùng đến, mặc nhiên được coi như một đạo luật về tin mật nhà nước, tương tự một đạo luật của Anh. Tuy nhiên thông tin mật vẫn thường xuyên bị rò rỉ ra bên ngoài, thậm chí gần như hàng ngày (mặc dù ở qui mô nhỏ hơn so với trường hợp Hồ sơ Lầu Năm Góc). Rất ít trong số đó được cấp trên chấp thuận. Họ cũng không tức giận đến mức phải trừng phạt hành động này. Dù có tức giận nhưng diễn biến tiếp theo vẫn chưa bao giờ là một phiên toà. Cố vấn luật pháp của các bộ và Bộ Tư pháp vẫn luôn khuyến cáo quan chức nào định đưa vụ việc ra toà rằng trong luật Mỹ, không tồn tại một đạo luật nào về tin mật chính thức hay luật nào trơng đường. Các cố vấn đôi khi còn nhấn mạnh, qua những tranh luận về Đạo luật Tội làm gián điệp, Quốc hội đã công khai loại bỏ bất kỳ ý định lập pháp áp dụng đạo luật này với các hành động tiết lộ thông tin cho báo chí chưa được phép. Và do đó bất kỳ nỗ lực nào coi đây như một đạo luật về thông tin mật chính thức sẽ vi phạm những nguyên tắc hiến định trong Điều luật bổ sung thứ nhất. Không có một đạo luật nào biện minh cho những cảnh báo đến hàng triệu nhân viên làm việc trong chính quyền đã ký vào những thoả thuận giữ bí mật; trong thực tế, nhân dân có thể nắm lấy đằng chuôi.
Tất cả những điều này tôi không hề biết khi tôi sao chụp và công khai Hồ sơ Lầu Năm Góc. Các luật sư của tôi và, như tôi được biết, các toà soạn cho đăng tải phần nào tập hồ sơ này, cũng có suy nghĩ tương tự. Chúng tôi, kể cả Nixon, Kissinger, Mitchell và hầu hết những người khác, đều cho rằng trong hệ thống luật pháp Mỹ tồn tại một quy định gì đó tương đương một đạo luật về thông tin mật chính thức. Hay nói khác đi, tất cả đều tin rằng, tôi, có thể cả các toà soạn báo; đang vi phạm một điều luật nào đó. Tôi xem hành động của mình là sự chủ tâm vi phạm các quy định dân sự. Nhưng nếu như vậy, thì Tổng thống sẽ giải thích ra sao về việc ông ta chỉ đạo cho nhân viên dưới quyền để lộ ra cho báo chí các tài liệu vào loại tuyệt mật? Và những nhân viên dưới quyền sẽ phải giải thích cho hành động của mình ra sao đây - khi mà những gì họ làm là đích xác những điều Tổng thống đang quy kết tội cho tôi?
Tôi nghĩ là mình có thể tự tìm được câu trả lời, từ kinh nghiệm làm việc tại Lầu Năm Góc. Đon giản là vấn đề đúng, sai chưa bao giờ được đặt ra. Cho dù là một nhà tư vấn, hay trong cương vị một quan chức, tôi cũng chưa bao giờ bận tâm nghĩ đến Điều luật bổ sung thứ nhất, hay những phần trong Hiến pháp có liên quan tới nó, hay những ràng buộc về mặt pháp luật trong nước có thể đặt ra cho công việc của chúng tôi. Tôi làm việc trong ngành hành pháp, phục vụ Tổng thống, công việc liên quan đến chính sách quân sự và ngoại giao. Tôi không cho rằng Hiến pháp hay các văn bản luật của Quốc hội sẽ chi phối công việc chúng tôi đang làm. Về điều này, tôi cũng không có gì khác rất nhiều các quan chức Nhà Trắng, những người sau này đã thừa nhận trong các phiên điều trần liên quan đén vụ Watergate, rằng họ tin là - theo như lời cấp trên của họ, tổng thống Nixon - "khi Tổng thống làm việc gì, việc đó sẽ không vi phạm pháp luật".
Chắc hẳn rằng, cũng với tinh thần ấy, Nixon đã chỉ định Colson và những người khác chủ động tiến hành việc rò rỉ tin tức. Hành động ấy, với người khác, ông ta sẽ thực tâm, dù sai lầm, coi như là tội hình sự, hay là thậm chí là hành động phản quốc (cùng với tội đột nhập và bao che, được thừa nhận rộng rãi là tội hình sự).
Nói cách khác, các nhân viên trong chính quyền cho rằng Tổng thống, và bản thân họ khi làm việc cho ông ta, có thể đứng trên luật pháp trong nước. Chính tôi cũng nghiễm nhiên chấp nhận điều này khi làm việc trong cả lĩnh vực an ninh quốc gia, cũng như các đồng nghiệp của tôi trong lĩnh vực quân sự và chính sách đối ngoại. Đáng buồn là, nhiều nghị sỹ Quốc hội và công chúng cũng có cùng suy nghĩ. Đi liền với sự tin tưởng vào thẩm quyền xét xử và sự tự do độc quyền, vô hạn của Tổng thống trong các lĩnh vực này là giả thiết về khả năng kiểm soát không hạn chế của chính phủ đối với những gì công chúng được biết liên quan đến quá trình đưa ra các quyết định trên của chính phủ.
Tôi nhận ra, có phần muộn màng, rằng cách làm đó sẽ chỉ tạo ra một ông vua chuyên chế và những "Việt Nam" khác, hoặc có thể còn tệ hơn. Tôi cũng đã tìm thấy bài học này, chưng cất từ những trước tác của James Madison. Chính ông là người đã soạn thảo ra Điều luật bổ sung thứ nhất: "Một chính phủ được lòng dân(124), nếu không nắm được các thông tin phổ cập nhất hoặc không có trong tay những phương tiện thu thập các thông tin này, sẽ chẳng là gì ngoài màn mở đầu cho một vở hài kịch, hoặc bi kịch, hoặc là cả hai. Trí tuệ sẽ mãi mãi thống trị sự ngu dốt. Một dân tộc muốn cai trị chính mình sẽ phải tự trang bị thứ quyền năng mà tri thức đem lại".
Người đầu tiên chỉ ra cho tôi thấy kết luận gây chấn động rằng những gì Tony và tôi thực hiện không hề, trên đất nước này, trái với luật pháp, là luật sư Leonard Boudin. Lúc đó là vào cuối năm 1972, khoảng một năm sau lần xét xử đầu tiên đối với tôi.
Boudin tóm tắt cho tôi về đặc điểm việc nghiên cứu vụ việc trong luật pháp Mỹ, về lịch sử lập pháp của những đạo luật được viện dẫn ra trong các bản cáo trạng của chúng tôi và những kết quả nghiên cứu của đoàn luật sư trong suốt cả một năm vừa qua, kể cả tìm kiếm các vụ án trước đây có thể không có hồ sơ lưu trữ. Cuối cùng anh ta kết luận: "Điều mà tôi có thể nói được là, Dan, anh không hề phạm pháp".
