Trong khi Lý Bá đi triệu thỉnh vị đạo sĩ ở núi Trúc Bảo chưa về, thì kinh đô dân chúng đều nhôn nhao bàn tán về tin đồn một vị thánh nhân vừa xuất thế. Nhiều điềm lạ làm cho mọi người đều chú ý: trên vỏ nhiều trái cây như ổi, xoài, bầu bí, đều hiện rõ mấy chữ: "Mừng thánh nhân ra đời". Ngay đầu những con cá lóc người ta mua ở chợ mang về làm thịt, cũng có thấy hiện mấy chữ ấy. Trong triều, từ vua đến quan lớn quan nhỏ, đều chăm chú theo dõi những hiện tượng trên với một tâm trạng khắc khoải chờ mong.
Trong khi ấy bà thứ phi Hoàng Hoa trong Tây cung càng điên thêm và đập phá thêm đồ đạc.
Một tuần sau, có tin Lý Bá đã triệu thỉnh được đạo sĩ ấy về đến triều đình. Từ sáng sớm hôm ấy, chợ không nhóm, dân chúng nghỉ việc để đứng hai bên đường đợi xem đám rước đạo sĩ mà ai cũng nghĩ rằng đó là thánh nhân. Trong triều vua quan cũng sốt ruột ngồi chờ đón đạo sĩ.
Ðến gần trưa, đám rước mới xuất hiện ở cửa Tây cung hoàng thành. Thực là một quang cảnh kỳ lạ mà dân chúng kinh đô chưa từng thấy trong các đám rước.
Ði đầu là một đàn khỉ mặc áo xanh quần đỏ, bịt khăn chữ nhất, mỗi con dẫn một người, hai tay bị trói và cổ bị xiềng trong một cái gông lớn; một sợi dây xích một đầu buộc vào gông và đầu kia bọn khỉ nắm, dẫn đi.
Tiếp theo là một bọn đàn bà mặc đồ võ, nai nịt gọn ghẽ, gươm giáo sáng ngời, lông mày vẽ lưỡi mác xếch ngược lên thấu đỉnh trán và có râu mép. Mỗi người cỡi một con thú dữ, như cọp, beo, sư tử, gấu, nhiều nhất là gấu, và tuyệt nhiên không có một con hươu nai, trâu ngựa ... Nhưng con thú dữ nào cũng trông vẻ mặt hiền lành, ngoan ngoãn hơn ngựa trâu.
Rồi đến những chàng thư sinh gầy ốm, đầu chít khăn vành, mặc yếm trên ngực mỗi người đều mang nhiều huy chương và một cái bảng lớn với hai chữ "võ tướng" mạ vàng.
Sau cùng là kiệu của đạo sĩ Lý Mậu do tám bà gánh; những người theo hầu hai bên kiệu, người đội khay trầu, kẻ đội tráp thuốc, kẻ phất quạt lông, kẻ che lọng, đều là phái nữ. Lẫn trong đám nữ tỳ ấy, chỉ có độc một mình đại thần Lý Bá là đàn ông. Ngài đi thụt lùi trước kiệu, cứ mỗi bước lại vái một cái. Ðạo sĩ ngồi trên kiệu hoa, dáng điệu rất uy nghi, đầu chít khăn điều, mặc áo trắng sọc xanh, mang một chiếc hia vàng, một chiếc hia đen, một chân đạp lên hình mặt trăng, một chân đạo lên hình mặt trời, ở giữa hai bàn chân là hình âm dương. Ngài nhắm lim dim đôi mắt, miệng lâm râm niệm chú, một tay bắt ấn, một tay nắm một vòng tròn mà người ta thì thầm bảo nhau đó là "tấm kính chiếu nguyên hình", mặc dù không trông thấy kính gì cả. Ngài đang lim dim bỗng mở to đôi mắt nhìn hai bên đường, thấy dân chúng há miệng ngơ ngác nhìn mình, liền tỏ vẻ khó chịu, vẫy tay gọi một bà đến thì thầm mấy tiếng. Bà này hốt hoảng chạy đến bên Lý Bá, cũng thì thầm mấy tiếng. Lý Bá như sực nhớ điều gì, nhìn dân chúng hai bên đường, nói có vẻ gắt:
- Thánh nhân xuất hiện, sao không hoan hô mà đứng ngây ra nhìn thế?
