Nghĩa là:
Tiếp đặng đơn thơ, Thất-Chơn thành quả vị,
Hội yến Diêu-Trì, các Tiên hưởng bàn-đào.
Có bài kệ rằng:
Tu hành đại-đạo lánh trần mê,
Mới phải trượng-phu đặng trở về,
Nhựt nguyệt sáng đồng thường chẳng tối,
Kiền-khôn đều lớn, hội Long-Huê.
Lại nói mấy người háo sự hay nhiều chuyện, đạo-sĩ nghe thầy chùa nói để làm Tây-phong trước cửa thì nói mình sẽ làm một tấm vách tường giống cái quạt mà đợi gió Tây-phong. Lời tục nói: Mây sợ gió, gió sợ tường. Làm cái vách như cây quạt, chờ gió đến quạt nó trở lại, nên kêu là Phản-phong tường. Người khác nói: Anh làm trở gió thì tôi đi bỏ lửa đặng đốt cháy sạch nó đi.
Dương-Năng thấy mấy người tranh đấu nói rằng:
- Tòa Tây-phong nó chưa làm mà đốt cái gì? Để làm rồi sẽ đốt chẳng muộn. Đạo chúng nghe nói tức cười. Ai dè cũng có những người trong đạo đem việc dối truyền ra lâu năm, rồi lời vọng truyền hoài. Người sau không biết tưởng là thầy chùa làm đặng Tây-phong thổi Bạch-Vân-Tự, bị người phá lại kêu là hồi-phong phản-hỏa, đem Tây-phong trở đốt thầy chùa. Thiệt việc đó không có. Ấy là lời nói qua nói lại mà thôi. Nay có sách xưa để lại, thiệt là việc không có, nên người tu hành đừng tranh cường nhược. Bởi từ xưa đến nay trong thiên-hạ người tu cũng vì chỗ phải quấy tranh nhau mà chịu ở trong cuộc luân-hồi chẳng dứt. Vậy xin chư hiền coi trong nhơn-quả thì đặng minh bạch.
Kệ rằng:
Việc trước sai truyền chẳng khá đương,
Nói qua nói lại việc hoang đường,
Người nay nhận tưởng là chơn thiệt,
Bày nói tiền hiền luận đoản trường.
Lại nói Khưu chơn-nhơn hòa cùng thiền-sư, sau lại tu hành tịnh dưỡng, đem việc công-phu cửu-cửu bát-thập-nhứt chuyển.
Thí dụ cửu-cửu là 81 nạn của Tam-Tạng đó! Lấy chơn-tánh, bổn-tình, tâm-viên, ý-mã thể trong thân, lấy thất-tình lục-dục tam-thi lục-tặc mà làm ma ở ngoài cướp đoạt, đặt ra một bộ đại-thơ tên “Tây-Du-Ký”. Sắp đặt xong rồi sai học trò đem đến Tập-Hiền-Quán dưng cho Bạch-Vân thiền-sư. Thiền-sư thiệt người có trí-huệ, xem hết bộ Tây-Du thì biết liền rõ đặng lời của chơn-nhơn, vận chuyển động tịnh trong mình, rồi làm lục-lục tam-thập-lục, thể các đường ma ở ngoài đến phá trong thân, lấy trí-huệ, thần-thông, sanh khắc, biến hóa lập thành một bộ đại-thơ tên “Phong-Thần diễn-nghĩa”, sai sa-di đem lại Bạch-Vân-Quang, dưng cho Khưu chơn-nhơn. Từ đó đến sau 2 đàng rất hòa-hảo.
Bạch-Vân thiền-sư, khi đó trong mình thần-thông đều đủ, qua đến đất Giang-Nam khai hóa.
Có một Tiên, một Phật mà làm ra 2 bộ Tây-Du và Phong-Thần, truyền bá muôn đời diệu dụng đến nay.
Kệ rằng:
Hai bộ đại-thơ để diệu huyền,
Quấy tại người làm việc chẳng yên,
Thất-tình lục-dục tùng trong loạn,
Sanh xuất ma-vương vạn thiên thiên.
Lại nói Khưu chơn-nhơn tại Bạch-Vân-Quang khai đàn giảng dạy, nói việc giới-luật, mở rộng cửa độ đời, phát thêm đạo đức, lập qui-củ răn dạy người hậu học, làm chỗ tòng lâm 72 tòa mà tiếp huyền-môn, 3000 công đủ, 800 quả đầy, đi phó hội trên Tử-Phủ đặng thành Đại-La Thiên-Tiên, chỗ tam thập tam thiên có đơn thơ xuống triệu đến ngày 19 tháng 10 cỡi hạc phi thăng, hào quang chói sáng, ngồi mây đỏ mà lên không. Kim-đồng tiếp giá hai bên, Ngọc-nữ dẫn đường, gió mát thanh-nhàn trên hư không, tràng-phan che phất, tiếng nhạc thanh-thao.