Tôi bật lên: "Quá tuyệt! Tôi sắp được tự do rồi!"
Nhưng Boudin đáp lại: "Tôi e là mọi việc không đơn giản như vậy đâu. Khi chính phủ Mỹ bước vào phòng xử án, nói với quan toà, "Vụ kiện giữa chính phủ Mỹ và Daniel Ellsberg" và đưa ra trước toà mười hai trọng tội của anh… anh đừng mong bước chân ra khỏi phòng xử án mà vẫn còn là một người tự do".
Tôi ngẫm nghĩ kĩ, rồi hỏi: "Thế cơ hội của tôi là bao nhiêu?"
"Năm mươi - năm mươi".
"Năm mươi - năm mươi? Và tôi không hề làm trái pháp luật?"
Leonard trả lời: "Dan, hãy đối diện với sự thật. Sao chụp 7.000 trang tài liệu tuyệt mật và chuyển cho tờ Thời báo New York, tình hình không thật thuận lợi cho anh đâu".
Ngày 22-6-1971, còn hơn một tuần nữa mới đến ngày toà án quyết định gỡ bỏ các hạn chế xuất bản trước đó, Tổng thống nói với Ehrlichman, Ziegler và những người khác: "Dẹp lệnh đình chỉ của toà án đi. Chúng ta sẽ thua thôi… Thế đấy! Chúng ta sẽ thua, phải chuyển sang vụ kiện tụng ngay lập tức khởi kiện Ellsberg".
Buổi chiều ngày 13, ngay sau khi Toà án Tối cao ra phán quyết - ngày hôm trước tôi đã bị cáo buộc mười hai tội trạng nghiêm trọng đối với Liên bang - vào lúc có mặt Henry Kissinger tại Phòng Bầu dục, Tổng thống đã hỏi Bộ trưởng Tư pháp John Mitchell: "Cậu không phản đối (125) nếu chúng ta theo đuổi vụ Ellsberg bây giờ chứ?"
Mitchell: Hiển nhiên là không … một nước đi chúng ta phải làm, để tóm gọn những kẻ nào …
Tổng thống: Phải tống thằng khốn này vào tù.
Kissinger: Chúng ta sẽ tóm được hắn.
Tổng thống: Chúng ta sẽ phải tóm được. Đừng bận tâm về phiên toà nữa. Cứ công bố hết. Cứ để báo chí quy tội cho hắn. Cứ để cho báo chí xét xử. John, tất cả những gì thu được từ cuộc điều tra, công bố hết, để lộ tất cả. Tôi muốn chính báo chí tiêu diệt nó. Trên mặt báo. Tất cả đều đã rõ rồi chứ?
Mitchell và Kissinger: Vâng.
Tuy nhiên, chỉ ít phút trước, khi Mitchell chưa đến, và sau khi ông này đã đi khỏi, Kissinger nêu lên một thông tin do Laird cung cấp, một thông tin đã làm thay đổi tình hình hiện tại. Các cuốn băng ghi âm cho đến tận hôm nay vẫn không cho thấy sự lo lắng với những tài liệu tôi đã hoặc có thể sẽ tiết lộ. Mọi người đều cho rằng những tiết lộ này chỉ giới hạn trong thời kỳ cầm quyền của Đảng Dân chủ. Việc đưa tôi ra trước pháp luật và huỷ hoại danh dự của tôi đơn giản chỉ để "nêu gương" cho những người khác, những ai đã từng hoặc giờ vẫn đang phục vụ trong chính quyền có ý định tiết lộ các bí mật của chính phủ. Lo lắng của Tổng thống chỉ giới hạn trong khả năng rò rỉ thông tin từ Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, thậm chí dù rằng Nixon đã nhiều lần đảm bảo là xác suất rủi ro rất thấp, vì ở đấy, không một ai, từ Bộ trưởng trở xuống có thể có trong tay các tài liệu viết tay có giá trị, tất nhiên nếu họ biết được một thông tin nào đó. Nhà Trắng là nơi vạch ra chính sách còn NSC thì rất đáng tin và an toàn. Tuy nhiên, những gì Laird nói với Kissinger vào buổi sáng hôm đó là Thượng nghị sỹ Mathias đang có trong tay "hàng xệp tài liệu (126) nhận từ Ellsberg. "Đó chỉ là các thông báo chuyển đến cho chúng ta thôi - và các bản phúc đáp cũng không nói lên nhiều điều, bởi vì tất cả chỉ là, "Tổng thống đã quyết định rằng, Nixon hỏi xem tin tức đó từ đâu ra. Sau đó:
Tổng thống: Và bọn họ cũng có một số tài liệu của NSC?
Kissinger: Đúng vậy, bọn họ có một vài tài liệu của NSC… Đúng thế.
Tổng thống: Chúng ta không để lại thứ gì về Campuchia ở đó chứ, ở NSC đấy? Quỷ tha ma bắt…
Kissinger: (a) Tài liệu về Campuchia lưu tại NSC từ năm 1969. (b) Toàn bộ hệ thống của chúng ta lại khác. Tôi cũng không rõ đấy là những tài liệu gì… Chắc hẳn đấy là mấy thông báo ngớ ngẩn của Rogers…
Ngay sau đó, Kissinger nêu ra vấn đề này với Mitchell. Ông Bộ trưởng Tư pháp khẳng định rằng ông đã được nghe điều này từ chính Mathias: Lúc trước(127) Mathias đã gọi điện cho ông (sau này tôi biết đó là ngày 13-6, và Mitchell không hề báo cáo điều này lại với Phòng Bầu Dục). Vào cuối năm 1971, Thượng nghị sỹ Mathias đã nói với Thượng nghị sỹ Charles Goodell, người khi đó là một trong các luật sư của tôi, rằng với tư cách Thượng nghị sỹ, ông cảm thấy mình có trách nhiệm gọi điện đến nhà Bộ trưởng Tư pháp Mitchell và nói với ông ta rằng: "John, có điều này tôi nghĩ anh nên biết…". Hôm đó là chủ nhật, ngày 13-6, ngày tờ Thời báo bắt đầu cho đăng tải Hồ sơ Lầu Năm Góc. Mitchell nói thêm: "Tôi không hiểu tại sao ông ta không hề đề cập chút nào tới Ellsberg. Tôi còn lạ gì ông ta nữa chứ. Chắc chắn Ellsberg đã từng nói chuyện với Mathias".
Hiển nhiên các câu hỏi đặt ra sẽ là: Tôi đã lấy tài liệu từ bộ phận nào trong chính quyền, chính xác là những tài liệu gì, ngoài ra còn thứ gì khác nữa không, tôi nhận tài liệu từ người nào, và ông ta còn có thể có những tài liệu nào nữa, và tôi sẽ còn đưa ra thêm những gì nữa?
Tổng thống: Mọi chuyện sắp sửa vỡ lở cả rồi… Vấn đề là không chỉ có những tài liệu này thôi đúng không?
Mitchell: Rất có thể như vậy.
