Liên Mạng VietNam || GiaiTri.com | GiaiTriLove.com | GiaiTriChat.com | LoiNhac.com Đăng Nhập | Gia Nhập
Tìm kiếm: Tựa truyện Tác giả Cả hai

   Tìm theo mẫu tự: # A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z Danh sách tác giả    Truyện đã lưu lại (0
Home >> Kiếm Hiệp >> Ân Thù Kiếm Lục

  Cùng một tác giả


  Tìm truyện theo thể loại

  Tìm kiếm

Xin điền tựa đề hoặc tác giả cần tìm vào ô này

  Liệt kê truyện theo chủ đề

  Liệt kê truyện theo tác giả
Số lần xem: 80737 |  Bình chọn:   |    Lưu lại   ||     Khổ chữ: [ 1, 2, 3

Ân Thù Kiếm Lục
Cổ Long

Hồi 58

Phong thư của Tưởng Tiếu Dân theo lời hắn thác lại phải được trao tận tay chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu.
Nếu vậy thì ước đoán của Phương Bửu Ngọc không sai, Tưởng Tiếu Dân quả có liên quan tới Bạch Thủy Cung.
Thảo nào lúc trao thư hắn không cần nói Tinh Linh tiểu lâu ở địa phương nào. Hắn hiểu là thế nào chàng cũng tới Bạch Thủy Cung.
Bất giác chàng đưa tay sờ trong mình. Phong thư vẫn còn đó.
Tưởng Tiếu Dân lấy cái chết để đổi một lời hứa của chàng, một lời hứa một mạng người, có khi nào chàng quên được.
Phương Bửu Ngọc nghĩ cũng may mà chàng đi một công hai việc.
Chứ nếu một việc chuyển thư không thì lặn lội tới đây mà chết thật oan mạng quá chừng. Có đến đây rồi mới biết đường vào Tinh Linh tiểu lâu là đường dẫn tới Uổng Tử Thành.
Chàng lại nghĩ, nếu như lúc trước Tưởng Tiếu Dân có chỉ đường cho chàng thì chàng cũng nhận lời như thường. Vì chàng đâu có thể tưởng tượng rằng trên thế gian lại có một nơi người ta không thể lui tới.
Người ta không cấm đến, song cứ muốn đến nếu mất mạng cũng chẳng oán trách ai được. Không phải tự mình muốn thế hay sao?
Đến Tinh Linh tiểu lâu phải rẽ qua một ngả khác. Đến Tinh Linh tiểu lâu rồi lại trở lại đây để tiếp tục đi tới trung tâm Bạch Thủy Cung, thật khó hơn lên trời.
Hơn nữa, ai biết được ẩn giấu sau việc nhờ vả đưa thư, Tưởng Tiếu Dân đã sắp xếp một âm mưu gì?
Chàng không dám chắc con người mang nỗi nhục bị chàng đánh bại có hảo ý với chàng.
Trong mười người đã hết chín, có nhục rửa nhục, có thù trả thù.
Đấy là lẽ đương nhiên, Tưởng Tiếu Dân có muốn hại chàng cũng là bình thường.
Tinh Linh tiểu lâu là nơi như thế nào, an toàn hay nguy hiểm, nơi thanh bình yên ả hay miệng cọp hang rồng, chàng không biết. Nguy hiểm thì chưa chắc, nhưng điều chắc chắn là công lực chàng phải tiêu hao đáng kể.
Giả sử lúc này có biến cố phát sinh, chàng cũng không có đủ sức mà ứng phó hữu hiệu. Ngay bây giờ còn thế, nói gì đi tới cuối con đường dài ngắn bao nhiêu chàng cũng chẳng biết, nguy hiểm cỡ nào chàng không hay.
Một con đường chẳng phải quan lộ bằng phẳng. Đương đầu với bao nhiêu sự việc ngoài sức tưởng tượng chỉ để thực hiện một lời hứa suông với kẻ đã toan giết mình, giết không được lại mượn nhờ chàng trao thư hộ, trao rồi lợi lộc đâu không thấy, lại phải quay ngược lại để tới Bạch Thủy Cung.
Chàng đủ sức làm những việc đó chăng?
Điều làm chàng lo ngại hơn cả là từ Tinh Linh tiểu lâu trở về Bạch Thủy Cung, chàng còn phải đối đầu với hai nhân vật nào đó đang chờ chàng, mỗi người với một chiêu kiếm kinh thiên động địa, mà chiêu nào cũng có thể lấy mạng chàng dễ dàng.
