Hôm sau chúng tôi lên đường sớm.
Mưa tạnh. Trời xanh. Nhờ gió thổi ban đêm nên bùn đã ráo. Trong các bụi rậm bên đường, chim chóc ca hót vui tai. Mấy con chó nhảy nhót chung quanh chúng tôi. Thỉnh thoảng Lãnh-Nhi lại đứng hai chân quay về phía tôi kêu ăng ẳng hai ba tiếng, nó muốn bảo tôi:
- Can đảm lên! Can đảm lên!
Đó là một con chó rất khôn. Nó hiểu hết và làm cho người ta hiểu nó. Nó không nói được, nhưng tôi không nghĩ thế. Chỉ một cái đuôi, nó có thể biểu lộ ra bao nhiêu ý chí và hùng hồn hơn con mắt, cái lưỡi của người nhiều. Vì thế, lời nói trở nên vô ích giữa Lãnh-Nhi và tôi; ngay buổi đầu tiên, chúng tôi đã hiểu nhau rồi.
Từ bé đến giờ không bao giờ tôi ra khỏi làng, nên nói đến tỉnh tôi rất thích được đi xem.
Nhưng tôi phải thú thực rằng thị xã Ích-Sơn đã làm cho tôi mất hứng. Những ngôi nhà cổ kính có tháp, có lẽ chỉ bổ ích cho những nhà thích khảo cổ, không làm cho tôi vui mắt chút nào.
Tuy nhiên tôi vẫn nhìn kỹ những ngôi nhà đó, không phải là để xem cách kiến trúc, vẻ mỹ lệ mà chỉ để xem trong đó có một hiệu giầy nào chăng?
Đôi giầy của tôi, đôi giầy ông già đã hứa, bây giờ đến lúc được xỏ chân!
Cái ngôi hàng đáng quý ấy, ngôi hàng sắp cung cấp cho tôi đôi giầy mới không biết ở chỗ nào?
Tôi chỉ để mắt tìm ngôi hàng đó, còn ngoại giả, nào tháp, nào lầu, nào đài kỷ niệm, tôi chẳng thiết gì.
Vì thế mối ký ức độc nhất mà thành Ích-Sơn còn để lại cho tôi là cái cửa hàng tường ám khói, trông tối om, ở cạnh chợ. Mặt hàng có bày bán nhiều đồ cũ: súng gỉ, áo nhà binh thêu những lon vàng và những ngù vai tua bạc, rất nhiều đèn và một thúng đồ sắt cũ trong có vô số khóa hỏng. Phải bước xuống ba bậc nữa mới vào được trong hàng. Đó là một phòng lớn và thấp, có lẽ từ ngày cất nóc đến nay, mặt trời chưa ngó tới bao giờ.
Sao một vật quý giá như đôi giầy lại có thể bán trong cái hiệu ghê tởm này được?
Tuy nhiên, Vỹ-Tiên khi bước vào hiệu này đã biết rõ là phải được việc, nên một lúc sau tôi được cái diễm phúc là xỏ chân vào đôi giầy đế sắt nặng gấp mười lần đôi guốc của tôi.
Tính rộng rãi của thầy tôi đến đó chưa hết. Mua xong giầy, thầy tôi còn sắm cho tôi một cái áo vét nhung xanh, một cái quần len và một cái mũ phớt, tóm lại là đủ các thứ mà thầy tôi đã hứa.
Một kẻ xưa nay mặc toàn đồ vải, nay có áo nhung, xưa nay chỉ dùng guốc gỗ, nay có giầy đế sắt, xưa nay chỉ lấy tóc để đỡ nắng mưa, nay có mũ phớt, thực không ngờ đến. Thầy tôi thực là một người tử tế nhất trên đời, một người quảng đại nhất và giầu nhất.