Kissinger Có thể, nhưng đương nhiên lúc này, nếu hậu quả là tất cả đối thủ của chúng ta có thể sẽ tiết lộ không chừa một tài liệu gì về chính quyền này và đẩy chúng ta vào thế bị động …
Mitchell Thì khi đó bọn họ sẽ phải thấy một thực tế là Ellsberg đang bị kết tội.
Chính suy nghĩ đó mới thực chất là mục đích của họ khi đưa tôi ra xét xử. Nhưng dường như việc làm đó thôi thì vẫn chưa đủ để giải quyết vấn đề của chính quyền này. Tôi có thể còn có trong tay những tài liệu khác về họ. Tôi cũng có thể tiếp tục vai trò một kênh an toàn cho những người khác, chẳng hạn những ai có thể đã trao cho tôi các tài liệu tôi giao lại cho Mathias vào ngày 2-3-1971. Tôi cũng đã chứng tỏ cho họ thấy từ trước đó rằng, không dễ vì sợ truy tố hay ngồi tù mà tôi sẽ chùn chân. Theo lời Colson, tại phòng Bầu Dục, khi có mặt ông ta, Tổng thống và những người khác, Kissinger đã nói: "Daniel Ellsberg là kẻ nguy hiểm nhất đối với nước Mỹ. Chúng ta phải chặn hắn lại bằng mọi giá"(128).
Vào lúc đó Hồ sơ Lầu Năm Góc mới bắt đầu lên báo được có vài ngày. Dù Kissinger có nhìn thấy mối nguy hiểm nào từ tôi đi chăng nữa, thì tôi vẫn chắc hẳn rằng ông ta nói những lời đó mà quên không tính tới sự kiện kia. Tổng thống coi sự kiện này chủ yếu như một cơ hội vạch trần những việc làm bẩn thỉu của các đời Tổng thống trước. Nếu cần, ông sẽ tự mình làm việc đó.
Cho dù Kissinger có biết trước hay không việc Mathias nhận các tài liệu NSC từ tôi - Mitchell và FBI đều đã biết trước việc này - nhưng qua các lần liên hệ trực tiếp của tôi với ông ta trong năm 1970, những bức thư và bài viết của tôi kể từ hồi đó, và qua những đoạn băng nghe trộm điện thoại của tôi với Halperin, hẳn ông ta cũng nhận ra là tôi đã nắm được chính sách bí mật của bọn họ. Một ví dụ là, một số đoạn hội thoại nghe trộm do trợ lý của Kissinger, Al Haig kiểm tra và một số khác trực tiếp chuyện lên cho Kissinger và Nixon, cho thấy vào ngày 22-11-1970, chỉ vài ngày sau các cuộc tấn công vào Sơn Tây và ném bom gần Hà Nội và Hải Phòng, tôi và Halperin đồng ý với nhau: "Đã đến lúc phải hành động(130), phải kích động mọi người; nếu sự kiện này không làm lay chuyện được dư luận, thì không gì có thể, trừ phi là một vụ thảm sát, đánh phá Hà Nội hay xâm lược Lào". Có vẻ như tôi đang nắm những tài liệu hậu thuẫn cho dự đoán của mình. Có thể không phải Halperin cung cấp những tài liệu này, mà là TonyLake, Lany Lynn, hay một ai đó đã rời NSC vì những bất đồng xoay quanh vấn đề Campuchia, hay ai đó vẫn còn chưa chịu bỏ đi.
Kissinger tiếp tục tin chắc là các hành động của NSC không thể nào bị lộ ra ngoài, nhưng giờ đây mọi người đón nhận thái độ này của ông ta với đôi chút nghi ngờ. Nixon bắt đầu nói tới việc tiến hành đặc biệt hoạt động xử lý thông tin mật với các cuộc thảo luận của Tổng thống.
Kissinger: Nhưng ở đây rất an toàn. Các thông báo của chúng ta gửi đi cũng không nêu danh chính quyền. Trong nội các cũng chưa ai từng đọc các thông báo tôi viết gửi Tổng thống, thỉnh thoảng chỉ có John (Connally) … Còn ngoài đó ra thì Rogers, Laird, chưa ai cả…
Tổng thống: Điều tôi muốn nói là… chúng ta cần tiến hành một đợt phân loại mới… tất cả các cuộc hội thoại của Tổng thống… Quỷ tha ma bắt, phải phân loại … Cả triệu người trong cái chính phủ này được tiếp cận với các thông tin tối mật. Một triệu. Chúa ơi…
Kissinger: Nhưng tôi đang nghĩ là, thưa Tổng thống, sau khi - nếu như, nếu như sự việc này không làm tiêu tan các kế hoạch của chúng ta, chúng ta nên cân nhắc, ngài có thể tính tới việc tại phiên họp của Quốc hội, nói cho mọi người biết rằng vấn đề đang đi quá xa, cần phải có một đạo luật nào đấy và chơi một trận ra trò.
Hai tiếng sau vẫn ngày hôm đấy, 30-6, trong buổi thảo luận khác với Kissinger và Haldeman về tác động của điều Mathias mới tiết lộ, Nixon tiếp tục nói đến nguy cơ nhỡn tiền này:
"Henry, tôi muốn nói, tại sao việc này lại cực kỳ quan trọng, vì chúng ta vẫn luôn đinh ninh là những tài liệu này không hề liên quan đến chính quyền. Điều đó - bây giờ hình như chúng ta đã sai…"
Từ giờ phút này, trong các cuộc thảo luận, không còn thấy Tổng thống tỏ hứng thú theo đuổi kiện tụng nữa, trong khi vụ án của tôi mới chỉ bắt đầu được vài ngày. Các hoạt động ngoài luật hình như hứa hẹn nhiều hy vọng hơn. Ngày hôm sau, 1 tháng bảy, Tổng thống nói với Haldeman, Colson, và Ehrlichman:
"Việc khó là: tất cả các luật sư ở phe ta… luôn nói là chúng ta sẽ thắng vụ kiện này. Chúng ta chấm dứt trò kiện tụng ngay tại đây. Sẽ làm như thế - Tôi không muốn làm rùm beng vụ thằng cha Ellsberg này trước kỳ bầu cử. Tức là, hẵng cứ để - cứ để báo chí kết tội tên khốn này. Cứ như vậy là được…"(131)
Việc tất cả mọi người trong chính quyền đều không biết tôi đã giao những gì cho ngài nghị sỹ đã tác động rất lớn đến phản ứng của Nhà Trắng trước Mathias, và do đó, phản ứng của họ đối với tôi Nhà Trắng chỉ biết rằng đây là những tài liệu liên quan đến thời kỳ của Nixon, cách thức ông ta giải quyết vấn đề Việt Nam, và lấy được từ NSC. Mathias cũng không nói ngoài những điều này với Mitchell hay Laird. Kissinger hy vọng sẽ thấy những tài liệu này vào chiều 30-6, nhưng trong suốt cả tháng bảy, Mathias chẳng chuyển thứ gì cho ông ta hay một ai khác trong chính quyền. Theo lời Mitchell, vào ngày 6-6 Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng hy vọng có trong tay những tài liệu này vào ngày 8-6 (chuyện đó đã không xảy ra) Mathias vẫn "đang chơi trò mèo vờn chuột(132). Cuối cùng mãi đến ngày 20-7, Ehrlichman mới đề nghị Tổng thống cử một ai đó, có thể là Elliot Richardson hoặc Richard Kleindienst, làm nhiệm vụ "vạch trần cái trò trẻ con"(133) của Mathias và buộc ông ta phải trưng ra tất cả những gì mình có. Có thể nói, trong suốt thời kỳ này, chính quyền không hề biết rằng những tài liệu tôi trao cho Mathias đơn giản chỉ là NSSM-1. Hơn nữa, dễ thấy qua các buổi thảo luận đã được ghi âm, Kissinger không hề nói lại với Nixon một tin gây "sốc" là tôi đã trực tiếp làm việc cho ông ta trong tháng 2 và tháng 3-1969, tại văn phòng của NSC ở Toà nhà Văn phòng Hành pháp, mà cụ thể là tập hợp NSSM-1. Vì không ai nắm được cả hai thông tin này, tất yếu sẽ đến lúc Mitchell đưa ra kết luận vào ngày 6-6, tán thành với Tổng thống là không thể không lập một kế hoạch dự phòng: "Ellsberg đã như thế (134), Mathias lại đang có trong tay một số tài liệu chắc chắn ngoài Ellsberg còn có người khác trong chính quyền này đang tuồn tài liệu ra bên ngoài. Có thể hơi khó khăn để tìm ra người này, nhưng hy vọng chúng ta sẽ làm được. Một hay nhiều người khác".