Muốn vượt qua hai người đó khoan nói tới tài, hãy nói tới lực trước.
Con người bằng xương bằng thịt, sức lực là có hạn, đâu có vô biên.
Cho nên bao đời nay biết bao người không đủ lực mà ngã gục.
Chàng thì sao?
Chàng bần thần suy nghĩ.
Nên làm không?
Rẽ sang tả hay hữu đây?
Rẽ sang tả là lối đi Tinh Linh tiểu lâu, rẽ bên hữu là đường tới Bạch Thủy Cung.
Hướng tả cơ hội trở về giảm đi, chàng chẳng có hy vọng tới Bạch Thủy Cung.
Hướng hữu, cơ hội trở về cũng giảm như thế, chàng không có hi vọng tới Tinh Linh tiểu lâu trao thư. Rẽ hướng nào cũng có cơ lỡ ước hẹn. Đã hẹn thì không thể lỗi hẹn, đã hứa thì không thể quên lời hứa.
Tả hay hữu, hướng nào cũng quan trọng như nhau, phải làm sao đây?
Phương Bửu Ngọc thở dài, lẩm bẩm:
– Tưởng Tiếu Dân lấy cái chết đổi một lời hứa của ta, ta há không dám lấy cái chết để giữ trọn lời hứa? Danh dự một đời ta trong lời hứa đó, ta lờ đi được sao?
Chàng quay người rẽ sang hướng tả.
Con đường tới Tinh Linh tiểu lâu. Chàng cứ đi theo bảng chỉ đường, chứ nào biết tiểu lâu đó ở đâu, cách xa bao nhiêu, kiến trúc thế nào, chủ nhân là ai, thuộc thành phần nào trong võ lâm.
Tinh Linh tiểu lâu nằm trong khu vực Bạch Thủy Cung như vậy, Tinh Linh tiểu lâu lệ thuộc Bạch Thủy Cung chăng?
Nếu thật vậy thì người ở Tinh Linh tiểu lâu có liên quan thế nào với Bạch Thủy Cung chủ? Nếu không? làm gì có chuyện một nước hai vua một đất hai chủ? Hoặc giả chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu và Bạch Thủy Cung chỉ là một người?
Chàng vừa đi vừa ghi nhớ những đặc điểm của con đường. Từ lúc vào đường động tới đây, con đường nóng có, lạnh có, ướt át có. Nhưng vào sâu hơn, đường đi trở nên sáng sủa, lại được trang trí huy hoàng chẳng khác lối đi ở cung tiên. Tuy thế, đi về hướng nào kia, chứ hướng tới Tinh Linh tiểu lâu thì chàng chẳng cảm thấy thoải mái chút nào.
Một màu đen tối, những khúc quanh khúc khuỷu, hơi ẩm ngột ngạt...
Tinh Linh tiểu lâu cận kề Bạch Thủy Cung, song hai nơi như trời với vực, như địa ngục với thiên đàng, như cung tiên với động quỷ. Chưa đến tiểu lâu đã phải trải qua con đường này ai mà không chán ngán.
Tới nơi, chàng thấy Tinh Linh tiểu lâu bất quá cũng chỉ là một ngôi nhà nhỏ tầm thường. Nơi đây chẳng phải Bạch Thủy Cung đâu. Không thể có liên quan tới Bạch Thủy Cung được.
Bạch Thủy Cung được người ta nhìn qua mắt người khác với lời đồn và tưởng tượng nhiều hơn là chứng kiến, một người tưởng tượng, nhiều người tưởng tượng. Cuối cùng, Bạch Thủy Cung trở thành một nơi huyền bí trong thần thoại, dù là chẳng xa xôi.
Tiểu lâu đặt trên một khu đất cao, có thêm bậc đá dẫn lên cửa chính. Cửa mở rộng, một thứ ánh sáng mờ mờ chiếu hắt ra bên ngoài.
Phương Bửu Ngọc từ từ bước lên thềm. Mỗi bước, mỗi nghi vấn lại nảy sinh chồng chất lên những nghi vấn trước đó của chàng, xen lẫn với những suy đoán của chàng, trở đi trở lại, quấn quýt rối rắm không sao gỡ ra được.
