Nghĩa là:
Giảng bực tam thừa, diễn nói Đạo Toàn-Chơn,
Làm lở mặt mày, mà chịu người xấu xa.
Có bài kệ rằng:
Đã đặng chơn truyền đạo khá tu,
Tam thừa pháp diệu tại người cầu,
Huyên-Trinh khi đó hư mày mặt,
Đổi đặng thân vàng hưởng muôn thu.
Khi đó Tôn-Bất-Nhị nghe mấy lời Mã-Đơn-Dương nói, cũng như một tay phá bể lưới mê, vui mừng tỉnh ngộ, chẳng khác chiêm bao mới tỉnh. Than rằng:
- Phải không có sư huynh chỉ dạy chắc bị lầm việc lớn. Tôi khi bình thường việc hiểu cũng nhiều, sao nay học Đạo lại kém hơn sư huynh? Đơn-Dương nói:
- Chẳng phải đạo hữu thua tôi, vì đạo hữu không chịu tìm học, nên chẳng thấu. Sách có nói: Thông minh phản bị thông minh ngộ; hứa đa thông minh ngộ tự thân. Nghĩa là: Người thông minh phải giữ phép, trở lại bị cái thông minh mà lầm; biết bao nhiêu người thông minh làm hại cho mình. Vậy cũng tại mình tự thị quá. Bởi việc chi, trong thiên hạ có học rồi mới biết, sanh ra mà biết đâu có mấy người?
Tôn-Bất-Nhị nghe dứt, tạ ơn rằng: Tôi nay tuân lời thầy dạy, từ nay đến sau tôi phải hết lòng học hỏi.
Đơn-Dương nghe nói vui mừng, liền trở về phòng an nghỉ.
Qua ít ngày, Đơn-Dương muốn đến nhà người cậu đặng mừng lễ chúc thọ, rồi thưa cho thầy hay, lại mời Tôn-đạo-hữu đi. Tôn-Bất-Nhị giả nói có bịnh đi không đặng. Rồi Đơn-Dương biểu gia đồng sắm sanh lễ vật đi trước, ông cỡi lừa theo sau.
Nói qua bà Tôn-Bất-Nhị ở nhà nghĩ lại mấy lời Đơn-Dương nói bà chẳng chịu lãnh học, nên không biết Đạo hay, trong lòng thường nhớ hằng lo. Nay thấy ông không có ở nhà, tớ bạn đều đi chơi hết, một mình đi đến mao-am, thấy thầy ngồi công phu, quì trước thưa rằng: Đệ-tử tâm tánh ngu mê, không rõ việc chí lý nên hai phen lầm lỗi, may nhờ sư huynh mở dạy mới biết mấy lời trước của thầy nói đạo, tự hối chẳng kịp. Xin thầy miễn chấp, chỉ dạy cho tôi, thiệt dường ơn tái tạo.
Trùng-Dương nói:
- Thôi trò đứng dậy, ta nói cho trò nghe.
Vì Đạo có ba bực, phải lượng theo sức mình mà tu. Phàm người học Đạo, chẳng kể việc sống thác, mới đặng làm người không chết. Bực thượng thừa là chỗ đạo hư vô mảy tơ chẳng dính, một trần chẳng nhiễm, như trăng tỏ vọi-vọi, muôn dặm không may. Duy có một điểm linh căn mới đoạt đặng tạo-hóa của Trời Đất. Phải biết việc chánh lý của âm dương, dụng phép mà luyện theo đó, lấy chỗ có mà qui về chỗ không, chỗ không mà sanh ra chỗ có, mới đặng cùng Trời Đất đồng bền, cùng nhựt nguyệt đồng tu, đó là đạo thượng-phẩm Thiên-Tiên!
Còn tu trung thừa là giữ lòng thành trai giới, bái Phật tụng kinh, một lòng theo thiệt, muôn niệm đều thanh, trên cảm Phật Trời, muôn linh xem xét, một điểm chơn linh chẳng muội. Đến lúc liễu đạo biết chỗ xuất thần, về tới hư không thì sánh bực Tiên ban chẳng mất. Còn tu bực hạ thừa, ban đầu tích công làm việc phương tiện giúp người lợi vật, bồi thêm việc lành, thường tưởng xét việc lầm lỗi, tánh chơn chẳng mất, thì linh-quang mới đặng hiển thông. Hoặc ẩn hoặc hiện như Tiên không khác, đó là bực hạ thừa. Trò có chí muốn học bực nào tôi sẽ dạy cho chơn khuyết?