Kết luận được đưa ra sau một giờ đồng hồ thảo luận giữa Nixon, Mitchell, Haldeman và Ehrlichman (Kissinger không có mặt) về cái mà Tổng thống gọi là "vấn đề Mathias(135) … phần tài liệu còn sót lại".
Tổng thống: Vấn đề chúng ta đang có ở đây là… có đúng là tài liệu từ NSC không? Mọi người đã biết - đấy chính là điều tôi vẫn bận tâm …
Mitchell: Đó là tài liệu của Nixon. Theo như tôi biết thì Mathias vẫn chưa hề đề cập một cách chi tiết về chúng.
Haldeman: Làm thế nào họ có được?
Tổng thống: Làm thế nào họ lấy ra được từ hồ sơ của NSC chứ, chính thế… là điểm mấu chốt, ngay từ bây giờ khi điều tra phải dành ưu tiên cao nhất…
Nixon: Dù sao đi nữa, nếu nói tài liệu của Nixon - có nghĩa những tài liệu này - không phải là do tôi viết ra?… Tôi không cho là có thể… bởi vì kể từ khi Kissinger vào đây tôi vẫn bắt ông ta cam đoan bằng mạng sống của mình, không bao giờ để lộ ra thứ gì về tôi, cho dù thế nào.
Ehrlichman: Theo tôi được biết, có thể là tài liệu do Tổng thống viết hoặc là gửi đến cho ngài - một trong hai cách đó. Và…
Nixon: Không thể do tôi viết. Không thể từ tôi, John, bởi vì chỉ có thể do Henry viết mà thôi. Anh hiểu ý tôi chứ? NSC - chúng ta thường làm như vậy.
Mitchell: Tôi hiểu, điều đó đúng với chính quyền của Tổng thống… Nhưng đó là tất cả những thông tin tôi thu thập được.
Nixon: Chúng ta sẽ biết trong vài ngày tới đây thôi… Nếu Ellsberg muốn công khai chúng. Nhưng trong trường hợp, nếu nguồn tài liệu của Ellsberg là những người hiện vẫn còn đường chức…
Mitchell: Tôi đang nghĩ thế.
Nixon: … Tôi cho rằng kế hoạch chúng ta nên tiếp cận từ khía cạnh này. Ellsberg không hành động một mình. Ellsberg là một - Tôi không biết những ai đang tham gia vào đây… Nhưng chúng ta sẽ phải tìm ra những kẻ nào đang câu kết với nhau thực hiện âm mưu này … Chúng ta sẽ phải kết tội bọn chúng trên báo chí, trên báo chí, mọi người hiểu điều tôi muốn nói chứ? Với việc làm này, bọn họ và rõ ràng còn có cả hai, ba người bên Henry đã tự đặt mình lên trên luật pháp. Thề trước Chúa chúng ta sẽ truy tìm ra chúng. Mọi chuyện đã quá rối rắm rồi, tôi không muốn có thêm một người nào bên đó dính líu vào vụ rò rỉ này nữa. Đó là lý do tại sao - John, anh không nên loại trừ trường hợp người của Henry dính líu vào đây. Phải xem còn có kẻ nào vẫn đang làm việc trong chính phủ này hay không. Tôi giao vụ Ellsberg cho anh đấy. Tôi không hứng thú mấy với việc vạch mặt một người, kết tội hắn rồi tự bịt miệng mình.
Nói thật, tôi muốn phơi bày câu chuyện này ra hơn, mọi người đều hiểu chứ? Thậm chí cả câu chuyện về Ellsberg. Tôi không chắc là tôi muốn hắn ta bị xét xử, luận tội - nhưng phải làm thế bởi vì hắn ta đã thừa nhận hết rồi…
Về việc còn lại, tôi cảm thấy giờ là thời điểm rất tốt để anh đi bước tiếp theo, hé ra các thông tin mật và tất cả những gì khác nữa có thể chứng minh tội tày trời của những thằng cha này. Còn phần tôi… rất nóng lòng xem người ta kết tội Ellsberg. Cứ thế.
Mitchell: Đúng vậy, tôi hoàn toàn đồng ý.
Tuy nhiên, Tổng thống cũng không thực sự nghĩ cả vị Bộ trưởng Tư pháp lẫn Bộ Tư pháp thích hợp với công việc ngài đang yêu cầu. Vào ngày 1-7-1971, một ngày sau khi Toà án tối cao đã gỡ bỏ hạn chế xuất bản các tài liệu mật, một ngày sau khi Nhà Trắng đã nhận ra là vấn đề của tôi không thể đơn giản chỉ giải quyết bằng một phiên toà, Tổng thống đã nói với Haldeman:
"Thực ra mà nói, tôi cho là nếu Mitchell thôi làm Bộ trưởng Tư pháp(136) (để chuyển sang chỉ đạo chiến dịch tranh cử), chúng ta sẽ có thuận lợi hơn … John không phải là một luật sư bình thường. Anh ta giỏi và rất mạnh. Để anh ta làm những công việc không hay này thật là không phải, nhưng cần phải làm. Chúng ta sẽ phải đánh trận này…
Trước đó Nixon đã đưa ra với Haldeman, Colson và Ehrlichman yêu cầu của ông "tìm một nhân viên Nhà Trắng(137) tập trung hoàn toàn vào hai công việc". Hai công việc đó, trước tiên, là để lộ các tin xấu về các chính quyền tiền nhiệm thuộc Đảng Cộng hoà, đặc biệt về chính quyền Kennedy, nhưng cũng sẽ quay ngược trở lại thời của FDR và sự kiện Trân Châu Cảng ("Chúng ta đều hiểu ông ta đã biết trước(138) mọi việc sẽ xảy ra như thế nào nhưng ông ta lại cố tình tỏ ra như không"). "Hãy khuấy động không khí một chút… Mọi người sẽ tạm quên đi Việt Nam. Họ sẽ nghĩ ngợi về quá khứ mà tạm quên các vấn đề hiện tại Công việc thứ hai là tiết lộ các thông tin về cá nhân tôi.