Tinh Linh tiểu lâu là một phần của Bạch Thủy Cung chăng? Nếu có thì chủ nhân là ai? Nếu không thì nó sao lại được dựng trong địa phận của Bạch Thủy Cung? Bạch Thủy Cung chủ sao lại chấp nhận một kẻ không liên quan cư trú tại mật khu?
– Dám hỏi chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu có mặt trong đó không?
Phương Bửu Ngọc cao giọng gọi.
Không một tiếng trả lời.
Nhưng lại có tiếng động gì đó, như tiếng sóng đùa, nước cuốn vang lên, không lớn, nhưng cũng không nhỏ, đủ cho chàng nghe thấy.
Đó là tiếng gì?
Phương Bửu Ngọc lại bước lên. Hơn mười bậc nữa, lại hỏi tiếp:
– Tại hạ đến đây để thực hiện sự ủy thác của một người. Tại hạ phải trao một phong thư tới tận tay chủ nhân. Có ai đó xin vào báo với chủ nhân hộ tại hạ.
Lần này thì có tiếng người đap. Người đáp lại đó có giọng nói u sầu vô tả, như từ cõi u minh vọng về, từ bãi tha ma vọng tới.
– Chủ nhân của Tinh Linh tiểu lâu đã chết rồi.
Phương Bửu Ngọc nhận ra âm thanh đó là của một nữ nhân. Giọng điệu u sầu song êm ái, trong trẻo vô cùng. Nhưng lại đượm vẻ lạnh lẽo.
Người đó nói cho chàng biết một tin chàng không hề tưởng tượng nổi, chứ đừng nói mong hay không mong. Chàng sững người:
– Chết rồi ư?
Người đó nín lặng không nói.
Hỏi thế chứ chàng cũng không chờ nghe lời phản bác, cần gì phải xác nhận. Có lý do gì người ta phải dối chàng?
Mất thời gian, trì hoãn cuộc hành trình tới Bạch Thủy Cung?
Tìm được Tinh Linh tiểu lâu là lời hứa coi như đã thực hiện tới chín phần rồi. Chỉ còn hội kiến với người nhận thư nữa là chàng hoàn tất sứ mạng bất đắc dĩ này. Thế mà, thế mà người ta nói với chàng, người nhận thư đã ra đi vĩnh viễn.
Chàng đã tốn công vô ích, chàng đã làm việc như một con dã tràng rồi.
Con dã tràng chỉ tốn công sức, còn chàng phải đùa với sinh mạng mình. Điều chàng làm là vô nghĩa. Tưởng Tiếu Dân, người từ cõi âm cung có theo bước chân chàng chăng? Có thông cảm cho chàng chăng?
Chắc hắn không bao giờ cho rằng chàng không thực hiện lời hứa. Hắn phải biết chàng đã làm tròn bổn phận.
Thư không tới tay người, không phải lỗi của chàng, đó là một bất hạnh ngoài ý muốn, ngoài tưởng tượng của chàng.
Còn ở lại làm gì nữa, trong khi vẫn còn việc quan trọng khác chờ chàng. Chàng đâu có thể trao thư cho người ở trong kia, người vừa báo hung tin cho chàng được?
Chàng thở dài, từ từ quay người chầm chậm bước xuống thềm, bước chân càng lúc càng nặng nề. Đi như thế này nghi vấn đã không giải được lại càng sâu thêm. Đã tới đây ít ra cũng phải biết thêm chút gì về toà tiểu lẩu này chứ. Chỉ thế thôi, chàng thật sự cũng không phải quá hiếu kỳ.
– Còn...còn cô nương là ai?
Người trong nhà đáp:
– Ta là chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu.
Chàng giật bắn người.
Thế là thế nào? Chàng không thấy sợ, chàng thấy giận.
– Cô nương định đùa tại hạ phải không?
Giọng nói vẫn lạnh lùng:
– Đùa? Người chết khi nào lại đùa được.
Chàng dựng tóc gáy. Nữ nhân nói chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu đã chết. Sau đó nói mình là chủ nhân. Như thế tức là chủ nhân vẫn còn sống. Thế mà lại xác nhận mình đã chết. Còn nói người chết không hề đùa. Chàng vẫn còn giận. Chuyện vô lý quá.
Chàng gằn từng tiếng:
– Thực sự cô nương là ai?
– Ta là chủ nhân ở đây. Ta đã chết rồi. Hiện tại đang nói với ngươi là linh hồn âm u của ta.