Sự thực thì nhung đã sờn, sự thực thì len đã xác, cũng sự thực là khó mà phân biệt được màu sắc của một cái mũ phớt đã trải bao phong trần, nhưng lúc đó tôi thích quá thành ra lóa mắt không nhận thấy những khuyết điểm ở bộ đồ mới của tôi.
Tôi vội mặc quần áo mới. Nhưng trước khi trao quần áo cho tôi, thầy tôi đã chế hóa nó đi, làm cho tôi vừa kinh ngạc vừa đau lòng.
Thì ra khi về đến nhà trọ, thầy tôi đã lấy kéo trong đảy cắt cụt hai ống quần đến đầu gối.
Thấy tôi nhìn bằng đôi mắt kinh hãi, thầy tôi bảo:
- Việc này cốt làm cho con khác hẳn những đứa trẻ khác. Chúng ta đang ở Pháp, ta cho con mặc kiểu Ý-đại-lợi. Rồi nếu chúng ta sang Ý, ta sẽ cho con mặc kiểu Pháp-quốc, không khó khăn gì.
Tôi chưa hết kinh ngạc, thầy tôi nói tiếp:
- Chúng ta là ai? Là những tài tử phải không? Là những kịch sĩ thì phải gợi tính hiếu kỳ của công chúng, tức là phải làm thế nào cho công chúng chú ý mới được. Con có tin rằng với những bộ quần áo nhà giàu hay dân quê, chúng ta diễn trò, người ta phải dừng lại nhìn chúng ta không? Chắc chắn không! Phải thế không con? Con phải biết ở đời sự quảng cáo một khi cũng cần thiết, điều đó đáng buồn, nhưng ta không thể làm khác được.
- Vì lẽ đó, có khi mới buổi sáng ta là người Pháp, chưa đến buổi chiều ta đã là người Ý rồi.
Quần tôi cắt cụt đến đầu gối. Bít tất dài của tôi được thầy tôi dùng dây quấn chéo ở ngoài như chiếc sà cạp. Còn mũ của tôi cũng được quấn thêm nhiều giải lụa sặc sỡ, và đính thêm một túm hoa bằng len.
Tôi không rõ người ngoài coi bộ dạng đó sẽ nghĩ gì về tôi. Nhưng để tỏ ra là thành thực, tôi xin nói là tôi tự thấy mình đẹp quá. Mà có lẽ đẹp thật vì con Lãnh-Nhi, bạn tôi, đã ngắm nghía tôi rất lâu và giơ chân bắt tay tôi lấy làm thỏa thích.
Sự thay hình của tôi không những được Lãnh-Nhi khen ngợi mà còn được Hảo-Tâm vui vẻ tán thành, vì trong khi tôi mặc quần áo, nó vừa nhăn mặt vừa bắt chước bộ điệu tôi và phóng đại ra. Khi tôi mặc xong, nó để hai tay lên cạnh sườn, đứng ngả đầu về đằng sau gật gù và “cười” lên những tiếng kêu chế nhạo.
Tôi thường nghe thấy người ta nói rằng: thực là một vấn đề bổ ích nếu xét được giống khỉ có biết cười hay không. Tôi tưởng rằng những người nêu ra vấn đề đó là những nhà bác học chỉ biết ngồi trong xó buồng, không bao giờ trông thấy con khỉ và để công nghiên cứu giống khỉ.
Còn tôi, được sống trong tình thân mật với khỉ, với Hảo-Tâm, trong một thời gian khá lâu, tôi có thể nói quyết rằng giống khỉ biết cười và lắm khi làm cho tôi mất thể diện nữa. Cái cười của giống khỉ nhất định không giống cái cười của người. Nhưng khi có một tình cảm gì làm cho nó hoan hỉ, người ta trông thấy hai bên mép nó kéo về đằng sau, hai mí mắt nó dăn lại, hai hàm răng nó rung động lên, nhất là hai con mắt nó tỏa ra một tia lửa như hai hòn than hồng thổi lên.
