Nghĩa là:
Mã viên ngoại cầu dưng lễ nuôi thầy,
Vương-Trùng-Dương sửa sang tiền hộ đạo.
Có bài kệ rằng:
Tiên Phật Thánh Hiền bởi tại tâm,
Nào tua đất lấp lại thành câm (kim vàng).
Người đời nhang khói cầu xin vái,
Cười chết từ bi Quan-Thế-Âm.
Bốn câu nói việc thành Tiên Phật Thánh Hiền cũng tại lòng người làm ra. Như lòng ngay thì mình cũng ngay, làm việc gì cũng thảy đều ngay. Còn lòng tà thì mình cũng tà, làm việc gì cũng thảy đều tà vậy. Nên người tu hành trước phải sửa lòng, sau thành cái ý: hễ lòng không chánh thì ý không thành, ý chẳng thành thì vọng niệm khởi ra trăm việc, phải mất chỗ đạo chơn. Cổ nhơn có bài kệ rằng:
Vọng niệm nhứt sanh thần tức thuyên,
Thần thuyên lục tặc loạn tâm điền.
Tâm điền nhứt loạn thân vô chủ,
Lục đạo luân hồi tại nhãn tiền.
Nghĩa là:
Hễ vọng niệm sanh ra thì thần dời ra ngoài rồi,
Thần ý dời thì sáu giặc rối loạn khiến tâm điền không tịnh.
Nếu tâm điền rối loạn thì thân này không có người làm chủ,
Vì vậy, sáu đường luân hồi ở tại trước mắt chẳng xa.
Có bài kệ rằng:
Lục đạo luân hồi, thuyết bất khoan,
Súc sanh, ngạ quỷ, khổ thiên ban.
Khuyên quân vật khởi vọng tham niệm,
Nhứt thất nhơn thân vạn kiếp nan.
Nghĩa là: Sáu đường luân hồi nói không hết như người chẳng tỉnh xét, có ngày bị đọa vào trong chỗ súc sanh quỉ đói phải khổ sở ngàn việc, nên khuyên người đừng khởi việc tham tưởng lầm sai. Hễ làm mất cái thân này muôn kiếp khó trở lại đặng. Muốn ra khỏi chỗ luân hồi thì kiếp này phải tu mới hết việc khổ.
Vì Tiên Phật Thánh Hiền cũng tại cái tâm, tâm phải chánh ý phải thành. Như tâm ý chánh thành để làm cốt Phật, nhang đèn cúng lạy, son vàng tô phết đó là vọng cầu. Nên nói: “Cười chết từ bi Quan-Thế-Âm” là cười người không có lòng chánh thành, lo sửa mình để vọng cầu việc giả. Lại nói ra tu lấy chỗ nhang đèn cúng vái mà cầu cho thành Tiên thành Phật, tánh Phật chỗ nào? Nên nực cười cho người lầm sai mà không cải sửa.
Có câu: “Bất vị tế hưởng nhi giáng phước; bất vị thất lễ nhi giáng họa”. Nghĩa là: “Chẳng vì cúng tế mà cho phước; chẳng vì thất lễ mà giáng họa”. Trời Phật Thánh Thần trọng là trọng người chí thành cung kỉnh, tự hối ăn năn biết sợ nhà tối có Thần không dám làm quấy thì Ngài thương lắm, kỉnh lắm. Người ấy dẫu không cầu Ngài cũng cho phước lộc. Còn Ngài ghét kẻ bất trung, bất hiếu, bất nghĩa, bất lương, ý độc hại người, lòng lang ở bạc. Những người như vậy dầu cho nhang đèn cúng lạy thế nào, Ngài không dung đặng.
Bởi Ngài dặn làm phước chớ đừng cầu phước, tự nhiên họa dứt phước thêm, chớ Ngài có tư vị, hay là thương ghét ai bao giờ? Có câu “Hoạch tội ư Thiên vô sở đảo giả”. Nghĩa là: “Mắc tội nơi trời thì không còn chỗ cầu vậy”, như thế thì có ai biết mà tránh chăng?