Một hồi lâu chơn-nhơn lìa chỗ Bắc-Kinh, tới cửa Nam-Thiên có Vương, Mã, Ân, Triệu, bốn nguyên-soái đều làm lễ. Còn các vị Thiên-Vương nghinh tiếp chầu Chí-Tôn về nơi Kim-Khuyết, mời đến trước điện Lăng-Tiêu xưng: Ngọc-Hoàng vạn thọ vô cương thiệt là đế-đức háo sanh. Thượng-Đế thấy cũng vui mừng, mạng sai khảo-giảo công-trình, Tam-Quan trên điện bảo cử, Thất-Chơn chung-thủy đáng khen. Khảo sát việc khổ hạnh nội-công ngoại-quả thì Khưu-Trường-Xuân thứ nhứt, thông huyền-diệu trên vô-cực thái-cực. Lưu-Trường-Sanh thứ hai. Đàm-Trường-Chơn đạo tâm bền chắc đứng thứ ba. Mã-Đơn-Dương thanh-tịnh vô-vi thứ tư. Xích-Thái Cổ một trần chẳng nhiễm đứng thứ năm. Vương-Ngọc-Dương muôn việc đều không là thứ sáu. Tôn-Bất-Nhị trí-tuệ hiểu thông, trước bày việc tu hành cho chồng, công quả rất lớn mà phải nhượng một bước, trước để bà làm đầu, nay đứng sau thứ bảy. Trọn trước trọn sau, các quả của Thất-Chơn trên Tử-Phủ có ghi tên họ, tâu lên Thượng-Đế.
Thượng-Đế vui mừng, đều phải sắc phong tặng chức:
1) Khưu-Trường-Xuân: Tiên-Thiên trạng-ngươn, Tử-Phủ Soạn-Tiên, Thượng-phẩm Toàn-Chơn Giáo-Chủ, Thân hóa minh ứng, Giáo-Chủ Chơn-Quân.
2) Lưu-Trường-Sanh: Huyền-Tịnh Huẩn-Đức Chơn-Quân.
3) Đàm-Trường-Chơn: Tống-Huyền Minh-Đức Chơn-Quân.
4) Mã-Đơn-Dương: Vô-Vi Phổ-Hóa Chơn-Quân.
5) Xích-Thái-Cổ: Thông-Huyền Diệu-Lực Chơn-Quân.
6) Vương-Ngọc-Dương: Quản-Từ Phổ-Độ Chơn-Quân.
7) Tôn-Bất-Nhị: Huyền-Hư Thuận-Hóa Ngươn-Quân.
Thượng-Đế phong rồi, Lưu, Đàm, Mã, Xích, Vương, Tôn sáu người đều lạy tạ ơn, duy có Khưu-Trường-Xuân chẳng chịu. Tam-Quan Đại-Đế trách rằng: Khưu-Trường-Xuân sao chẳng tạ ơn? Khưu chơn-nhơn phủ phục bi lụy tâu rằng: Chẳng phải thần dám trái mạng, vì đạo thiệt khó học, Tiên chẳng dễ thành, sợ đời sau người tu học đạo chịu những trăm ngàn muôn khổ nầy mà chẳng thối tâm, thì trong muôn ngàn người chọn chẳng đặng một, thật là khó học.
Nếu người tu chẳng thấy bộ “Học-Hảo-Nan” thì chẳng đặng thành đạo. Nay thần có bộ “Học-Hảo-Nan” tâu lên. Ngộ đạo chẳng dễ, học hảo thiệt khó. Nhơn việc học hảo nầy, như người chẳng sức lượng lớn chí lớn, thì học chẳng đặng, chẳng hay nhịn đói chịu lạnh, nhẫn-nhục chịu khổ, có khi áo chẳng trọn mình, ăn chẳng đặng no, ngày không bữa cháo, đêm ngủ không đặng một canh, không ngày nào chẳng bị người gièm siễm, cam nhiều điều sỉ-nhục, nói ra thiệt đau lòng, nghe cũng lạnh mình, vì thần khắp trải nhiều việc khổ-sở, nên biết học hảo là chỗ khó. Một chữ hảo còn khó học nào dám vọng thành Tiên! Thần e trong thiên hạ, người đời sau tu hành ngộ đạo, ít đặng như thần mà chịu khổ nạn, sợ có cái tên học đạo, không đặng chỗ thiệt học khiến thần không chỗ hóa độ, thiệt là cúi đội Ngọc-Đế hoằng đức vinh phong, nên thần chẳng dám tạ ơn, cúi xin ơn trên xá tội.
Khưu chơn-nhơn đem bổn “Học-Hảo-Nan” tâu lên, Thượng-Đế cùng mấy vị Tiên nghe đều rơi lụy. Lúc ấy trong Tứ-Đại Nguyên-Soái, đi ra một vị Tinh-Quân, tóc đỏ, mặt đỏ, râu đỏ, lông cũng đỏ, mặc áo kim khôi, giáp vàng, tay cầm roi vàng, chân đạp xe lửa, gió mây theo giữ, ngàn muôn Thần hộ, bắt yêu trừ quỉ, xem xét không tư, người xưng là Thiết-Diện Lôi-Công Hộ-Pháp hữu-cảm Tôn-Tiên-Thiên Linh-Tổ.
