Bất chấp thất bại trong âm mưu xâm lược Lào, Nixon vẫn không có dấu hiệu hạ thấp mục tiêu hay chiến lược của ông ta.
Thậm chí tôi còn cảm thấy chiến tranh còn có chiều hướng leo thang hơn nữa. Trên thực tế, có một cuộc tranh luận đáng lo ngại về việc mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam gắn liền với cuộc xâm lược đó. Thủ tướng Kỳ công khai kêu gọi Mỹ mở rộng địa bàn chiến tranh. Tôi rất lo ngại về triển vọng và nhịp độ leo thang của cuộc chiến kể từ vụ đột kích ở Sơn Tây.
Chiến dịch xâm lược Lào không khiến tôi ngạc nhiên. Tôi đang mong đợi, việc công bố các bản báo cáo sẽ tăng thêm xung lực cho dự luật McGovern-Hatfield ở Thượng nghị viện về việc cắt giảm ngân sách dành cho chiến tranh. Việc tiếp cận với tờ Thời báo New York dường như khó khăn.
Tôi đã nghe Peter McCloskey phát biểu chống chiến tranh một vài lần và rất ấn tượng với ông. Ông có một cách nói trầm lắng, luôn nhấn mạnh vào những điểm không khoan nhượng.
Ông ta là một thành viên đặc biệt quan trọng của bất kỳ một nhóm phản chiến nào bởi vì ông ta không để vấn đề bị ảnh hưởng bởi các đảng phái chính trị. Ông là một trong số ít những thành viên của Đảng Cộng hoà sẵn sàng chỉ trích Tổng thống là người trong đảng của ông. Thậm chí ông còn nói toạc ý định phản đối sự ứng cử của Nixon về vấn đề chiến tranh nếu cuộc chiến tiếp tục diễn ra trong năm 1972.
Sau khi chúng tòi cùng phát biểu trong một nhóm thảo luận tại Princeton, tôi đề nghị gặp riêng ông. Việc dàn xếp thời gian tỏ ra thật khó. Ông chuẩn bị bay về địa hạt của ông ở California và gợi ý tôi có thể đi cùng. Nhớ lại, thật kỳ lạ nếu tôi chấp nhận một chuyến bay dài bằng chi phí cá nhân chỉ để tận dụng cơ hội đó. Nhưng đó chính là điều tôi đã làm. Tôi mang theo một vali đầy và đưa cho ông vài tập báo cáo của Lầu Năm Góc để đọc khi chúng tôi trên máy bay.
Ông hoàn toàn đồng ý với tầm quan trọng của việc công bố tài liệu nghiên cứu đó. Ông nói rằng, nếu cần thiết, ông sẽ làm điều này ở Nghị viện. Nhưng trước hết ông cảm thấy cần phải thông qua Uỷ ban của ông để thực hiện đúng thể. thức. Tôi nói với ông rằng Bộ trưởng Quốc phòng Laird đã nhiều lần từ chối cung cấp tài liệu này cho Uỷ ban Đối ngoại của Thượng viện. Nhưng ông nghĩ rằng ông sẽ phải vận động để có được nó qua nhiều kênh. Tôi đưa nốt số tài liệu tôi mang theo để ông đọc ở California.
Khi trở lại Washington, ông đã đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nêu yêu cầu tài liệu đó ông đề cập tài liệu đó như là bằng chứng trước Uỷ ban của Thượng viện, khiến cho Fubright phàn nàn trong một phiên họp mở về sự bất lực của ông ta trong việc tìm kiếm tài liệu đó hoặc đề nghị Laird cung cấp một lần nữa. Mc Closkey nói với tôi rằng ông ta không thực sự chờ mong có được tài liệu đó, nhưng ông phải dành cho chính quyền thời gian để trả lời.
Dường như tôi cần sớm có một luật sư. Tôi sắp xếp một cuộc hẹn tuần trước trong tháng 5-1971 để gặp Jim Vorenberg, một giảng viên của trường Luật Harvard. Patricia có chút hiểu biết về Jim Vorenberg bởi vì anh ta từng là một sinh viên Luật ở Harvard và là bạn của anh rể cô. Chúng tôi cùng đến thăm ngôi nhà lớn của anh ta ở Cambridge một buổi tối và bắt đầu bằng câu chuyện về chị gái và anh rể của Patricia. Patricia và tôi ngồi thoải mái trên ghế có tay dựa, đối diện với anh ta trong một góc của phòng khách. Tôi nói qua với anh về xuất thân và trình bày cặn kẽ công việc của tôỉ liên quan đến nghiên cứu của McNamara. Tôi giải thích cách thức lịch sử ảnh hưởng đến chính sách của Nixon theo cách hiểu của mình, tầm quan trọng của việc cho Quốc hội và dư luận biết về nghiên cứu đó, những gì tôi đã làm và điều gì vẫn đang xảy ra. Nhưng tôi không có cơ hội để nói nhiều về phần cuối của bài thuyết tnnh bởi anh ta đột ngột xua tay và nói: "Tôi buộc phải ngăn cản anh lại ngay bây giờ. Tôi e rằng mình không thể tiếp tục thảo luận về vấn đề này".