Tổng thống: Chúng ta đã dập tắt được vụ (Algerl Hiss(139) trên báo chí. Chúng ta làm được. Tôi đã phải tung tin lên khắp các báo… Chúng ta thắng ở ngay trên mặt báo. John Mitchell khó mà hiểu được một việc như thế này. Anh ta là một luật sư tử tế. Khó mà hiểu được. John Ehrlichman sẽ gặp một số khó khăn đấy. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây là chúng ta cần phải xây dựng một chương trình, một chương trình tiết lộ thông tin. Chúng ta sẽ mượn báo chí để tiêu diệt bọn này … Đây là một cuộc chơi. Phải chơi trên mặt báo. Đó là lý do Mitchell không chơi được trận này. Anh ta không thể.
Haldeman: Sẽ phải tìm một người Tổng thống có thể thực sự tin cậy, bởi vì người này sẽ phải…
Tổng thống: Không để lại dấu vết gì tại Nhà Trắng…
Trong các cuộc đàm thoại này, Colson nhiều lần đề cử "một người ở bên ngoài(140) có năng lực và khuynh hướng tư tưởng có khả năng thực hiện tất cả các nhiệm vụ này … Một người sắt đá… Anh ta vừa mới ra khỏi CIA… Tên là Howard Hunt". Từ các cuộc nói chuyến điện thoại với Hunt vào lúc trước mà Colson đã bí mật ghi âm lại và sao chụp, ông ta rút ra: "Về mặt tư tưởng, Hunt hoàn toàn đồng ý phải xây dựng một kế hoạch lớn". Cũng trong cuộc điện đàm đó, Colson đã hỏi nhận xét của Hunt về tôi:
"Anh có nghĩ anh ta(141) hành động đơn độc không?"
Hunt trả lời: "Tôi cho là như thế, nếu không tính đến giới Đông phương chắc chắn đã giúp đỡ và hậu thuẫn anh ta". Được hỏi về việc xét xử tôi, Hunt nói: "Tôi muốn gã này phải bị treo cổ nếu việc ấy có lợi cho chính quyền".
Trong một thông báo gửi cho Haldeman, giới thiệu Hunt, ông ta đã nhắc đến: "Tôi đã quên không nói(142) với anh rằng Hunt là quân sư của CIA trong vụ Vịnh Con Lợn". Một lời giới thiệu việc làm kỳ lạ - như thể ông ta đã đoán biết tác động của nó - nhưng thực chất lại rất hiệu quả. Hunt được nhận việc vào ngày 7-7. Tuy nhiên theo Nixon, lý do quyết định tuyển Hunt lại chính là câu nói tiếp sau của Colson, "Anh ta nói với tôi từ rất lâu rồi rằng nếu sự thật được phơi bày ra, Kennedy hẳn đã bị mất mặt".
Tờ Thời báo đã đăng tải loạt bài về vụ đảo chính Diệm ngay trong số báo đầu tiên sau khi Toà án Tối cao thu hồi lệnh đình chỉ xuất bản. Tổng thống vẫn thấy rằng, chừng đó còn chưa đủ để phơi bày thực chất của chính quyền Kennedy. Hunt được giao nhiệm vụ lục tìm trong đống hồ sơ của Bộ Ngoại giao và CIA những bức điện tín theo kênh không chính thức được xếp vào loại tối mật mà tờ Thời báo vẫn chưa nắm được và qua đó "chỉ ra sự dính líu trực tiếp"(143) của Tổng thống Kennedy vào vụ ám sát Diệm. Không tìm được thông tin nào. Hunt cho rằng các hồ sơ này đã bị xoá sạch. Colson khi đó khuyến khích Hunt "nâng cấp các hồ sơ sẵn có bằng cách làm giả các bức điện gây bất lợi nhiều hơn cho Tổng thống Kennedy. Với những ngón nghề có được sau thời gian làm việc ở CIA của mình, anh ta làm giả hai điện tín và Colson định sắp xếp cho Hunt trao chúng cho một tay phóng viên tờ tạp chí Life. Tay phóng viên này tỏ ra đặc biệt thích thú và tỏ ý muốn đăng lại trên tạp chí Life. Tuy nhiên Hunt đã cảnh báo với Colson rằng nếu bị thẩm định, tài liệu giả đấy sẽ không đứng vững được. Lúc đấy Hunt vẫn chưa làm giả được kiểu giấy in của Nhà Trắng, và "sau vụ Alger Hiss, mọi người đều thận trọng hơn với các tài liệu đánh máy". Vì thế không có bài báo nào lên trang và những tài liệu giả mạo đó nằm lại trong két an toàn của Hunt tại Nhà Trắng cho mãi tới vụ đột nhập vào khách sạn Watergate.
Mặc dù vẫn còn nằm trong danh sách hưởng lương của Colson nhưng từ ngày 17-7, Hunt đã được thuyên chuyển sang một đơn vị điều tra đặc biệt (SIU), do Tổng thống thành lập và trực tiếp giao nhiệm vụ thông qua Cố vấn đối nội, John Ehrlichman. Đứng đầu SIU là Egil Krogh, một trợ tá cho Ehrlichman, David Young, trợ tá cho Kissinger, người sẽ giám sát các hoạt động của Hunt và G. Gordon Liddy, một cựu nhân viên FBI. Nhóm này được lịch sử biết đến với cái tên là "Thợ sửa ống nước Nhà Trắng" do một chuyện đùa của nhóm. Một người họ hàng của David Young sau khi đọc trên tờ Thời báo nói rằng Young đang "vá víu" các rò rỉ tại Nhà Trắng đã nói: "Ông nội sẽ tự hào về cậu cho xem(144)… ông là thợ sửa ống nước mà". Từ đó Young đem treo trước cửa căn phòng số 16 trên căn gác của Toà nhà Văn phòng Hành chính, nơi làm việc tuyệt đối bí mật, lẽ ra không biển hiệu của họ, một tấm biển có ghi ông Young. Thợ sửa ống nước.