Thế là những tiếng hoan hô "Chào mừng thánh nhân ra đời" vang dội hai bên đường và dân chúng sắp thành hàng ngũ đi hộ tống theo sau kiệu.
Ðám rước đi thẳng vào hoàng cung, dừng lại trước sân rồng và sắp thành hai hàng trước đền vua. Ðạo sĩ xuống kiệu, bước lên điện và cúi mình vái chào vua Ðột Quyết. Ngài ra hiệu cho đạo sĩ ngồi xuống ghế bên phía hữu mình. Sau những lời chào hỏi thường lệ, vua chỉ vào đám người tháp tùng, hỏi đạo sĩ:
- Trẫm cũng đã chứng kiến nhiều đám rước, nhưng chưa thấy đám rước nào lạ lùng như đám rước của đạo sĩ. Chẳng hay những hình thức và phục sức của những người trong đám rước có một ý nghĩa gì chăng?
Ðạo sĩ trả lời rất tinh:
- Tâu Hoàng Thượng, bần đạo chẳng thấy gì là lạ lùng cả. Có lẽ Hoàng Thượng chỉ quen nhìn bề ngoài của cuộc đời, của sự vật, nên thấy cái lối sắp đặt và trang phục đoàn tùy tùng của bần đạo có vẻ khác thường. Nhưng nếu Hoàng Thượng có dịp nhìn được bản chất bên trong của cuộc đời, của sự sống hiện tại thì Hoàng Thượng sẽ thấy hiện tượng của đoàn tùy tùng là phản ảnh trung thực bề trong của sự vật, và khi ấy Hoàng Thượng sẽ không cho là lạ lùng lỳ dị nữa.
Vua Ðột Quyết tò mò hỏi tiếp:
- Làm sao có thể thấy được bề trong của cuộc đời và sự vật.
- Tâu, đó là kết quả của công phu tu luyện của bần đạo trên ba mươi năm trời tại núi Bảo Trúc.
Vua tỏ vẻ nghi ngờ:
- Nhưng thấy như vậy có đúng không?
Chỉ một mình khanh thấy thì làm sao có thể bảo đảm được đó là sự thật?
Ðạo sĩ Lý Mậu nhìn vua, mỉm cười có vẻ bí mật và nói:
- Tâu, nếu Hoàng Thượng muốn thì bần đạo sẽ làm cho Hoàng Thượng thấy rõ sự thật ấy.
Vua vội vã hỏi:
- Làm sao thấy được? Khanh làm thế nào cho trẫm thấy đi.
- Hoàng Thượng sẽ được toại nguyện.
- Nói xong, đạo sĩ bắt ấn, niệm chú, rồi nâng tấm "kính chiếu nguyên hình" lên. Ðạo sĩ đưa trước mặt vua Ðột Quyết rồi nói nhỏ bên tai vua:
Hoàng Thượng hãy nhìn một lượt tất cả bá quan văn võ trong triều qua tấm kính này rồi sẽ hiểu ngay ý nghĩa của đoàn khỉ dẫn người trong đám rước của bần đạo.
Vua nhìn vào tấm kính và đạo sĩ Lý Mậu từ từ đưa tấm kính từ phía hữu sang phía tả, trước mặt triều thần. Vua nhìn xong, ngẩn ngơ một lúc rồi hỏi đạo sĩ:
- Thế ra họ có ít nhân tánh đến thế sao?
- Tâu, họ có xu hướng trở về với thủy tổ loài người.
Vua lại hỏi:
- Còn đàn bà lại có râu và cỡi thú dữ thế là nghĩa làm sao?
- Tâu, Hoàng Thượng hãy soi tấm kính này vào các cung phi mỹ nữ đứng hầu sau lưng Hoàng Thượng thì sẽ hiểu ngay.
Vua lại xây lưng nhìn ra phía sau, qua tấm kính. Nhìn xong, ngài thất sắc, hỏi đạo sĩ:
- Âm thịnh đến thế sao?
Ðạo sĩ trả lời, có vẻ hóm hỉnh:
- Bần đạo tưởng rằng Hoàng Thượng cũng đã nhận thấy điều ấy từ lâu ...