Thế này thì chàng tức lắm. Chàng quay nhanh người lại, mỗi bước năm bảy bậc. Chàng đã vào trong lầu.
Tường nhà bằng đá, chẳng có gì đặc biệt. Trong hang sâu, toà nhà nào chẳng lạnh lẽo. Cái lạnh hang sâu thì còn có thể chịu được. Chứ cái lạnh ở đây khó chịu quá. Nó âm u, đầy tử khí.
Vào đây, không ai còn cảm giác mình đang sống. Trong những đồ vật, tới ngay cả hơi thở của mình, cũng nhìn thấy sự chết chóc.
Gió.
Gió cũng lạnh. Gió thì thào qua cửa sổ, như than khóc, ai oán não nùng. Thì ra chính gió đã tạo ra âm thanh như sóng đùa chàng nghe vừa rồi.
Tiếng vang không lớn, nên giống tiếng bi hờn oán thán...
Tựa mình bên cửa sổ, một thiếu nữ mơ màng nhìn qua cửa. Lưng áp vào cửa, nàng vận chiếc áo sa đen, suối tóc huyền buông xõa phất phơ trong gió. Tà áo cũng phất phơ, áo theo tóc, tóc rủ áo. Nếu nàng không đối thoại với chàng, hẳn chàng nghĩ đó là một pho tượng đá.
Tử khí chính từ đó, từ người nàng, lan rộng khắp không gian trong tiểu lâu. Chưa bao giờ Phương Bửu Ngọc gặp một u linh. Chàng nghĩ, trên thế gian này nếu có u linh xuất hiện sống chung với người, hẳn chính là nàng.
Màu áo đen của nàng khiến khung cảnh âm u rùng rợn càng tăng vẻ huyền bí.
Bản thân nàng đã huyền bí, sự huyền bí lan sang sự vật khác khiến tất cả đều mang vẻ bí ẩn.
Thân thể nàng che phủ bởi suối tóc đen, áo nàng lại màu đen, người nàng là một khối đen mờ ảo dưới ánh đèn vàng nhạt, chỉ có gò má nàng trắng như bạch ngọc lộ ra ngoài. Chàng không thấy trọn vẹn gương mặt nàng. Nhưng giọng nói đó, dáng vẻ đó, gò má đó, đủ đoán được nàng đẹp lắm, đẹp vô cùng. Nàng chắc hẳn là đã biết chàng lên thềm vào lầu, nhưng dù đã nói chuyện với chàng, giờ nàng cũng không hề quay đầu lại.
– Tinh Tinh tiểu lâu bất quá chỉ là nơi cư trú của một u hồn, ngươi... tại sao ngươi lại đến?
Phương Bửu Ngọc đáp:
– Tại hạ đã trình bày rồi. Tại hạ tới đây là do sự ủy thác của một người, người đó nhờ tại hạ mang đến một phong thư.
Nàng lại hỏi:
– Một phong thư? Cho ai?
Nàng đã nghe chàng nói là trao cho chủ nhân tiểu lâu, thế mà giờ lại hỏi lại. Chàng trả lời, hơi do dự một chút:
– Trao cho cô nương... trao chọ.. chủ nhân của tòa tiểu lâu.
Nữ nhân áo đen trầm ngâm một lúc lâu, đoạn nàng từ từ nói:
– Nhưng chủ nhân của bức thư là ai?
Chàng cũng hơi tư lự một hồi:
– Người nhờ tại hạ trao thư tên là Tưởng Tiếu Dân.
Nàng đáp:
– Có, ta nhận ra hắn. Song... hắn đã chết rồi.
Phương Bửu Ngọc kinh hãi:
– Hắn chết rồi. Đúng thế. Nhưng cô nương làm sao lại biết?
Nữ nhân áo đen không đáp, chỉ gằn giọng hỏi lại:
– Tại sao ta lại không biết?
Phương Bửu Ngọc lại hỏi lại tiếp:
– Tại sao cô nương biết là hắn đã chết?
Nữ nhân hỏi ngược lại chàng như thế, chứng tỏ mọi hoạt động của Tưởng Tiếu Dân nàng nắm rất rõ. Sự sống chết của hắn với nàng như sống chết của người trong nhà, một lẽ tự nhiên nàng phải biết.
Điều đó chứng tỏ giữa nàng và Tưởng Tiếu Dân có mối liên hệ mật thiết.