Sở dĩ họ mỉa mai tự gọi mình là "thợ sửa ống nước" vì chức năng chính của nhóm này là thực hiện chương trình rò rỉ kép như Tổng thống yêu cầu. Vì thế công việc đầu tiên của Hunt là công bố các bức điện tín bí mật - mà thực chất là "nâng cấp" hoặc làm giả chúng - có liên quan đến Tổng thống Kennedy và Diệm. Lần đầu tiên ông ta sử dụng những lốt nguỵ trang và những bằng chứng giả do CIA cung cấp là trong cuộc điều tra lén lút về trách nhiệm của Ted Kennedy trong tai nạn tại Chappaquiddick, và hiển nhiên kết quả điều tra sẽ được tiết lộ ra ngoài nhằm hoặc thao túng hoặc gây áp lực với Kennedy. Nhiệm vụ thứ hai, thu thập thông tin, vẫn theo một cách có phần lén lút, về bản thân tôi và rồi sẽ lại tiết lộ các thông tin đó ra.
Đây chính là những mục tiêu được vạch ra trong một thông báo của Hunt gửi Colson vào ngày 28-7-1972.
Bản ghi nhớ này chỉ được công khai gần hai năm sau đó nhờ một cuộc thẩm vấn trong phòng xử án của chúng tôi. Tiêu đề của bản ghi nhớ đó là "Trung lập hoá Ellsberg". Mở đầu Hunt viết: "Tôi đề nghị có một khung kế hoạch hành động, mục đích xây dựng tập hồ sơ về Ellsberg, trong đó có chứa tất cả các thông tin công khai, bí mật và những thông tin nhạy cảm với uy tín của Ellsberg. Đây sẽ là công cụ cơ bản quyết định sẽ dùng cách nào nhằm huỷ hoại hình ảnh của ông ta trước công chúng và hạ thấp uy tín của ông ta".
Tiếp theo đó là một danh sách tám "đề mục" được đặt tên là "mong muốn", qua đó xác định những nguồn thông tin có thể sẽ hữu ích, rất đa dạng, bao gồm từ các tài liệu đã được xử lý thông tin mật đến các cuộc phỏng vấn với vợ cũ của tôi, các đồng nghiệp cũ tại Rand và ISA. Hai trong số các mục này là "Yêu cầu CIA bí mật tiến hành đánh giá tâm lý với Ellsberg" và, như một điềm báo, "Thu thập hồ sơ về Ellsberg từ những phân tích bệnh tâm thần của anh ta".
Khuyến nghị cuối cùng này đã dẫn đến vụ đột nhập vào văn phòng bác sỹ phân tâm trước của tôi tại Beverly Hill, ông Lewis Fielding. Có lý do hầu hết mọi người coi đề nghị cuối cùng này cùng với việc thu nhận Howard Hunt là sự mở đầu cho quá trình lụn bại của chính quyền Nixon. Tuy nhiên chưa có mấy người phán đoán chính xác các động cơ đằng sau haỉ hành động trên và phần lớn các phán đoán đều đi quá xa. Có độ tin cậy nhiều nhất là phát biểu của Egil Krogh về mục tiêu hoạt động của SIU và vụ đột nhập vào văn phòng của Fielding.
Ông này là người phụ trách SIU nhưng đồng thời cũng là người duy nhất luôn thành thực, thẳng thắn. Ông đã khai nhận trước mặt thẩm phán Gerhart Gesell tại toà(145) tội chỉ đạo vụ đột nhập vào nhà Fielding, trình bày các mục đích của vụ trộm và ý định sử dụng thông tin thu được sau đó. "Chúng tôi vạch ra rất nhiều mục tiêu cho chiến dịch này". Một trong số đó là đánh giá khả năng bị truy tố ra toà có khiến Tiến sĩ Ellsberg tiết lộ thêm nữa những tài liệu mật không, hay nếu không thì ông ta sẽ im lặng".
Điều này có vẻ không hợp lý nếu đặt ngoài bối cảnh cuộc thảo luận giữa Kissinger và Tổng thống ngày 27-7, một ngày trước khi Hunt thảo ra kế hoạch cho một cuộc điều tra ngoài luật nhằm "trung lập hoá Ellsberg":
Kissinger: Tôi cho là Mitchell nên hoãn lại(146) việc xét xử Ellsberg cho đến khi chúng ta dù bằng cách này hay cách khác khép lại được cuộc chiến tranh Việt Nam. Bởi vì tên khốn kiếp ấy. Đầu tiên, tôi cứ hy vọng - Tôi biết hắn khá rõ… Tôi chắc chắn rằng hắn ta vẫn còn giấu giếm thông tin khác nữa….Tôi cược là hắn ta ém lại cho phiên toà. Vì hắn có trong tay các bằng chứng về tội ác chiến tranh của Mỹ. Tôi không biết, nhưng tôi có cảm giác như thế.
Tổng thống: Được.
Kissinger: Hắn ta sẽ hành động như vậy.
Tổng thống: Hoãn lại ư, phiên toà này…
Kissinger: Thứ hai, chờ khi chúng ta chấm dứt được cuộc chiến này, chúng ta sẽ trút hết lên Ellsberg. Chúng ta sẽ ở thế mạnh hơn - và không ai buồn nhớ gì đến tội ác chiến tranh nữa. Ellsberg, đồ bỉ ổi!
Trước mặt thẩm phán Gesel vào tháng giêng năm 1974, Krogh khai nhận là các "mục đích tiềm năng" của thông tin thu được từ vụ đột nhập rất "đa dạng".
"Đương nhiên mục tiêu hàng đầu(147) là ngăn chặn tiến sĩ Ellsberg tiếp tục tiết lộ các thông tin khác và loại trừ bất cứ bộ máy phục vụ việc tiết lộ thông tin có thể đã được thành lập. Chúng tôi, đặc biệt là E. Howard Hunt, cũng cho rằng thông tin loại này có thể có tác dụng buộc Tiến sĩ Ellsberg phải tự mình khai. ra những ý đồ thực sự của ông ta. Cuối cùng, trọng tâm của quá trình điều tra lúc đó đang được tiến hành là khả năng sử dụng các thông tin này hạ thấp uy tín của một người phát ngôn cho phong trào phản đối chiến tranh".
Krogh, trong một lời khai khác đã nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng này. Trái với phỏng đoán trong gần như tất cả các tường trình từ trước tới giờ, ông ta không coi nó là mục tiêu tối quan trọng:
"Việc hạ thấp uy tín của Tiến sĩ Ellsberg sẽ có tác dụng làm chùn chân những kẻ khác định bắt chước ông ta. Nó cũng sẽ hạn chế khả năng của ông ta kích động tinh thần chống đối chính sách Việt Nam mà Tổng thống Nixon đã lựa chọn. Sự tự do của Tổng thống theo đuổi chính sách đối ngoại mình đã lựa chọn được coi là cốt tử của An ninh quốc gia.
Do đó, một trong các mục tiêu đặt ra cho SIU và vụ đột nhập là thu thập tin tức phục vụ nhiệm vụ Nixon đã giao phó cho Mitchell, Colson, và Hunt: tung ra dư luận các thông tin đó và "mượn báo chí để kết tội (tôi)". Tuy nhiên, theo lời Egil Krogh (sau này ông ta khẳng định với tôi như thế), đây không là mục đích chính của tất cả các nỗ lực nhằm vào tôi và kể cả của cuộc đột nhập riêng rẽ vào văn phòng bác sĩ phân tâm cũ của tôi.