Đây việc khuyên tỉnh đã nói rồi, lại nói qua Mã-Đơn-Dương nghe người xách bầu thiếc đến, lật đật ra tiếp rước, thỉnh vào nói chuyện. Ông già đi theo viên-ngoại vào ngồi tại ghế giữa lấy lời khẳng khái mà hỏi:
- Vậy kêu ta cầu hỏi việc chi? Viên-ngoại đáp:
- Tôi thấy ông già cả tuổi tác hằng ngày xin ăn lao khổ, muốn cầm lại đây nuôi ông, chẳng biết ông chịu hay không? Nói chưa dứt lời, ông già giận nói:
- Ta thiệt xin ăn quen rồi, chẳng chịu ăn những không công cực lộc của ai.
Viên-ngoại thấy ông giận chẳng dám nói nữa, liền vô nói với bà rằng:
- Ông xách bầu thiếc tôi thỉnh vô nhà nói việc nuôi dưỡng, ông nói chẳng chịu ăn những vô công thi thực, nên tôi hỏi bà tính làm sao? Bà cười rằng:
- Ông nói chẳng nhằm việc, nên người không chịu. Chẳng nghe sách có nói: “Quân tử mưu đạo bất mưu thực, tiểu nhơn mưu thực bất mưu đạo”. Nghĩa là: “Người quân tử ham đạo chẳng lo ăn, còn tiểu nhơn ham ăn chẳng lo đạo”. Ông mới thấy mặt lại kể việc nuôi dưỡng, lấy chỗ ăn uống mà dụ, quân tử nào kể việc ăn uống, cầu chỗ Đạo thì hơn. Tại ông nói thất lời, để tôi ra phân giải chắc ông an lòng chịu ở.
Có bài kệ rằng:
Không phải tiên-sanh chẳng chịu cầu,
Vì lời nói biện chẳng nhằm câu,
Huyên-Trinh ra giảng thông quyền biến,
Chắc định ông già phải gật đầu.
Rồi đó Huyên-Trinh đến nhà trước, thấy ông già chắp tay xá nói rằng:
- Ông đặng muôn phước? Ông già cười rằng:
- Ta là người tu hành nào có đặng phước! Huyên-Trinh rằng:
- Ông chẳng lo việc quấy, muôn sự đều không, tiêu diêu thong thả, chẳng tính chẳng sầu, đặng chỗ cao thấp tự lòng, chẳng phải là phước sao? Tôi coi trong trần này biết bao nhiêu nhà giàu sang danh lợi mà trọn ngày nhọc lòng lo tưởng, thương vợ mến con không dứt. Tuy nói có phước mà xét lại chưa đặng thong thả, duy có cam cái danh lợi giả dối mà thôi nào phải như ông chẳng nhiễm việc trần, đặng hưởng chỗ không tâm, như vậy thật là Thần Tiên tại thế. Ông già nghe nói cười lớn rằng:
- Cô đã biết sự tiêu diêu tự toại là phước, thanh tịnh vô vi là vui, mà sao chẳng học tiêu diêu tự toại? Chẳng tìm thanh tịnh không không? Huyên-Trinh rằng
- Tôi chẳng phải không học, vì chưa đặng chỗ pháp, tuy muốn tiêu diêu mà chẳng đặng tiêu diêu, muốn thanh tịnh mà chưa đặng thanh tịnh đó thôi. Ông già rằng:
- Như cô chịu học thì tôi chẳng tiếc công. Huyên-Trinh nói:
- Như ông vui lòng từ bi dạy tôi, nhà tôi ở huê viên có cái “Kiểu-Nguyệt-Đình” thiệt là thanh tịnh, thỉnh ông đến ở đó, bạn tôi mới đặng cầu học hỏi. Ông già liền gật đầu thuận ý.
Có bài kệ rằng:
Làm biện nhằm câu biết cổ kim,
Tiên-sanh nay đặng hội tri-âm,
Tri-âm nói biện tri-âm tỏ,
Đây đó nguyên là một giống tâm.
Ông già nghe bà Huyên-Trinh nói nhằm đạo lý, trong lòng vui mừng liền chịu ở dạy. Mã viên-ngoại nghe nói lại kêu gia tướng dọn dẹp sau huê viên chỗ “Kiểu-Nguyệt-Đình” sạch sẽ thỉnh ông vào đó an nghỉ, lại trí một người gia đồng là Trần Khuê hằng ngày đem trà dưng nước. Viên-ngoại nói cùng bà rằng: Bạn mình nói chuyện với ông hơn nữa ngày mà chưa biết ông tên họ chi, để tôi hỏi coi. Huyên-Trinh rằng: Sách có câu “Đại ân bất tạ, đại đức bất danh”, nghĩa là ơn lớn chẳng tạ, người đức lớn chẳng tên làm chi; thôi kêu lão Tiên-sanh cũng đặng. Viên-ngoại chẳng nghe cứ muốn hỏi, bà can không đặng phải để ông đi.