Nhưng thực sự thì Phương Bửu Ngọc không tin là lại có mối liên quan mật thiết giữa nàng với Tưởng Tiếu Dân. Tưởng Tiếu Dân chết ngoài ngàn dặm, mà chàng thì ngay lúc Tưởng Tiếu Dân chết, đã ngày đêm tới đây không nghỉ ngày nào.
Cái tin hắn chết sao lại về đây trước chàng được?
Tinh Linh tiểu lâu cũng chẳng phải ở nơi thành thị nhiều người qua lại, thì tin tức đó được thông báo về đây bằng cách nào? Ngoài chàng ra ai có can đảm vào địa phận Bạch Thủy Cung?
Cho nên chàng thấy rất ngạc nhiên.
Nàng chẳng hề chú ý tới thái độ của chàng, còn chàng thì cứ hỏi mặc kệ nàng hỏi vặn, bên hỏi qua bên hỏi lại thành ra chẳng ai đáp lời ai.
Chàng lại ước đoán. Có lẽ Tưởng Tiếu Dân tới đây thường xuyên, và giờ thì đã qua kỳ hạn đó rồi, nên nàng mới cho rằng hắn đã chết.
Hay ít ra là Tưởng Tiếu Dân có hẹn tới đây, nhưng do tai nạn bất ngờ, hắn chết nên mới lỗi hẹn.
Phải thế chăng?
Tuy nhiên, chàng vẫn hỏi:
– Nhưng...tại sao hắn phải đến đây?
Nữ nhân nhẹ giọng, u buồn:
– Ta và hắn có ước hẹn, hắn không thể lỗi hẹn.
Chàng đoán đúng rồi. Có quen nhau, có ước hẹn, có gặp nhau mới có ước hẹn với nhau chứ.
Phương Bửu Ngọc cau mày:
– Cũng có thể vì một việc gì đó rất quan trọng hắn bận giải quyết nên không đến đúng hẹn. Sao cô nương lại chắc chắn hắn đã chết?
Nữ nhân lạnh lùng:
– Không gì có thể ngăn trở hắn đến đây đúng hẹn với ta trừ cái chết. Bất luận có chuyện gì cũng không cầm chân hắn được. Bởi người ước hẹn với hắn chính là ta, chứ không phải ai khác. Ngươi nghe rõ chứ. Chính là ta ước hẹn với hắn.
Chính là nàng. Cái đó đã hẳn. Chàng có nghĩ khác đâu.
Nhưng tại sao nàng ước hẹn thì Tưởng Tiếu Dân không thể không đến?
Nàng nói xong quay người đối diện với Phương Bửu Ngọc.
Nàng đổi tư thế quá đột ngột. Phương Bửu Ngọc hết sức kinh dị.
Chàng không rõ nàng sắp có thái độ gì với mình.
Từ tư thế hững hờ chuyển nhanh sang tư thế đối diện, sự đổi thay đó là tốt hay xấu, chàng không dám đoán.
Gương mặt nàng tuyệt đẹp, song quá trắng. Trắng đến vô cảm.
Gương mặt trắng tương phản với màu tóc đen càng thêm vẻ huyền bí.
Ánh mắt nàng có một ma lực làm ngưng nhịp đập của con tim, bất kỳ nam nhân nào bắt gặp ánh mắt nàng hẳn cũng phải ngừng thở, máu ngừng luân chuyển.
Nàng đang nhìn thẳng vào mặt Phương Bửu Ngọc, ánh mắt xuyên qua mắt chàng, đi thẳng vào tâm hồn chàng, như thấu rõ những gì sâu kín nhất trong chàng.
Nàng gằn từng tiếng:
– Hắn với ta có ước hẹn với nhau. Trừ phi hắn chết, không gì có thể ngăn hắn đến với ta. Có việc gì ngăn trở hắn được chứ, phải không?
Trước ánh mắt nàng, chính Phương Bửu Ngọc cũng thấy mất bình tĩnh:
– Phải! Cô nương nói đúng.
Chàng tiếp :
– Thật sư..... Tưởng Tiếu Dân đã chết rồi.
Chàng nói nhỏ, bình thản nhưng bi thương. Nàng nói, vô cảm, như nói về một người xa lạ:
– Ta biết hắn chết rồi. Nên ta cũng phải chết.