Những dấu hiệu đặc biệt của cái cười đó đã có lần làm cho lòng tự ái của tôi rất khó chịu.
Khi tôi đội mũ xong, Vỹ-Tiên bảo tôi:
- Ngày mai là phiên chợ, ta sẽ mở cuộc biểu diễn. Con đã ăn mặc xong rồi, bây giờ chúng ta bắt tay vào việc để đến mai con có thể “nhập nghề”.
Tôi tự hỏi, không biết “nhập nghề” là cái gì thì Vỹ-Tiên bảo tôi:
- Nghĩa là con sẽ ra sân khấu lần thứ nhất diễn trò trước công chúng.
Ông nói tiếp:
- Ngày mai là buổi diễn đầu tiên, con sẽ có mặt ở đó. Nay ta dạy con đóng vai trò mà con phải phụ trách.
Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì cả.
- Con ơi, vai trò tức là những việc con phải làm trong buổi diễn. Ta đưa con đi, không phải là cốt cho con cái thú đi chơi, vì ta chẳng giàu có gì. Đưa con đi là để cho con làm việc. Mà việc của con chính là việc đóng trò với đồ đệ của ta.
Tôi lo sợ quá kêu lên:
- Con không biết diễn trò.
- Chính vì thế mà ta phải dạy con. Chắc con cũng biết rằng không phải tự nhiên mà con Lãnh-Nhi biết đi bằng hai chân sau, không phải vì khoái chí mà con Thùy-Nhi thích nhảy dây. Chúng phải tập tành khá nhiều và khá lâu mới được có những biệt tài đó và đã làm cho chúng thành những kịch sĩ kỳ diệu. Thế thì con, con cũng phải tập luyện những vai mà con phải đóng với chúng. Vậy ta phải thực hành luôn.
Thuở ấy, tôi có một ý nghĩ rất ngây thơ về sự đi làm. Tôi tưởng tượng đi làm tức là phải cuốc đất, chặt cây, đẽo đá và không biết gì khác nữa.
Vỹ-Tiên nói:
- Bản kịch mà chúng ta sắp diễn nhan đề là “Người đầy tớ của ngài Hảo-Tâm”. Đây là cốt truyện: Ngài Hảo-Tâm từ trước vẫn có một người đầy tớ rất vừa ý là Lãnh-Nhi. Nhưng Lãnh-Nhi ngày một già yếu nên ngài Hảo-Tâm muốn nuôi một người đầy tớ khác. Lãnh-Nhi được ủy đi tìm người đầy tớ đó, nhưng hắn không tìm một con chó khác để kế chân. Hắn tìm một đứa con trai tên là Minh.
- Như con.
- Không như con, mà chính là con, con ở làng lên tỉnh để giúp việc cho ngài Hảo-Tâm.
- Nhưng con khỉ làm gì có đầy tớ?
- Trong kịch thì có. Con đến nơi, ngài Hảo-Tâm nhận thấy con có vẻ khờ dại.
- Thế thì buồn quá.
- Không sao vì để làm trò cười thôi. Con hãy tưởng tượng đến một nhà giàu để hầu hạ thực, và họ sai con dọn bàn ăn chẳng hạn. Kia là cái bàn sẽ dùng khi diễn trò. Con lại xem và thử đặt bát đĩa.
Trên bàn đó, có mấy cái đĩa, một cái cốc, một con dao, một cái dĩa và một cái khăn trắng.
- Sẽ phải xếp đặt thế nào nhỉ?
Đứng bên cạnh bàn, tôi tự hỏi thế, mặt thuỗn ra, mồm há hốc, đầu cúi về đằng trước, hai tay đưa ra, luống cuống không biết phải làm gì trước.
Thầy tôi vỗ tay, cười ngặt ngoẹo:
- Hay! Hay tuyệt! Cách vận dụng dung mạo của con khéo lắm. Thằng bé ta nuôi trước con làm hỏng vì coi bộ láu lỉnh quá. Con trông khờ khạo, vẻ ngây thơ của con rất thích hợp.