Viên-ngoại đến “Kiểu-Nguyệt-Đình” thấy ông ngồi tịnh trên ghế. Viên-ngoại tới trước hỏi rằng:
- Xin hỏi ông cao tánh đại danh, nhà ở chỗ nào? Vì sao mà đến đây? Hỏi luôn mấy lần thấy ông ngó lên nói rằng: Ta là Vương-Trùng-Dương nhà ở tại Xiểm-Tây, ngàn dặm chẳng từ khó nhọc vì ngươi mà đến đây.
Mã viên-ngoại nghe nói giựt mình nói rằng:
- Tiên-sanh vì tôi mà đến đây? Ông vổ tay cười rằng:
- Thiệt, vì ngươi mới đến đây. Viên-ngoại lại hỏi:
- Như Tiên-sanh vì tôi mà đến, ắt cũng có duyên cớ chi! Trùng-Dương rằng:
- Ta đến đây vì cái vạn quán gia tài của ngươi mà đến. Viên-ngoại nghe nói nửa cười nửa lo hỏi rằng:
- Ông vì vạn quán gia tài của tôi mà ông muốn lấy hay sao? Trùng-Dương nói:
- Nếu tôi không muốn thì tới làm chi!
Viên-ngoại nghe nói mặt tái xanh, trở ra đi liền.
Có bài kệ rằng:
Tiên-sanh lời nói chọc người kỉnh,
Trên thế chưa nghe những sự tình,
Muốn lấy gia tài không chỗ cớ,
Lẽ trong đạo lý thiệt chưa minh.
Khi đó viên-ngoại ra khỏi Kiểu-Nguyệt-Đình tính thầm trong bụng rằng:
- Ông này thiệt chưa hiểu mối việc, khi không mà muốn lấy gia tài của ta! Dám mở miệng như vậy! Con nít cũng chẳng dám nói lời đó, đường ấy mà làm sao có đạo đức kìa!
Chừng về phòng ngồi nghĩ, trong lòng buồn bực chẳng vui. Huyên-Trinh thấy viên-ngoại biến sắc, biết là bị ông già nói việc chi chẳng vui, liền cười nói rằng:
- Tôi đã nói trước, biểu đừng đi hỏi cũng không nghe, chắc ông bị điều chi chẳng vừa ý chăng? Hễ người quân tử phải có lượng lớn, dung người chế người, việc chi chẳng hiệp ý, xin đừng trách phiền, chớ học theo chí mọn chấp nhứt. Viên-ngoại nghe bà nói mấy câu trong lòng mở giải, nói rằng:
- Tôi tưởng đâu ông già là người có đạo đức, ai dè ông thiệt người tham tài! Bà hỏi:
- Sao mà biết tham tài? Viên ngoại đem việc của ông thuật cho bà nghe:
- Nói muốn lấy gia tài của ta mới đến đây ! Bà nói:
- Tiên-sanh nói muốn lấy gia tài của mình, chắc có duyên cớ chi, sao ông không hỏi cho minh bạch. Tôi thấy trong sách có câu: “Thiên niên điền địa bát bá chủ”, nghĩa là “Ruộng đất ngàn năm thay đổi chủ có hơn tám trăm người”. Trong đời tài sản thiệt là đồ chí công của Trời Đất, chẳng qua là cho người mượn mà xài chung. Như người biết xài thì hưởng đặng ít chục năm, hoặc mấy đời. Sao gọi là biết xài? Như người có của mà biết xài là biết thi ân bố đức, giúp kẻ nghèo nàn, mua vật phóng sanh, tu kiều bồi lộ, chôn thây trôi nổi, làm các điều lành, chớ đừng cam một mình, gọi là xài chung một vốn.
Còn người không biết xài thì cũng như mưa dập bông tàn, gió thổi mây tan, hễ đến tay người này, thì liền trao cho người khác, hoặc không cần kiệm, xài phí, cờ bạc, rượu chè, cam để cho nhiều, làm điều trái lẽ. Hoặc cho vay ăn lời nặng mà tổn đức bình sanh. Như vậy làm sao mà hưởng đặng bền? Nên của ấy phải đổi dời. Đó là chỗ chí công của Trời Đất, luân phiên xoay trở không ngừng, nghèo đó rồi giàu, thạnh đó lại suy, nào có đặng làm chủ ngàn năm bao giờ? Vậy xin ông thức tỉnh.
