Mùa thu năm 1961, không phải mất nhiều thời gian để khám phá ra rằng chúng ta hầu như không thể giành được thắng lợi ở Việt Nam. Tôi chỉ mất gần một tuần trong chuyện thăm đầu tiên để hiểu ra điều đó. Với việc tiếp cận đúng nguồn thông tin, nói chuyện với đúng đối tượng dân chúng, bạn có thể nhanh chóng có được một cái nhìn xác thực. Bạn không phải nói tiếng Việt Nam, cũng không cần phải biết lịch sử, triết học hay văn hoá châu Á mới có thể biết được rằng mọi việc chúng ta đang cố gắng làm đều chẳng đem lại kết quả tốt đẹp gì hơn. Tôi đã đọc đâu đó rằng bạn không cần phải là một nhà ngư học mới biết được khi nào thì một con cá bị chết thối.
Tôi là thành viên cấp cao của một lực lượng đặc nhiệm thuộc Lầu Năm Góc, tới thăm Đoàn Cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) ở Việt Nam với một giấy phép có thể "đi bất cứ đâu, xem bất cứ cái gì". Trưởng đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ, tướng Lionel McGan, đã yêu cầu các thành viên tham mưu của ông ta giúp chúng tôi bằng mọi cách để chúng tôi có thể nói một cách thẳng thắn. Đặc biệt, có một viên đại tá, người mà tôi đã nói chuyện vào thời gian gần cuối nhiệm kỳ của ông ta ở Việt Nam, đã có ý định chuyển giao lại những gì ông ta thu thập được ở đất nước này cho một người nào đó mà người đó có thể nói được với công chúng ở Washington. Ông đã cho tôi xem các hồ sơ của Đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ và kéo ra hàng đống những cặp tài liệu, và tôi đã thức trắng mấy đêm để đọc, phân loại các kế hoạch, báo cáo và các bản phân tích những chương trình của chúng ta và triển vọng của nó ở Việt Nam.
Mùi mốc của tài liệu rách nát hiện hữu ở mọi chỗ, và ông bạn đại tá của tôi cũng chẳng có một cố gắng nào để làm thay đổi tình trạng này.
Ông ta nói với tôi rằng dưới sự trị vì của Tổng thống Ngô Đình Diệm, một nhà lãnh đạo độc tài mà chúng ta đã lựa chọn cho miền Nam Việt Nam trước bảy năm, thì cuối cùng trong vòng một hoặc hai năm, Cộng sản gần như chắc chắn sẽ lên nắm quyền.
Nếu Diệm, người đã rất thành công trong năm trước đó bị phế truất trong một cuộc đảo chính, thì Cộng sản thậm chí còn giành thắng lợi nhanh hơn.
Hầu hết các sĩ quan của Đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ đều đồng ý với ông ta và với nhiều quan chức người Việt Nam rằng điều duy nhất có thể làm thay đổi triển vọng này trong thời gian ngắn là các lực lượng chiến đấu người Mỹ với qui mô lớn. (Hiệp định Geneva năm 1954 chỉ cho phép 350 cố vấn quân sự của Mỹ có mặt tại Việt Nam, cho dù bằng nhiều mưu mẹo khác nhau Mỹ đã cho tới hơn 700 cố vấn). Vị đại tá này còn tin rằng kể cả các sự đoàn của Mỹ vào cũng sẽ chỉ làm chậm lại hậu quả tương tự. Cộng sản sẽ nắm quyền ngay sau khi lực lượng của chúng ta rút ra bất kể khi nào.
Đây không phải là tin tốt lành với tôi. Tôi là một chiến binh mùa đông tận tâm và thực tế là một chiến binh nhà nghề. Tôi đã là thành viên chống Xô viết từ cuộc đảo chính của người Séc và trận phong toả Berlin năm 1948, khi tôi đang học năm cuối của trường trung học và cuộc chiến tranh Triều Tiên khi tôi là sinh viên trường Harvard vài năm sau đó. Trong thời gian phục vụ quân ngũ, tôi đã chọn Quân đoàn Lính thuỷ đánh bộ và có 3 năm làm sĩ quan bộ binh. Từ vai trò người lính thuỷ đánh bộ, tôi quay trở về Harvard để thi tốt nghiệp, sau đó vào Công ty Rand, một tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận với vấn đề trọng tâm là các khía cạnh quân sự của cuộc Chiến tranh lạnh. Công việc của tôi tới năm 1961 chủ yếu là ngăn cản một cuộc tấn công hạt nhân bất ngờ từ Liên bang Xô viết. Tôi không thích gì hơn khi được biết miền Nam Việt Nam, nơi mà Xô viết ủng hộ phe Cộng sản, sẽ bị đánh bại với sự trợ giúp của chúng tôi. Nhưng những cuộc tranh luận với viên đại tá đã làm tôi tin rằng miền Nam Việt Nam không phải là nơi đó.
Khi tôi trở lại Công ty Rand một tháng sau, thông điệp của tôi tới các cấp trên là, tốt nhất nên tránh xa Việt Nam, tránh xa các nghiên cứu chống bạo loạn, ít ra là về Việt Nam. Tôi nói, chúng ta đang bị lúng túng ở đó và tình hình sẽ không khá khấm hơn, người ta sẽ cản trở và bôi nhọ mọi thứ liên quan tới Việt Nam vì đó sẽ là một thất bại. Họ sẽ phải hứng chịu một số phận như những người dính líu vào vụ Vịnh Con Lợn, trước đó chỉ vài tháng. Bản thân tôi cũng quyết định không làm gì liên quan tới Việt Nam.
Một thời gian ngắn sau đó, Chính quyền Kennedy đã thể hiện một thái độ hoàn toàn khác. Vài tuần sau khi tôi từ Việt Nam trở về, một đoàn cố vấn của Nhà Trắng dưới sự chỉ huy của hai cố vấn cao cấp của Tổng thống là tướng Maxwell Taylor và W. Rostow đã tới Sài Gòn để nắm bắt tình hình. Họ phải đi đến quyết định cử các lực lượng đổ bộ Mỹ sang Việt Nam. Ngay sau khi họ trở về một tháng, Nhà Trắng tuyên bố tăng cường sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Giữa tháng mười một, Tổng thống Kennedy thực hiện một đợt tăng cường nhân viên quân sự Mỹ tại Việt Nam, phá vỡ điều khoản đã được đặt ra trong Hiệp định Geneva năm 1954. Ông ta tăng gấp đôi số cố vấn quân sự trong hai tháng cuối của năm 1961 và cùng với các đơn vị hỗ trợ cho các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam: các đại đội trực thăng các chuyên gia thông tin, vận tải, hậu cần và tình báo.
Tôi thực sự không ngạc nhiên về việc này. Tôi rất vui vì trái ngược với sự dự đoán của báo chí những tuần trước, tổng thống đã không gửi thêm các đơn vị chiến đấu của Mỹ. Dù sao, tôi vẫn cho rằng sự can thiệp gia tăng của Mỹ đã đi sai hướng. (Sự có mặt của cố vấn Mỹ đã tăng tới 12.000 người vào lúc Tổng thống Kennedy chết năm 1963 và một số hàng viện trợ của Mỹ đang được bí mật chuyển tới nhưng vẫn chưa có các đơn vị bộ binh).
Đó là những gì tôi lo sợ sẽ xảy ra; và cũng là lý do tại sao tôi có quyết định quan trọng tách mình ra khỏi tiến trình này. Tôi đã giữ chính kiến của mình trong ba năm tiếp theo.