- Con chẳng hiểu con làm gì.
- Chính điều đó lại là điều cốt yếu. Đến mai, hay trong vài ngày nữa. Con sẽ hiểu rõ những điều mà con sẽ phải làm. Lúc đó con phải nhớ lại cái điệu bộ bối rối của con bây giờ và làm như con không biết gì. Nếu con diễn lại được cái điệu bộ ngây ngô và cái dáng điệu lúng túng đó, con sẽ thành công to. Vai trò của con là phải diễn tả một người quê mùa, không trông thấy gì và không biết gì. Anh ta đến nhà một con khỉ, anh tự thấy mình ngu xuẩn và vụng về hơn con khỉ. Kẻ ngu hơn con khỉ, đó là vai của con. Muốn đóng cho được hoàn toàn, con chỉ việc giữ dáng điệu của con như ngày hôm nay là được.
“Người đầy tớ của ngài Hảo-Tâm” không phải là kịch dài, diễn độ 20 phút là xong. Nhưng chúng tôi phải luyện tập và diễn thử đến ba tiếng đồng hồ. Vỹ-Tiên bắt tôi và nhất là những con chó làm đi làm lại một việc đến ba lần, bốn lần, có khi đến mười lần.
Thực vậy, những con chó hay quên một vài phần trong vai của chúng nên Vỹ-Tiên lại phải bắt đầu và dạy lại.
Lúc đó, tôi nhận thấy thầy chúng tôi là một người rất nhẫn nại và ôn hòa. Tôi còn nhớ ở làng tôi, người ta đối đãi với súc vật một cách khác hẳn. Chửi và đánh là hai phương pháp duy nhất để huấn luyện gia súc.
Sự diễn tập dù phải kéo dài đến bao nhiêu, thầy chúng tôi không hề bực tức một lần nào, không hề chửi rủa một câu nào. Khi nào không vừa ý, thầy tôi chỉ nghiêm nét mặt nói:
- Lãnh-Nhi! Hỏng, không được! Hay Hảo-Tâm! Mày không bao giờ để ý cả. Phải mắng bây giờ!
Có thế thôi. Chỉ có thế là cùng.
Buổi diễn tập xong, thầy tôi bảo tôi:
- Này con! Con xem con có thể theo nghề diễn trò được không?
- Con không biết.
- Con có ngại không?
- Không. Con có phần thích.
- Như thế thì tốt lắm. Con có tư chất thông minh và có nết, quý hơn nữa là có sự chú ý. Chú ý và dễ bảo thì làm gì cũng được. Con hãy trông những con chó của ta và so sánh nó với con Hảo-Tâm. Con Hảo-Tâm có lẽ lanh lợi hơn và thông minh hơn, nhưng nó rất khó bảo. Nó dễ thuộc, nhưng dễ quên. Nó không bao giờ vui lòng làm những điều ta sai bảo. Lại hay hục hặc, bướng bỉnh. Đó là bản tính của nó, nên ta không bực tức. Giống khỉ không như giống chó, nó không có ý thức về bổn phận và do đó kém xa giống chó. Con có hiểu không?
- Dạ.
- Vậy, con ơi! Con phải chú ý, phải dễ bảo. Phải hết lòng, hết sức vào công việc con làm. Trong đời phải như thế.
- Thầy thực là hiện thân của sự nhẫn nại. Suốt buổi diễn tập, lúc nào thầy cũng bình tĩnh không hề gắt gỏng với con hay với các con vật bao giờ.
Vỹ-Tiên mỉm cười nói:
- Từ trước đến giờ con chỉ ở cạnh những người dân quê độc ác với loài vật, họ tưởng muốn sai khiến loài vật lúc nào cũng phải có cái gậy trong tay.