Có bài kệ rằng:
Vạn quán gia tài chớ đủ khoe,
Ai mà giữ đặng trọn không dè,
Tài ba thiên hạ đồ công vật,
Há được ngàn năm được chở che.
Khi đó bà Huyên-Trinh khuyên chồng rằng: Tiên-sanh như muốn lấy cái gia tài của mình, ắt có duyên cớ. Như hỏi ông nói đặng hiệp lý, mình nên dưng cho ông, huống là bạn mình không con cháu, gia tài này ngày sau chưa biết về tay ai. Nói chưa dứt lời viên-ngoại cười rằng: Bà nói đâu việc dễ lắm! Ông bà tôi từ Xiểm-Tây dời qua đến đây, chịu hết thiên tân vạn khổ mới đặng sự nghiệp này. Dẫu ta chẳng muốn nữa cũng chẳng dám đem sự khó nhọc của ông bà mà đưa cho người khác. Huống nay bạn mình tuổi mới nửa đời, như đem gia tài cho người rồi, mình còn nửa đời sau lấy chi cho qua ngày tháng, há chẳng lầm việc lớn đó sao?
Bà Huyên-Trinh nói: Uổng cho ông là người chí trượng phu mà việc không tỏ thấy. Bạn mình đem gia tài giao cho tiên-sanh là muốn cầu cái đạo trường sanh, cứu đặng cửu-huyền thất-tổ. Bằng như đặng thông việc đạo thì ta thành Thần Tiên, còn giữ cái gia tài này làm gì? Sách có nói: Một người con tu thành Tiên Phật thì cửu huyền đặng bạt tộc siêu thăng. Như vậy đâu có lỗi với ông bà. Coi lại cái đạo siêu hết tông môn mà sánh chẳng bằng vạn quán gia tài này sao?
Có bài kệ rằng:
Của tiền vàng bạc có hằng hà,
Nào gặp đạo huyền đáng giá đa,
Của báu tuy nhiều sau cũng hết,
Đạo công muôn thuở chẳng tiêu ma.
Viên-ngoại nghe bà giảng rồi nói rằng: Lời của bà chẳng phải không tốt, bằng như chẳng thành Thần Tiên, lời tục có nói: “Vẽ cọp chẳng thành trở lại giống chó” rồi làm sao? Bà nói:
- Làm người phải có hằng tâm, như không có hằng tâm thì cũng chẳng khá làm đặng thầy bói, thầy thuốc, huống là học Thần Tiên. Như người có chí thì việc ắt thành, không chí thì ngày sau chẳng nên. Tại mình bền cùng chẳng bền. Sách có nói: Thần Tiên vốn thiệt người phàm tâm, chỉ sợ người lòng chẳng chuyên. Bởi tại người chuyên lòng chuyên chí phàm làm tới, có cầu chắc đặng. Có câu: Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu, là lẽ thường. Xưa nay Thần Tiên ông nào cũng nhờ thân phàm mà tu thành, nào có sanh ra tự nhiên không học mà đặng biết bao giờ? Viên-ngoại nghe bà nói, gật đầu trả lời:
- Phải lắm! Phải lắm !
Đến bữa sau, viên-ngoại tới Kiểu-Nguyệt-Đình hỏi Vương Trùng-Dương rằng: Bữa trước tiên-sanh nói muốn lấy gia tài của tôi, chẳng biết tiên-sanh muốn lấy đặng làm việc chi? Trùng-Dương tiên-sanh lấy lời ngay nói rằng: Ý tôi muốn tiền đặng chiêu trong thiên hạ, những người tu hành học đạo ở tại đây đặng lập một cái đạo trường, cho kẻ tu hành biện đạo, tu tâm dưỡng tánh, có chỗ hộ đạo, trong ngoài không chỗ lụy; dứt đường ràng buộc thảy đặng vui mừng hoan hỉ, thoát nẻo luân hồi, và làm công đức giùm cho ông.
Tiên-sanh đem việc chơn thành tỏ cho Mã viên-ngoại nghe, chừng ấy viên-ngoại mới đem lòng vui phục.
Làm đặng việc xá mình theo người mới là siêu phàm nhập Thánh.