Vua có vẻ áy náy khó chịu về câu trả lời có vẻ phạm thượng của đạo sĩ. Ngài trả tấm kính lại cho Lý Mậu. Ðạo sĩ hỏi:
- Hoàng Thượng không muốn nhìn thêm sự thật nữa chăng?
- Không! Nhìn thêm trẫm sẽ không còn thấy hứng thú làm vua, trị vì thiên hạ nữa.
Ðạo sĩ lấy tấm kính bỏ vào đãy rồi tâu:
- Tâu Hoàng Thượng, chẳng hay Hoàng Thượng cho vời bần đạo đến đây có dụng ý gì, xin cho bần đạo được tường.
- Trẫm muốn đạo sĩ dùng phép thuật của mình để chữa trị cho thứ phi đang mắc bịnh loạn trí, có lẽ thứ phi bị ma quỷ hành.
Lý Bá nãy giờ đứng im lặng bên cạnh đạo sĩ, tiến ra tâu:
- Tâu Hoàng Thượng, đạo sĩ từ núi Bảo Trúc về đây, đường sá xa xôi cách trở, đã đi liên tiếp trong mấy ngày, thật là vất vả. Nay về đến triều, xin để đạo sĩ được ngơi nghỉ vài hôm cho khỏe khoắn trong người, rồi hãy chữa trị. Thần sẽ xin cán đáng mọi việc ăn ở, nghỉ ngơi của đạo sĩ và đoàn tùy tùng cho được chu đáo.
Vua bằng lòng giao phó mọi việc tiếp đãi đạo sĩ cho Lý Bá đảm trách và truyền cho đạo sĩ được nghỉ ngơi vài hôm trước khi vào cung chữa bịnh cho thứ phi Hoàng Hoa.
Không hiểu nhờ pháp thuật cao cường như thế nào, mà hai hôm sau, khi đạo sĩ và nhà vua đi đến Tây cung, thì thứ phi Hoàng Hoa tỏ ra vô cùng ngoan ngoãn và lễ độ. Nàng đã cúi xuống lạy vua và đạo sĩ, và xin ăn năn hối cải lỗi lầm đã xúc phạm đến mình rồng.
Nhất là nàng tỏ ra vô cùng sợ hãi trước những lời phán bảo của đạo sĩ. Ðạo sĩ nói với thứ phi, nhưng nghe như nói với một người nào khác:
- Từ nay ngươi không đưọc làm loạn ở trong Tây cung, cũng như ở các cung điện khác nữa, nghe chưa!
Thứ phi ngoan ngoãn vâng dạ.Ðạo sĩ lại tiếp:
- Ta biết ngươi oan ức; nộ khí xung thiên, ngươi có thể đốt cháy tất cả hoàng thành cung điện này được. Nhưng từ nay đã có ta. Ta cấm ngươi hoành hành như vậy. Ngươi hãy bỏ ngay ý định ám hại Hoàng Thượng, khuấy phá các cung phi, nghe chưa?
Thứ phi vái lạy xin chừa.
- Ta sẽ tâu với Hoàng Thượng làm cho ngươi môt cái miếu ở sau hoàng cung, đêm ngày sẽ có người hương khói. Nhưng ngươi không được rời khỏi nơi ấy đi khuấy phá hoàng cung nữa, nghe chưa?
Thứ phi lại ngoan ngoãn vâng vâng dạ dạ.
Vua Ðột Quyết ngạc nhiên hỏi đạo sĩ:
- Khanh nói chuyện với ai vậy? Sao lại bảo là sẽ làm miếu thờ Thứ phi? Thứ phi còn sống sờ sờ đấy mà.
Ðại sĩ nói có vẻ bí mật:
- Hoàng Thượng hãy nhìn vào tấm kính chiếu nguyên hình này, tức sẽ biết bần đạo đang nói chuyện với ai. Người này chắc không xa lạ đối với Hoàng Thượng.