Tôi cãi:
- Mẹ tôi rất tốt với con Hồng-Ti.
Ông nói:
- Thế là bà ấy biết lẽ phải. Bà ấy sáng suốt hơn mọi người khác, bà hiểu rằng ngọt ngào hơn là hung hãn. Ta không bao giờ đánh những con vật ta nuôi. Chúng sẽ khiếp sợ, sự khiếp sợ làm nhụt trí khôn. Hơn nữa ta cũng không bao giờ nổi giận lên với chúng, vì nếu ta phát khùng thì ta không phải là ta nữa, ta sẽ không giữ được cái tính kiên trì mà con đã nhận thấy. Chính những kẻ dạy cũng là người đã học lại được nhiều. Ta đã cho con chó của ta bao nhiêu bài học thì ngược lại, ta đã nhận của chúng bấy nhiêu bài. Ta mở mang trí khôn cho chúng, chúng tu dưỡng tính tình cho ta.
Nghe câu nói lạ, tôi cười.
- Con cho thế là lạ lùng phải không? Một con chó có thể dạy được người? Thế mà thực đấy. Con thử nghĩ xem. Con có nhận thấy rằng một con chó bao giờ cũng chịu ảnh hưởng của chủ không?
- Điều đó đúng lắm.
- Vì thế, khi đã bắt tay vào việc giáo hóa một con vật, người chủ phải giữ gìn tư cách. Trong khi dạy Lãnh-Nhi, giả sử ta phát khùng, phát cáu, con Lãnh-Nhi sẽ làm gì? Nó cũng sẽ theo gương ta phát khùng, phát cáu, rồi thành ra hư hỏng. Con chó thường là tấm gương phản chiếu của người nuôi. Cho ta xem con chó của con, ta có thể bảo con là người thế nào. Quân cướp có con chó ăn cướp, kẻ trộm có con chó ăn trộm. Người quê mùa có con chó thô thục. Người phong nhã có con chó đáng yêu.
Các bạn tôi, ba con chó và con khỉ, được tôi đóng thêm trong trò nên vui thích lắm, chúng nhìn ngày mai đến không e sợ gì. Về phần chúng, chúng đã được làm đi làm lại đến trăm, nghìn lần rồi.
Còn tôi, tôi không được yên tâm như chúng. Tôi nghĩ ngợi: nếu tôi diễn hỏng, thầy tôi sẽ bảo sao? Khách xem sẽ nói gì? Ý nghĩ đó làm rối óc tôi. Khi tôi ngủ, tôi mê thấy những người đến xem ôm bụng cười, chế nhạo tôi.
Vì thế, sáng hôm sau, lúc rời nhà trọ ra chỗ diễn, lòng tôi xao xuyến vô cùng.
Vỹ-Tiên đi trước, đầu cao, ngực ưỡn, tay ve vẩy, chân bước theo nhịp còi ông thổi bài khiêu vũ. Sau ông là Hảo-Tâm. Với bộ nhung phục Đại-tướng Anh, áo quần đỏ, lon vàng, mũ cao đỉnh cắm một chiếc lông dài, Hảo-Tâm bệ vệ cưỡi trên lưng Lãnh-Nhi. Rồi cách xa một chút để tỏ ý kính trọng, Hiệp-Nhi và Thùy-Nhi xếp hàng đôi đi sau. Cuối cùng là tôi.
Vẻ linh đình của đoàn chúng tôi làm mọi người chú ý. Hơn nữa tiếng còi lanh lãnh của thầy tôi lại lọt vào tới trong cùng nhà, gợi óc tò mò của dân phố Ích-Sơn. Họ chạy ra cửa. Họ vén màn cửa sổ để xem chúng tôi đi qua. Một lũ trẻ con theo sau chúng tôi, cả mấy người nhà quê cũng nhập bọn thành một đoàn dài.