Tôn-Bất-Nhị thưa:
- Đệ tử muốn học thượng thừa Thiên-Tiên. Trùng-Dương cười rằng:
- Như vậy thì trò chí đặng lớn. Tôn-Bất-Nhị thưa rằng:
- Tôi lòng chẳng đặng lớn mà chí rất kiên bền, dẫu thân nầy có chết, chí tôi không mất đặng.
Trùng-Dương nghe qua biết người căn lớn, nói rằng:
- Phàm người ra tu học Đạo thì phải tìm chỗ sơn-xuyên linh khí, chọn chỗ địa lợi mà ở an. Nay ở xứ Đông-Độ, huyện Lạc-Dương linh khí đương thạnh chắc là có ra mấy vị Chơn Tiên. Như đến xứ đó tu chừng 12 năm, sẽ đặng thành đạo. Trò dám đi hay không? Tôn-Bất-Nhị thưa rằng:
- Đệ tử nguyện chịu đi. Trùng-Dương ngó Tôn-Bất-Nhị rồi lắc đầu nói:
- Chắc đi không đặng! Tôn-Bất-Nhị thưa:
- Đệ tử bỏ chết quên sống, không sợ việc sanh tử, sao mà đi không đặng? Tiên-sanh nói:
- Chết có ích thì nên chết, lợi người lợi vật cũng đáng, bằng chết không ích thì uổng cho tánh mạng. Từ đây đến Lạc-Dương xa hơn ngàn dặm, trên đường nhiều người phong-lưu lãng-tử, đứa hung chẳng ít, bằng nó thấy trò hình dung còn niên thiếu, sợ nó động tâm. Việc nhỏ thì cuồng ngôn ghẹo chọc, việc lớn thì hãm hiếp thất thân. Trò là người trinh liệt, nào chịu để cho nó làm nhơ, thà chết mà trọn tiết, trò muốn cầu trường sanh lại trở bị táng mạng, nên tôi chắc đi không đặng!
Tôn-Bất-Nhị nghe thầy nói, thầm nghĩ hồi lâu cũng chẳng chối từ, liền ra mao-am xông vào nhà bếp, biểu mấy người nấu ăn đi ra, rồi bà nhen lửa bắt chảo lấy dầu đổ vô chụm sôi, tay bưng chén nước đổ vào, dầu sôi gặp nước phừng lên, liền úp mặt vào bị dầu phỏng hết. Tôn-Bất-Nhị cam chịu đau khổ, vì mình muốn đổi sắc cho xấu, chớ hề than thở. Liền ra thưa thầy rằng:
- Đệ tử nay đi đặng không? Trùng-Dương thấy vậy vỗ tay cười rằng:
- Lành thay! Lành thay! Trong thế gian nào ai có chí lớn như vầy; thiệt không uổng công ta đến đây mấy phen.
Ông nói rồi đem việc âm dương diệu lý, tạo-hóa huyền-cơ công phu, luyện âm thành dương, siêu phàm nhập thánh, truyền hết cho Tôn-Bất-Nhị. Ông truyền rồi nói rằng:
- Người tu Đại-Đạo phải giả như kẻ chẳng biết chẳng hay, cũng như người phong điên, mới trốn đặng con mắt thiên hạ, khiến người không biết mình công phu tu hành có Đạo. Đến chừng đạt công thành rồi mới khá hiện thân thuyết pháp. Trò đợi trên mặt lành rồi, mau qua Lạc-Dương mà tu, cũng đừng lạy từ ta, đợi trò công viên quả mãn lên hội Bàn-Đào sẽ gặp. Ông liền ngồi tịnh nữa.
Tôn-Bất-Nhị lạy thầy tạ ơn, mau ra khỏi mao-am, gặp mấy người tớ gái thấy mặt bà phỏng hết, đều hỏi duyên cớ sao vậy? Bà đáp rằng:
- Muốn chiên bánh cho thầy ăn, sợ tay bây chẳng sạch, nên biểu bây ra ngoài chơi cho tao chiên, rủi tay nước đổ nhằm dầu, phừng vô mặt tránh không kịp nên phỏng như vậy. Cũng tại cái tai nạn của tao, không hề chi, thôi bây đi làm công chuyện.