Vua nhìn vào tấm kính, bỗng giựt mình kinh hãi, sắc mặt tái xanh. Cũng trong lúc ấy, Thứ phi quằn quại than khóc. Vua nói giọng xúc động:
- Trẫm xin lỗi khanh. Trẫm ăn năn hối hận từ ngày ấy đến nay. Nhưng trẫm không biết làm thế nào để chuộc lại lỗi lầm. Người một khi đã chết rồi thì biết làm sao cho sống lại được? Nhưng chắc khanh cũng đã hiểu cho lòng trẫm, khi trẫm đã ra lệnh tha tội chết cho con khanh là Thạnh Bảo, và cho trở về làm dân dã. Một ngày kia, sau khi tội dấy loạn của Thạnh Bảo được nguôi quên trong lòng người, trẫm sẽ phục hồi chức tước cho nó. Từ nay, trẫm sẽ theo lời đạo sĩ truyền dựng cho ngươi một ngôi miếu thật lớn tại hoàng cung, và khắc một tấm bia, với những chữ vàng: "Thanh Phong Ðề Ðốc Ðại Thần".
Thứ phi Hoàng Hoa gục đầu lạy tạ vua.
Ðạo sĩ rút giải lụa đỏ trong đãy ra bắt ấn, niệm chú, rồi vừa rũ giải luạ nghe một tiếng "đét", vừa giậm chân nạt lớn: xuất"! Thứ phi bỗng té xuống, bất tỉnh và được bọn cung nữa dìu đặt lên giường. Trong khi ấy các bà đệ tử của đạo sĩ đốt đuốc chạy ra cửa, như đang đuổi theo một bóng ma qủy, vừa chạy vừa hò reo inh ỏi ... Họ đuổi bóng ma qủy ra đến tận bờ thành hoàng cung, và đóng xuống đấy một cái đinh sắt lớn.
Vua và đạo sĩ rời Tây cung trở về chánh điện. Trong khi đi giữa đường, vua đột ngột hỏi đạo sĩ:
- Ðạo sĩ có biết vì sao thứ phi Hoàng Hoa lại đập phá tất cả những đồ đạc, chén bát có khắc bài học ngàn vàng chăng?
- Tâu, Thứ phi đâu có đập phá? Ðó là quan Ðề Ðốc Thanh Phong đấy chứ!
- Tại sao Ðề Ðốc lại làm như vậy!
- Tâu, quan Ðề Ðốc oán bài học ngàn vàng. Chính vì bài học ấy mà ông ta chết.
Ðạo sĩ yên lặng một phút, rồi lại cất tiếng nói tiếp:
- ... Vả lại, bài học đâu có đáng giá gì mà trọng vọng quá thế?
Vua ngạc nhiên nhìn đạo sĩ, hỏi lại như không tin hai lỗ tai mình:
- Ðạo sĩ nói gì? Bài học không đáng giá gì cả à?
- Tâu, Hoàng Thượng tha tội cho tánh thẳng thắn của bần đạo, bần đạo mới dám nói hết ý nghĩ của bần đạo.
- Ðạo sĩ cứ nói đi!
Ðạo sĩ Lý Mậu do dự một chốc rồi chậm rãi nói:
- Tâu Hoàng Thượng, bài học mà Hoàng Thượng đã mua của Ông già với một giá quá đắt như vậy, thực ra chỉ để răn dạy kẻ thường dân vô học, bọn con nít thì được, chứ không xứng đáng để cho một vị đại vương như Hoàng Thượng dùng làm khuôn vàng thước ngọc, lại càng không xứng đáng được đem ra làm một quốc sách, được ghi khắc trên các đồ đạc vật dụng trong triều.
Vua Ðột Quyết bị chạm tự ái, hỏi gắt:
- Ðạo sĩ tu luyện theo môn phái nào? Ðạo sĩ có tin ở "luật nhân quả không?
- Tâu, bần đạo tu luyện theo phép tắc riêng của bần đạo, chứ không theo một môn phái sẵn có nào. Ðối với sức tu luyện của bần đạo, thì "luật nhân quả không có tác dụng gì nữa. Bần đạo có thể gieo giống này mà gặt quả khác. Bần đạo có thể biến nước thành lửa, hóa đá thành cơm, hô phong hoán vũ theo ý muốn.
- Trẫm có thể tin lời đạo sĩ được chăng?
- Tâu, Hoàng Thượng sẽ có dịp được thấy tận mắt những điều ấy.
Nói xong, Lý Mậu vái chào vua và trở về công quán cùng đoàn tùy tùng.