Sân khấu của chúng tôi được thiết lập một cách nhanh chóng: một cuộn dây chăng chung quanh bốn gốc cây thành hình vuông dài, chúng tôi ở giữa.
Phần thứ nhất của cuộc diễn gồm có những trò nhảy, múa của những con chó. Chúng diễn thế nào tôi cũng không biết vì óc tôi còn mải ôn lại những vai trò tôi sắp ra và rất lo lắng.
Tôi chỉ nhớ rằng Vỹ-Tiên cất còi vào túi, lấy vĩ cầm ra kéo những khúc khiêu vũ rất nhịp nhàng hoặc những bài êm ái du dương.
Công chúng đến mỗi lúc một đông, chen chúc chung quanh hàng dây chắn. Tôi ngửng mặt lên, mắt tôi vấp phải trăm nghìn con mắt tò mò nhìn chòng chọc vào và ném ra những tia chói lọi.
Phần thứ nhất chấm dứt. Lãnh-Nhi mồm ngậm cái bát gỗ con, đi bằng hai chân sau, viếng các quý khán giả chung quanh hàng dây. Khi không còn ai ném tiền cho nữa, nó đặt bát xuống sân, lấy hai chân trước kề vào áo khán giả nào ngoan cố, ăng ẳng hai ba tiếng và lấy chân vỗ vào túi quý vị đó như muốn mở ra.
Lúc đó, công chúng cười như phá lên, kẻ nói đùa, người chế nhạo:
- Con chó tinh thế! Nó biết người nào túi nặng!
- Thôi cho ra đi!
- Anh ta sắp cho!
- Anh ta không cho!
- Cho đi! Gia tài chú anh sẽ đền bù cho anh!
Thế là cuối cùng những đồng bạc dù nằm sâu ở đáy túi cũng phải lòi ra.
Trong khi đó Vỹ-Tiên không nói một câu gì, mắt không quên nhìn bát tiền, tay luôn luôn kéo những bài khi nhặt, khi khoan.
Lát sau, Lãnh-Nhi ngậm bát tiền đầy đem lại cho chủ, có vẻ hãnh diện lắm.
Bây giờ đến lượt Hảo-Tâm và tôi ra trò.
Vỹ-Tiên ra hiệu bằng tay kéo và tay đàn cho chúng tôi và nói:
- Thưa các bà, thưa các ngài, chúng tôi xin tiếp tục buổi diễn bằng một kịch vui “Người đầy tớ của ngài Hảo-Tâm”. Một người như tôi không bao giờ tự hạ để khoe hay và khen trước những tài tử của mình. Tôi trân trọng đề nghị một điều là xin quý vị hãy để mắt, để tai vào tấn kịch và sửa soạn tay để tán thành.
Cái mà Vỹ-Tiên gọi là kịch vui đó là một tấn tuồng câm, nghĩa là một bản diễn toàn bằng điệu bộ chứ không dùng lời. Mà bắt buộc phải như thế vì một lẽ rất dễ hiểu là hai vai chính trong kịch không biết nói. Và vai thứ ba là tôi, tôi không thể mở miệng nói ra được hai tiếng.
Tuy nhiên muốn cho công chúng dễ hiểu. Vỹ-Tiên nói giáo đầu trước khi mỗi trò sắp ra.
Vừa kéo khúc quân hành, ông vừa giới thiệu lúc Hảo-Tâm ra sân khấu:
"Đây là ngài Hảo-Tâm, Đại-tướng Anh-Quốc đã thăng quan tiến chức và làm giàu trong thời kỳ chiến tranh ở Ấn-Độ. Từ trước đến giờ ngài có một kẻ hầu là con Lãnh-Nhi. Nhưng ngày nay ngài muốn dùng người để thay thế. Ngài có thừa đủ phương tiện để làm việc xa xỉ đó: những giống vật đã làm nô lệ cho loài người lâu lắm rồi, bây giờ là lúc đổi lại. Trong khi đợi người đầy tớ mới, Đại-tướng Hảo-Tâm đi lại chững chạc trong sân, miệng ngậm điếu xi-gà lớn. Ngài lại tinh quái nhắm thở khói vào mặt khán giả.