Trong một lời khai vào năm 1974 của Krogh, ông ta nhớ lại:
"Tôi nhớ rằng nhiệm vụ của tôi là tập trung vào việc ngăn chặn những tiết lộ mới của Ellsberg và triệt tiêu bất cứ bộ máy nào ông ta có thể đã dựng lên để phục vụ ý đồ này của mình. Theo như tôi hiểu thì đây là nhiệm vụ trung tâm được giao phó cho đơn vị chúng tôi".
Cũng không có gì là hoang tưởng khi cả Tổng thống Nixon và Henry Kissinger đều nghi ngại tôi sẽ đưa ra các tài liệu tối mật khác đe doạ đến chính sách Việt Nam của họ. Cứ dựa vào những gì Thượng nghị sỹ Mathias đã nói với Kissinger - nhưng ông ta lại không để họ nhìn thấy tận mắt bất cứ tài liệu nào - cả hai người đều cho rằng tôi đang nắm giữ những tài liệu mật về Việt Nam, lấy được từ NSC, và tôi vẫn chưa hề công bố. Nixon và Kissinger không biết đó chỉ là những tài liệu chính tôi đã soạn ra (theo yêu cầu của Nixon), đã sao chụp và chuyện về Rand, cho nên giả định duy nhất của họ chỉ có thể là tôi đã nhận tài liệu từ một ai đó từng làm việc tại NSC vào năm 1969, hoặc có thể người này vẫn còn làm việc tại đây và vẫn có khả năng trao cho tôi những tài liệu khác. Thậm chí cho dù về sau người này có ra khỏi NSC, các kế hoạch cũng vẫn đã được vạch ra từ năm 1969, chi tiết với từng bước leo thang là chỗ dựa nhằm bí mật đe doạ Hà Nội, và những hành động leo thang đã và sẽ được thực hiện, trong thời gian từ năm 1969 đến năm 1971. Những kế hoạch dự phòng(148), sự đe doạ, và nhiều đợt leo thang chiến tranh tại Campuchia và Lào, tất cả đều được giữ kín - không nhằm che giấu chính quyền Hà Nội hay các nước đồng minh Cộng sản, mà chính Quốc hội và dư luận Mỹ - chính bởi vì nếu công khai, theo dự đoán bất ngờ sâu sắc của Krogh, sẽ đe doạ đến điều mà Nhà Trắng coi là "cốt tử của an ninh quốc gia": "Sự tự do của Tổng thống theo đuổi chính sách đối ngoại mình đã lựa chọn".
Tôi không cho rằng Nixon đã thực sự nghĩ tôi chính là mối đe doạ với "an ninh quốc gia", nếu bốn chữ đó được định nghĩa đúng như nó phải thế. Với tất cả khả năng của mình, tôi đe doạ công khai một chiến lược mà nếu tất cả mọi người đều hiểu đúng về nó, nền dân chủ của chúng ta có thể sẽ không cho phép Tổng thống tự do không e ngại điều gì theo đuổi chiến lược này.
Vẫn còn đó một câu hỏi, thông tin thu thập được từ văn phòng bác sĩ phân tâm sẽ có ích gì với kế hoạch "ngăn chặn các tiết lộ mới"? Tôi mới chỉ mập mờ hiểu điều đó, cho mãi đến năm 1975 khi Taylor Branch, phóng viên và là người gần đây đã nhận giải thưởng văn học Pulitzer viết về tiểu sử Martin Luther King Jr, cho tôi biết câu trả lời. Trong năm đó, Branch và một đồng nghiệp của mình, George Crile đã phỏng vấn một số người Cuba có liên hệ với Howard Hunt qua một loạt các kế hoạch phiêu lưu, bắt đầu từ vụ Vịnh Con Lợn. Có Eugenio Martinez và Bemard Barker, cả hai đều đã tham gia vào vụ trộm tại nhà bác sĩ Fielding, và sau đó là khách sạn Watergate (và trong cả một âm mưu ám sát tôi vào năm 1972, tôi sẽ kể lại chi tiết trong chương sau). Họ cho Branch hay rằng, trong năm 1971 họ có nhiệm vụ tìm kiếm các thông tin cá nhân mà tôi không muốn tiết lộ, dựa vào đó gây áp lực buộc tôi khai ra những bí mật vẫn còn nắm giữ có thể ảnh hưởng đến An ninh quốc gia. Họ không biết những bí mật đó là gì, chỉ biết rằng tôi là "kẻ phản quốc".
Cũng với mục đích này, họ còn được giao tìm hiểu về chính bác sĩ Fielding trong hồ sơ cá nhân của ông, làm thế nào khiến ông thay đổi quyết định và cung cấp cho FBI các thông tin của tôi. Biết như vậy, tôi cảm thấy vỡ lẽ ra nhiều so với giả định ngây thơ rằng các bệnh án viết tay của bác sĩ phân tâm lại có chứa các thông tin SIU cần đến. Buộc chính vị bác sĩ phân tích tâm lý ấy nói về bệnh nhân của mình có lẽ còn hiệu quả hơn nhiều. Thực chất, Barker đã trả lời phỏng vấn tờ Harper s rằng sau khi xem xét báo cáo nộp thuế thu nhập của Fielding, anh ta "cảm thấy hình như vị bác sĩ tử tế này lại không hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ thuế". Ngoài ra, song song với tìm kiếm thông tin về tôi, bọn họ còn nghiên cứu về vợ và các con tôi, mục đích không gì khác ngoài thao túng tôi.
Tất cả những việc này, đương nhiên không loại trừ kế hoạch công bố các thông tin hoặc do Fielding cung cấp hoặc tìm thấy qua hồ sơ bệnh án của ông. Công việc có thể sẽ do chính Colson thực hiện (như trong một ghi nhớ của SIU vào thời điểm đó). Tuy nhiên, nhìn vào những gì Krog cho là chức năng của SIU, sẽ hợp lý hơn nếu thấy khả năng tiết lộ thông tin là rất ít so với hành động đe doạ sẽ tiết lộ. Branch cho hay là một số các kế hoạch chi tiết khác cũng đã được thảo luận. Đứng trước nguy cơ các thông tin nhạy cảm của mình bị lộ ra ngoài, ít nhất tôi cũng sẽ chùn chân. Thậm chí họ còn hy vọng tôi bỏ đi sống lưu vong, ở Cuba, hay Algeria, như gương của Eldridge Cleaver hoặc Timothy Leary, hoặc khiến tôi tự sát (là điều FBI mong mỏi nhất khi họ gửi đến cho Martin Luther King. Jr cuốn băng nghe trộm các cuộc phiêu lưu tình ái của ông). Tôi hiểu rõ con người mình khi đó, và biết chắc rằng không gì có thể thao túng được tôi. Nhưng nếu họ có hy vọng thì cũng chẳng có gì là vô lý. Không gì là chắc chắn cả, Nhà Trắng đã chợt nhận ra nguy cơ đó với chính sách chiến tranh họ đang bí mật tiến hành nếu nó bị tiết lộ.