"Ông nói gì vậy?"
"Dường như ông đang mô tả những kế hoạch để thực hiện một tội ác. Tôi không muốn nghe bất kỳ điều gì thêm. Với tư cách là một luật sư, tôi không thể tham gia vào vụ việc này".
Đầu tôi như muốn nổ tung. Tôi đứng bật dậy, hạ thấp giọng và căng thẳng, càng lúc càng nhanh hơn, nhìn thẳng xuống anh ta: "Tôi vừa nói với ông về hàng ngàn trang hồ sơ về các tội ác: tội ác chiến tranh, tội ác chống lại hoà bình, tội ác giết người hàng loạt. Hai mươi năm chiến tranh dưới bốn đời Tổng thống.
Và tất cả những Tổng thống ấy đều có bên mình những giáo sư của Harvard, để cố vấn cho ông ta nên thực hiện điều đó như thế nào và tránh điều đó như thế nào? Cám ơn ông, chúc ngủ ngon".
Tôi quyết định quay sang tìm kiếm sự giúp đỡ từ một nhân vật mà tôi tiếp xúc một năm trước đây tên là Leonard Boudin.
Năm đó, ông ta đang ở Cambridge với tư cách là một giáo sư thỉnh giảng tại trường Luật Harvard. Luật sư cấp tiến Peter Weiss, người đã giới thiệu tôi với Boudin, nói thẳng rằng: "Leonard Boudin là luật sư về hiến pháp lỗi lạc nhất của quốc gia". Ông đã tranh cãi, và chiến thắng trong rất nhiều vụ kiện về quyền tự do dân sự trước Toà án Tối cao. Tôi gọi điện cho ông ta ngay sau ngày tôi trò chuyện với đồng nghiệp của ông ở Harvard. Chúng tôi nói chuyện trong văn phòng tại tầng hầm của ngôi nhà mà ông đang thuê ở Cambridge. Tôi rất thích ông. Ông lắng nghe tôi và cuối cùng, ông nói: "Anh biết không, tôi không phải là một anh hùng hay một kẻ tử vì đạo. Tôi là một luật sư. Nhưng tôi đã từng đại diện cho nhiều người như vậy. Và lần này, tôi lấy làm vui mừng được đại diện cho anh".
Không lâu sau đó, qua báo chí tôi biết rằng Thượng nghị sỹ Mike Gravel đang dự định ngăn cản việc thông qua dự luật về mở rộng chế độ quân dịch đã được đệ trình trong tháng sáu. Tuy không có bất kỳ đồng nghiệp nào sẵn sàng đứng về phía ông, nhưng ông sẵn sàng thực hiện một mình. Như tôi đã nói, đây là một loại giấy quỳ để thử sáng kiến của các thượng nghị sỹ. Khi cần các thượng nghị sỹ miền Nam thường xuyên sử dụng các bài phát biểu dài để linh hoạt ngăn cản (filibuster) các dự luật về quyền dân sự. Tuy nhiên chưa có một dự luật chống chiến tranh nào bị ngăn cản bởi chiến thuật này. Gaylord Nelson đã phớt lờ đề nghị của tôi. Thượng nghị sỹ Harold Hughes và Charles Goodell nói rằng họ sẽ xem xét ý kiến của tôi chỉ khi họ vận động được những người khác đứng về phía họ, điều không có khả năng xảy ra. Với chỉ một hoặc hai tiếng nói, nỗ lực đó không chỉ chắc chắn thất bại, mà tỏ ra vô ích, khoa trương và lố bịch. Goodell giải thích với tôi rằng: "Dan này, ông không thể gánh nổi hậu quả khi làm như vậy ở nghị viện: điều đó thật lố bịch và sẽ là trò cười cho mọi người". Do đó, Mike Gravel chính là một kiểu mẫu nghị sỹ mới, không giống như những thành viên khác của Nghị viện, sẵn sàng đứng dậy một mình và chấp nhận hành vi được coi là lố bịch.
Và đó là một vấn đề đáng để phản đối. Không hiểu những Thượng nghị sỹ già và trung niên đang nghĩ gì trong đầu, khi họ giơ tay ủng hộ việc mở rộng chế độ quân dịch, gửi thêm nhiều thanh niên trẻ tới cuộc chiến trong năm thứ bảy này.