Vì Linh-Tổ ở một bên, nghe Khưu chơn-nhơn tâu nói: Người học hảo có nhiều việc ma nạn khảo trở không chỗ nào kể, người người đều có, hoặc ít hoặc nhiều, bằng như không ai hộ trì, sợ khó tu trọn. Nghe vậy ông khởi lòng trắc ẩn, nguyện hứa làm Hộ-Pháp Thần, liền kêu Khưu chơn-nhơn biểu mau tạ ơn đi! Ngài rằng: Như đời sau có người quyết chí tu hành học đạo, coi thấu cuộc trần, hễ người có 3 phần công tu, ta nguyện hộ thêm 7 phần; có 10 phần tu, ta nguyện vui lòng theo bảo cố. Xin có người biết biện chay cúng-dường, muốn thoát cõi trần theo ta, thỉ-chung chẳng đổi, một lòng theo thờ đạo, đừng có một ý muốn đạo, một ý muốn đời ta không hộ đặng, chớ như thể hạnh của Chơn-nhơn, thì ta chẳng để nó nhịn đói chịu khảo!
Khưu chơn-nhơn có ý thương người hậu học, nghe Linh-Tổ chịu lãnh người tu hành, mới vui lòng chịu tạ ơn. Rồi làm lễ đáp tạ Linh-Tổ, đem gánh nặng ngàn cân giao cho ông. Thượng-Đế lui chầu, chư Tiên hồi điện. Chừng ấy Thất-Chơn đến Tử-Phủ, ra mắt mấy vị Tổ là: Đông-Huê Đế-Quân, Chung-Ly Tổ-Sư, Động-Tân Tổ-Sư. Rồi bái tạ sư-phụ là Trùng-Dương chơn-nhơn.
Còn Đông-Huê Đế-Quân sai Tử-Hà chơn-nhơn dẫn Thất-Chơn đến Đại-Nghi-Quán học tập lễ phép trong Diêu-Trì, gần đến hội Bàn-Đào đặng yết bái cao-nhơn. Đến hội kỳ, Đông-Huê Đế-Quân dẫn lãnh mấy vị mới thành Tiên ở Nam-tông, Bắc-phái và Ngũ-tổ, Thất-Chơn đều đến Diêu-Trì, thấy huỳnh-lầu ngọc-võ, kim-khuyết ngân-cung, san-hô làm lan-can, mã-não làm thềm, kim-bích sáng ngời, tử-châu chói mắt, tường-quan chiếu rạng, mùi thơm lạ lùng...
Chỗ Huỳnh-lãm ngọc-thọ, loan bay phượng múa, dưới Kim-trụ cọp reo, rồng ngâm, tượng giỡn, thiệt trong đời không có, nói chẳng xiết chỗ vui!!!...
Lại nói Đông-Huê Đế-Quân dẫn mấy vị Tiên mới tham bái Vương-Mẫu, rồi Vương-Mẫu đãi lễ khách mới. Một lát có Thánh-chơn trên mây đến, Vương-Mẫu mừng chào, y theo phép hội trước, đều có thứ tự. Duy có các vị Tiên mới, phải đợi có thầy chỉ. Tây-Vương-Mẫu nói rằng: Mấy vị Tiên mới tấn chưa quen phép luật trên thượng-giới, chẳng biết hết việc. Nay hành theo phép thường, đứng tại đơn-trì đều đồng một lễ.
Tây-Vương-Mẫu phân rồi, các vị Tiên-chơn đều tam quì cửu khấu. Ngài có sắp đặt sẵn, nhạc đánh đều trời, Tiên-đồng ca múa, trên tiệc đồ trân phẩm quí báu không cùng, chẳng phải dưới phàm trần có đặng.
Tiên-đồng đãi rượu, Ngọc-nữ dâng bông, phân cấp an hưởng Bàn-Đào vì đào ấy chẳng dễ ăn đặng. Người có đức tu hành mới được hưởng. Như người sau học đạo muốn an hưởng đào Tiên, thì phải coi theo hạnh Thất-Chơn, có lòng khổ chí đạo mới đặng thành, công quả đủ đầy, về ra mắt Diêu-Trì mới có Bàn-Đào cho thưởng, ăn một trái sống ngàn năm, bất sanh bất lão. Hội rồi thiên chơn vạn thánh đều về Tiên-cung Tử-phủ trên Phượng-chư (giống núi Côn-Lôn mà bề cao chẳng bằng). Trên đó có bốn mùa cỏ trường-sanh, tám tiết bông chẳng tàn, chỗ Thiên-cung cảnh thứ nhứt!
Cho nên người tu muốn lên, phải khổ tâm khổ chí mới đến đặng.
Có bài kệ rằng:
Thất-Chơn Nhơn-Quả vĩnh lưu truyền,
Chỉnh muốn cho người tập diệu-huyền,
Chịu hết trên đời nhiều việc khổ,
Ắt ngày sau đặng chứng Kim-Tiên.
* * * * * * *
Thiên vận năm Đinh-Sửu (1937) tháng 9 ngày mồng 9
Hậu học Lâm-Xương-Quang kỉnh diễn.
CHUNG