Bà nói rồi liền vô phòng đóng cửa. Xét tưởng việc công phu của thầy truyền, làm theo khẩu khuyết, thiệt chỗ huyền diệu. Cách hai bữa sau, Mã-Đơn-Dương về, mấy đứa tớ đem việc dầu sôi phỏng mặt bà nói cho ông hay. Đơn-Dương nghe nói than thở, rồi thẳng trước mao-am thưa cho thầy hay. Chẳng ngờ Trùng-Dương tiên-sanh hay trước. Đơn-Dương lật đật vào phòng bà, thấy mặt phỏng hỏi rằng:
- Tại sao bà làm mặt như thế? Đạo hữu sao không coi chừng để dầu phỏng như vậy? Nói chưa dứt lời, Tôn-Bất-Nhị trợn mắt ngó ông Đơn-Dương cười hoài không nghỉ, chạy lại nắm tay ông nói rằng:
- Mầy phải đồng nhi của Tây-Vương-Mẫu không? Tao với mầy đi lên Thiên Cung! Mau mau! Nói rồi nhảy lên ghế giữa, tay bơi chơn nhảy hụt chơn té xuống, rên la chẳng xiết.
Mã-Đơn-Dương lật đật đỡ dậy nửa cười nửa khóc, phần thấy hình dung của bà như vậy trong lòng rất thương xót, chạy qua am thầy thưa rằng:
- Tôn-đạo hữu tưởng thành Tiên đặng, nay phát bịnh phong điên rồi! Tiên-sanh nói:
- Chẳng phong điên, chẳng thành Tiên.
Đơn-Dương muốn hỏi nữa, thấy thầy ngồi tịnh làm thinh, nên không dám hỏi. Liền trở ra trước nhà, buồn bực chẳng an. Tôn-Bất-Nhị lại thấy Đơn-Dương sao còn ở đó nên là một hồi, cứ kêu:
- Phong điên! Phong điên!
Làm như vậy cho ông đi ra đặng bà thanh tịnh cho dễ, bà luyện cho đến tánh thể viên minh, thiệt hay vô cùng, trong lòng càng sáng-láng, mới biết là đạo chí huyền chí diệu. Bà lại lấy kiếng soi coi thấy mặt phỏng đã lành, chỗ đỏ chỗ đen, rất vui mừng khỏi lo ai chọc, chắc là giữ đặng thỉ chung.
Cách hơn một tháng bà cũng không tắm gội rửa ráy, tóc bỏ rối nùi, hình giống như ma, mặt mày tợ quỉ, nào ai mà biết bà là bà viên-ngoại! Chừng trong lòng vững vàng, chắc là chỗ Lạc Dương đặng tới. Rồi bà lại đem quần áo xé rách, buộc nhíu từ đùm, lấy lọ bôi trên mặt, la nói dữ-dằn, chạy ra trước cửa la lối om-sòm, kinh động mấy đầy tớ đều chạy ra ngoài. Chúng nó thấy vậy muốn lại kéo bà, rồi bà tay đánh miệng cắn, có một đứa thương bà nắm hoài không buông, bà cắn trên mặt nó một miếng, thất kinh buông ra, bà chạy khỏi. Bọn tớ thấy bà làm hung không dám theo nữa, chạy báo cho ông Đơn-Dương hay. Đơn-Dương lúc ấy đương ngồi công phu, xảy nghe ngoài kêu vang lật đật ra coi. Đứa tớ bảo rằng:
- Bà nay trở bịnh phong điên nhiều quá, chạy ra ngoài rồi.
Đơn-Dương nghe nói sợ e có hại, liền sai gia nhơn chạy theo, ông cũng chạy theo, lại thấy Tôn-Bất-Nhị chạy thẳng ra xóm, mấy người trong xóm chạy ra nhìn không biết bà là ai, nên bà chạy khỏi một đỗi ngó lại thấy người ta chạy theo, chắc trốn không khỏi; thời may có đống cỏ khô, chun vào mà trốn. Mã-Đơn-Dương cùng gia-nhơn theo hồi lâu không biết bà chạy ngõ nào nên đều trở lại. Tôn-Bất-Nhị dòm thấy mấy người đi xa, bà lén chun ra, rồi nhắm ngay hướng Đông mà đi. Ban ngày kiếm xóm xin ăn, ban đêm kiếm chùa an nghỉ. Gặp chỗ vắng-vẻ không người, thì bà núp bóng cây nghỉ mát, có gặp ai hỏi thăm thì bà nói việc trên trời dưới đất, không nhằm chi hết; hoặc cười hoặc khóc, ai cũng tưởng là người phong điên, bỏ qua không hỏi, nhờ vậy mà đi đường đặng bình an, khỏi ai chọc ghẹo.
Bà thấy người nào tử-tế mới dám hỏi thăm đường đi. Cách hơn 2 tháng, tới huyện Lạc-Dương.
Thật là:
Một xuồng lá nhỏ du biển lớn,
Muôn trượng sóng dồi chẳng sợ kinh.