Đã vài tuần nay, tôi không có tin tức gì từ Neil Sheehan về khả năng tờ Thời báo có thể xuất bản hồ sơ, và trước khi điều đó xảy ra, rất ít hy vọng le lói từ phía ông ta. Thượng nghị sỹ Mathias cũng chưa quyết định khi nào hoặc bằng cách nào ông sẽ sử dụng bản sao của báo cáo NSSM- 1 mà tôi đã chuyển cho ông. Gravel có vẻ như là nơi gửi gắm tốt nhất của chúng tôi trong tương lai gần. Tôi nghĩ, tôi có thể bay tới Washington với một bộ hồ sơ để đưa cho ông ta trong ngày thứ hai. Để chuẩn bị cho chuyến đi đó, tôi lấy một bộ từ căn hộ của Spencer. Đây là lần đầu tiên kể từ khi sao chụp tài liệu đó, chúng tôi cho phép để một bộ tài liệu trong căn hộ của chúng tôi tại số 10 phố Hilliard.
Tối thứ bảy ngày 12-6, chúng tôi có hẹn với Howard và Roz Zinn, cùng xem bộ phim: "Butch Cassidy và Sundance Kid"(*) tại khán phòng của Quảng trường Harvard. Tôi đã xem phim này hai lần và đây là một trong những bộ phim tôi yêu thích. Buổi sáng hôm đó, tôi nhận một cuộc điện thoại của Tony Austin, một biên tập viên của Thời báo New York. Ông ta đã đến Cambridge một vài lần mùa thu năm ngoái để phỏng vấn tôi cho cuốn sách mà ông ta viết về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ và hậu quả của nó. Ông ta gây ấn tượng mạnh cho tôi bởi nhiệt huyết, sự hiểu biết thấu đáo và quyết tâm của ông nhằm vén bức màn bí mật của cuộc tấn công lần thứ hai vào ngày 8 tháng. Ý cuối cùng tôi đã nói với ông là tôi không dám chắc ông có thể hoàn toàn làm sáng tỏ mọi điều. Bất chấp sự ngờ vực của bản thân, tôi quyết định giúp ông ta bằng cách cung cấp cho ông những gì tôi có. Tôi miêu tả tài liệu nghiên cứu của McNamara cho ông ta, mà không nói rằng tôi đang có một bản sao của toàn bộ nghiên cứu đó. Tôi đã để ông ta đọc một đoạn trích từ nghiên cứu đó, phần nói về những tình tiết của Sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Thật ngạc nhiên, ông cuối cùng đã đưa ra bằng chứng thuyết phục để bác bỏ khả năng Bắc Việt đã lần thứ hai tấn công tàu khu trục của Mỹ ngày 4-8-1964. Nếu ông công bố bằng chứng này trên tờ Thời báo New York, tôi chắc chắn rằng bài báo của ông xứng đáng giành được giải Pulitzer(**). Nhưng ông ta muốn dành kết luận của ông cho cuốn sách: "Cuộc chiến của Tổng thống".
Trên điện thoại, Austine gần như nức nở. Ông ta nói trong tuyệt vọng: "Dan, tác phẩm của tôi phá sản rồi! Cuốn sách sắp được xuất bản trong vài tuần nữa, nhưng nó bị chìm mất. Thật là một thảm hoạ".
Tôi nói với ông ta rằng tôi không tin điều đó có thể xảy ra. Chuyện gì vậy?
Austine giải thích: "Thời báo New York có toàn bộ nghiên cứu mà ông (tác giả) đã cung cấp cho tôi một phần trong đó. Họ đang bắt đầu xuất bản ngày hôm nay. Toà nhà đã bị đóng cửa. Họ đang kiểm soát tất cả mọi người ra vào. Họ sợ rằng FBI sẽ rờ họ trước khi họ có thể in ra. Họ cũng dự tính một lệnh cấm từ phía chính quyền".
Tôi nói điều đó thật thú vị và cho rằng việc Thời báo New York xuất bản nghiên cứu đó là một tín hiệu tốt. Xét cho cùng, tất cả những gì về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ mà toà báo có nằm trong tập tôi đã cho Austine xem. Nhưng Austine có nhiều hơn thế ngay cả trước khi ông phát hiện ra sự thật. Trong trường hợp toà báo in toàn bộ nghiên cứu, độc giả sẽ quan tâm về lịch sử của cuộc chiến và cụ thể hơn về đề tài mà cuốn sách của ông đề cập.
"Những câu hỏi về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ sẽ được đặt ra mà chỉ có ông là người có thể trả lời. Rất có thể, thời điểm đó là lý tưởng cho ông".