Chú thích:
(106) "Theo dư luận" - Tổng thống và Kissinger, 15:09, 13 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(107) "Lào và Campuchia" - sđd.
(108) "Thưa Tổng thống, thưa ngài Bộ trưởng Tư pháp" - Tổng thống và Ehrlichman, 19:13, 14 tháng 6, 1971, Điện đàm Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(109) "Lời cảnh cáo sơ bộ" - Tổng thống và Mitchell, 19:19, 14 tháng 6, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(110) "Lệnh của toà án chỉ" - Tổng thống, Haldeman và Ziegler, 10:39, 16 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 522-2.
(111) "mớ tài liệu dính dáng tới Kennedy" - Tổng thống và Ziegler, 24:59, 16 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 522-7.
(112) Tổng thống, Kissinger, Ehrlichman và Haldeman, 17:15, 17 tháng 7, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 525-1.
(113) Sau khi Kissinger đi khỏi: Tổng thống nói chuyện với Colson, 18:21, 17 tháng 7, 1971, Biên bản điện đàm Nhà Trắng, Phòng Bầu Dục 525-1.
(114) "Đơn giản chúng ta không thể cho phép" - Tổng thống và Colson, 18:21, 15 tháng 7, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục, Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(115) "… có một bức hình lớn" - Tổng thống, Haldeman, Ehrlichman và Mitchell, 17:09, 22 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(116) "Tôi buộc phải làm như vậy" - Trích lại trong Ungar, 186
(117) "tốt nhất là" - Tổng thống, Haldeman và Ziegler, 9:38, 24 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 5.
(118) "Quỷ tha ma bắt, phải tống một tên nào đó vào từ" - Tổng thống và Haldeman, 9:56 sáng, 15 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(119) "Có cách nào" - Tổng thống, Mitchell và Ziegler, 15:45, 15 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục, 521-9.
(120) "Tại sao FBI chưa" - Tổng thống, Ziegler và Haldeman, 14:42, 17 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(121) "Tổng thống, ngài cần phải mạnh tay" - Tổng thống, Kissinger và Ziegler, 22:39, 15 tháng 6, 1971, hội thoại Phòng Bầu Dục 520-4.
(122) "Có những lý do đặc biệt" - Liên quan tới các rò rỉ về Campuchia, Lào hoặc chiến dịch Thực đơn, xem Tổng thống, Haig và Kissinger, 14 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Haldeman, 23:04, 23 tháng 6, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Kissinger, 30 tháng 6, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Haldeman, 8:45, 1 tháng 7, Phòng Bầu Dục; Tổng thống và Ehrlichman, 10:58, 8 tháng 10, Phòng Bầu Dục.
(123) "Bất cứ khi nào" - Tổng thống và Kissinger, 15:09, 23 tháng 6, 1971, điện đàm Phòng Bầu Dục.
(124) "Một chính phủ được lòng dân" - Foerstel, tr. 11, trích dẫn Các bài viết của James Madison, 9, chủ biên Gaillard Hunt (New York: NXB Putnam, 1900-10), trang 103
(125) "Cậu không phản đối" - Tổng thống, Mitchell và Kissinger, 14:55, 23 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 6.
(126) "hàng xệp tài liệu" - Tổng thống và Kissinger, 14:31, 13 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(127) "Lúc trước", "Tại sao ông ta không hề đề cập tới" - Tổng thống, Mitchell và Kissinger, 14:55, 30 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(128) "Daniel Ellsberg là kẻ nguy hiểm nhất" - trích trong Hersh, tr. 385.
(129) "Đã đến lúc phải hành động" - trích trong sđd, trang 330.
(130) "Nhưng ở đây rất an toàn" - Tổng thống và Kissinger, 14:31, 23 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục.
(131) "Việc khó là" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrlichman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 10.
(132) "Mathias vẫn đang chơi trò mèo vờn chuột" - Tổng thống, Mitchell, Ehrlichman và Haldeman, 11: 47, 6 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục (trích Hồ sơ Đội chuyện trách khởi tố đặc biệt vụ Watergate, hội thoại 538-015, băng ghi âm Nhà Trắng).
(133) "cái trò trẻ con" - Tổng thống và Ehrlichman, 11:09, 20 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục.
(134) "Ellsberg đã như thế" - Tổng thống, Mitchell, Ehrlichman và Haldeman, 11:47, 6 tháng 6, 1971.
(135) "Vấn đề Mathias" - sđd.
(136) "Thực ra mà nói, nếu Mitchell thôi" - Tổng thống, Haldeman và Colson, 9:15, 2 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 5.
(137) "một nhân viên Nhà Trắng" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrlichman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 10.
(138) "Chúng ta đều hiểu, ông ta đã biết trước" - Tổng thống và Haldeman, 15:09, 14 tháng 6, 1971, Phòng Bầu Dục. Cục hồ sơ An ninh quốc gia.
(139) "… chúng ta đã dập tắt vụ "Algerl Hiss" - Tổng thống, Haldeman và Kissinger, 8:45, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 7.
(140) "một người ở bên ngoài" - Tổng thống, Haldeman, Colson và Ehrli(.hman, 10:28, 1 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục. Kutler, trang 13.
(141) "Anh có nghĩ anh ta" - Biên bản điện đàm của Charles Colson với Howard Hunt, 1 tháng 7, 1971, Tài liệu Watergate, hồ sơ riêng của tác giả.
(142) "Tôi đã quên" - Thông báo của Charles Colson gửi H. R. H. Trả lời: Howard Hunt, 2 tháng 7, 1971, sđd.
(143) "chỉ ra sự dính líu trực tiếp" - Biên bản cuộc điều trần của E. Howard Hunt trước Đại bồi thẩm đoàn, 2 tháng 5, 1973, sđd.
(144) "Ông nội sẽ tự hào về cậu" - trích trong Lukas, trang 101-2.
(145) ông đã khai nhận trước mặt Thẩm phán Gerhart Gesell tại toà: Lời khai trước Toà án Tiền kết án, 22 tháng 1, 1974. Nathaniel Akerman cung cấp.
(146) "Tôi cho là Mitchell nên" - Tổng thống và Kissinger, 14:20, 27 tháng 7, 1971, Phòng Bầu Dục.
(147) "Đương nhiên, mục tiêu hàng đầu là"; "Làm Ellsberg mất uy tín"; "Tôi nhớ rằng" - Lời khai trước Toà án Tiền kết án.
(148) Liên quan tới các rò rỉ về kế hoạch dự phòng, bao gồm kế hoạch phong toả Hải Phòng và ném bom các kênh đào: Tổng thống và Kissinger, 13 tháng 6, 15 tháng 6, 30 tháng 6, 1971; Tổng thống, Kissinger và Haldeman, 30 tháng 6, 1971.