Đợi lâu, Đại-tướng nóng ruột, ngài bắt đầu trợn mắt lên như sắp nổi trận lôi đình, rồi ngài cắn môi, rồi ngài đập chân xuống đất".
Đến tiếng đập thứ ba, tôi phải ra trò do Lãnh-Nhi dắt.
Nếu tôi quên thì đã có Lãnh-Nhi nhớ. Tôi đang bàng hoàng, Lãnh-Nhi bỗng giơ chân ra dắt tôi vào cạnh Đại-tướng.
Vừa nhìn thấy tôi, Đại-tướng giơ hai tay lên trời thất vọng. Tìm cho ngài người đầy tớ thế này ư? Rồi, ngài ngửa đầu nhìn kỹ mặt tôi, ngắm chung quanh tôi và so vai lên tỏ ý không bằng lòng. Điệu bộ ngài trông rất ngộ, toàn thể đều cười ầm. Công chúng hiểu rằng Đại-tướng nhận thấy tôi là một kẻ đại ngu ngốc. Mà chính ngay khán giả cũng cho tôi là thằng ngu ngốc.
Vở kịch đã chú ý xây dựng để phô diễn được hết cái ngu ngốc của một người xuẩn. Mỗi một xen, tôi lại phải tỏ một vài cử chỉ khờ dại, trái lại con Hảo-Tâm lại có dịp để biểu lộ trí thông minh và tài lanh lợi của nó.
Sau khi đã ngắm nghía tôi từ chân đến đầu, Đại-tướng tỏ ý thương tình và cho tôi ăn.
Vỹ-Tiên nói:
- Đại-tướng nghĩ rằng khi thằng bé này được ăn no thì nó không ngốc nữa. Chúng ta hãy xem sao.
Tôi vào ngồi cạnh một cái bàn con, trên có đặt đủ bộ đồ dùng để ăn cơm. Trước mặt tôi có một cái khăn đặt trong cái đĩa.
Cái khăn này dùng để làm gì? Lãnh-Nhi ra hiệu cho tôi bảo dùng đi. Nhưng dùng thế nào bây giờ?
Tôi nghĩ ngợi mãi, rồi cầm khăn lên xì mũi vào.
Thấy vậy, Đại-tướng cười ngặt nghẹo. Lãnh-Nhi thất vọng ngã lăn ra bốn chân chỏng lên trời.
Nhận thấy mình lầm, tôi ngắm nghía cái khăn lần nữa, nghĩ mãi, nghĩ mãi mới ra. Tôi liền cầm khăn cuộn lại thành cái cà vạt quàng vào cổ.
Lãnh-Nhi lại lăn đùng ra. Đại-tướng lại ôm bụng cười.
Rồi tôi cứ dùng nhầm mãi, Đại-tướng bực mình lôi tôi ra khỏi ghế. Ngài ngồi vào chỗ tôi, dùng xuất ăn đã dành cho tôi.
A! Đại-tướng dùng khăn ăn rất thạo! Một cách rất duyên dáng, ngài đặt một đầu khăn vào khuy áo, còn đầu kia trải trên đầu gối. Rồi ngài bẻ bánh và uống rượu một cách rất tự nhiên.
Ăn xong, ngài lại không quên dùng tăm xỉa bộ răng trắng ởn.
Tiếng vỗ tay nổi dậy một góc đường. Và cuộc diễn kết thúc một cách rất hoàn hảo.
Con khỉ đã thông minh biết bao! Người đầy tớ thực đã khờ dại biết bao!
Khi trở về nhà trọ, thầy tôi không dứt lời khen ngợi tôi. Tôi rất sung sướng đã làm thầy tôi vui lòng.