Tôi nói một cách nhẹ nhàng, cố gắng làm Austine an tâm. Nhưng ông ta trở nên quẫn trí. Ông ta chắc chắn rằng các loạt báo của Thời báo New York về cả cuộc chiến tranh sẽ lấn át cuốn sách nhỏ bé của ông ta và giành được sự chú ý của độc giả. Bất chợt, tôi hỏi liệu ông có biết bằng cách nào Toà soạn có được tài liệu đó. Austine trả lời không biết. Tôi nói, chúng ta cùng mong cho những điều tốt đẹp nhất, và chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Ông ta cúp máy.
Trái tim tôi đập rộn ràng. Tôi quay số của Neil ở toà soạn Thời báo New York. Trong khi chờ đợi trả lời, tôi nghĩ: Vậy thì có phải họ lo lắng về một lệnh cấm từ chính quyền. Tâm trạng của họ là chờ đợi FBI đến bất kỳ lúc nào. Neil không cho tôi biết chuyện này và ông ta cũng không hề cảnh báo tôi trong suốt cả tuần hoặc cả tháng vừa qua, thậm chí ngay cả sáng nay, vì Chúa.
Khi nào ông ta dự định báo cho tôi biết vậy? Và vào thời điểm này, lần đầu tiên trong nhiều tháng qua, tôi đang có một bản sao đầy đủ trong phòng khách nhà mình.
Neil không nhấc máy điện thoại. Nửa giờ sau, sau khi báo tin cho Patricia, tôi gọi lại cho ông ta. Không có tín hiệu trả lời.
Tôi gọi vào điện thoại bàn của ông ta tại Toà soạn và để lại lời nhắn để ông ta gọi điện cho tôi. Nhưng tôi không nhận được tin tức gì của ông ta kể từ hôm đó.
Tôi buộc phải di chuyển tập tài liệu đó ra khỏi nhà. Tôi gọi cho vợ chồng Zinns. Họ dự định ghé qua nhà của chúng tôi để cùng đến rạp chiếu bóng. Tôi hỏi Zinns liệu chúng tôi có thể tạt qua chỗ của họ ở Newton thay vì dự định cũ. Tôi để tập tài liệu trong một cái hộp và cất ở thùng xe phía sau. Họ là những người lý tưởng cho việc tránh sự để mắt của FBI. Howard ngầm phụ trách quản lý các phong trào của nhà hoạt động phản chiến Daniel Bengan trong vòng nhiều tháng khi ông ta lẩn tránh FBI (thực tế đó cho thấy, Howard là một người lý tưởng để che giấu bất cứ cái gì khỏi sự chú ý của FBI). Có thể đoán rằng điện thoại của ông ta đã bị nghe trộm, ngay cả khi ông ta không bị giám sát thường xuyên. Tuy nhiên, tôi không biết ai tốt hơn lúc này để nhờ vả trong buổi chiều thứ bảy đó. Dù thế nào, tôi cũng đã đưa cho Howard một tiết đoạn lớn của nghiên cứu đó để đọc với tư cách một nhà sử học. Ông ta đang giữ tài liệu này ở văn phòng của ông trong Đại học Boston. Đúng như tôi dự đoán, họ lập tức đồng ý. Howard giúp tôi bê chiếc hộp ra khỏi thùng xe.
Chúng tôi lái xe trở về Quảng trường Harvard xem chiếu bóng. Hai vợ chồng Zinns trước đó chưa xem bộ phim Butch Cassidy. Bộ phim động viên làm chúng tôi vững tin nhiều. Sau đó, chúng tôi mua kem ốc quế tại cửa hàng Brigham và quay lại căn hộ của tôi. Cuối cùng, Howard và Roz trở về nhà trước khi những loạt báo sớm của Thời báo New York số chủ nhật được chuyển tới quầy báo ở đường xe điện ngầm phía dưới quảng trường. Giữa đêm, Patricia và tôi ra quảng trường và mua một vài tờ báo. Chúng tôi vừa đi đến cầu thang dẫn tới Quảng trường Harvard vừa đọc trang nhất, với một bài báo dài ba cột nói về tư liệu lưu trữ bí mật. Cảm giác thật tuyệt.
Chú thích:
(*) Phim "Butch Cassidy và Sundane Kid" sản xuất năm 1969 với Paul Newman và Rober Redford, kể về hai nhân vật Butch Cassidy và Sundane Kid. Butch Cassidy (1869-1908) là tên cầm đầu một nhóm tội phạm ở vùng miền Tây hoang dã của nước Mỹ gọi là Wild Bunch hay còn gọi là "Hole-in-the-Wall Gang". Một thành viên khác là Harry Longbaugh, còn gọi là "Sundance Kid". Họ tấn công những đoàn tàu hoả ở Wyoming. Cả Cassidy và Longbaugh chạy trốn đến Bolivia và có thể chết ở đây - ND.
(**) Giải thưởng giành cho các tác phẩm văn học, âm nhạc và báo chí xuất sắc ở Mỹ - ND.