Như nàng đã nói với Phương Bửu Ngọc lúc đầu.
Nàng là chủ nhân của toà tiểu lâu, nàng chết rồi, đây chỉ là u linh của nàng. Giọng nói nàng bình thản quá, nhưng bên trong ẩn giấu bao niềm ai oán như sóng ngầm nơi biển cả.
Phương Bửu Ngọc vụt ngẩng đầu lên.
Tới tận bây giờ, từ lúc nàng quay lại đối diện với chàng, bây giờ chàng mới nhìn thẳng vào mặt nàng.
Chàng thấy vẻ bi ai thống thiết của nàng. Thấy cả vẻ mẫn tuệ của nàng.
Từ nàng thoát lên vẻ thông minh tuyệt đỉnh.
Nhưng tất cả ẩn giấu dưới một vẻ lạnh lùng giá băng.
Tưởng Tiếu Dân là con người vô tình. Hắn lấy hai chữ đó làm ngoại hiệu. Người trên giang hồ gọi hắn là Vô tình công tử.
Nhưng nữ nhân này còn vô tình hơn hắn. Ít ra cũng một bậc.
Có ai ngờ, hai kẻ vô tình gặp nhau lại thành hai kẻ thâm tình với nhau.
Chung tình rất mực, không một sức mạnh nào phá được khối chung tình đó. Đến độ một người chết đi, người còn lại cũng chết theo, xác thân chưa chết, nhưng tâm hồn đã đi theo người rồi.
Nàng dù còn giữ thân xác đó, nhưng nàng không dùng thân xác để tiếp xúc với đời, nàng dùng u linh của nàng, u linh giúp nàng gặp lại người xưa, giờ giúp nàng tiếp xúc với đời chờ ngày vĩnh viễn cùng người phiêu du.
Chàng nhìn nàng. Nàng cũng nhìn chàng. Lạ lùng thay, rõ ràng nàng hoàn toàn xa lạ với chàng, nhưng càng nhìn càng cảm thấy có quen biết nàng. Nàng ở trên cao, ngoài tầm tay chàng, chàng không thể với tới. Thế nhưng lại có cảm giác nàng đang ở bên, chỉ cần chàng đưa tay ra là nàng đã có thể trong vòng tay chàng để chàng an ủi âu yếm...
Trời ơi, nhưng giờ chẳng phải lúc để chàng nghĩ vẩn vơ. Chàng rút phong thư trong người ra. Phong thư theo chàng lên cạn xuống hồ, trải mấy lần ướt rồi lại khô, chẳng biết nó còn rõ chữ hay không nữa.
Chàng nói:
– Bất luận thế nào, phong thư này cũng phải được trao cho cô nương.
Nàng nhún vai:
– Trao cho ta? Ngươi cứ giữ lấy. Ai có nó cũng có gì khác biệt đâu?
Chàng thoáng giật mình:
– Cô nương không muốn xem?
Nàng điềm nhiên :
– em cũng được, không xem cũng được, chẳng có gì khác biệt.
Phương Bửu Ngọc cau mày:
– Nhưng...tại ha....mang nó từ xa tới đây...
Nàng lạnh lùng:
– Vậy ngươi đọc cho ta nghe!
– Tại hạ đọc? Đâu có tiện cô nương?
Nàng hỏi:
– Sao lại không tiện?
Phương Bửu Ngọc ấp úng:
– Bởi... phong thự.. có thể chứa đựng chuyện riêng của hai người...
Nàng trầm giọng xa xăm:
– Người đã chết rồi, cũng có điều bí mật nữa sao?
Phương Bửu Ngọc sững người. Một lúc sau, chàng thở dài, rồi từ từ mở phong thư ra.
Tay mở, lòng những mong qua mấy lần ướt nước, chữ trên thư không bị lem luốc tới không thể đọc.
Chàng muốn thư còn nguyên vẹn cho tròn lời hứa với người đã khuất. Chàng muốn nó còn nguyên tự tích vì nó chứa đựng ý niệm thiêng liêng của một tâm hồn ký gửi tới một linh hồn.
Có phong thư tình nào không thiêng liêng, khi tình cảm giữa đôi uyên ương đang hồi nồng nhiệt.
Chàng không ngờ.
Trên thế gian không ai có thể tưởng tượng được, không riêng gì chàng. Trong bì thư chỉ có một tờ giấy trắng. Một mảnh giấy trinh nguyên không một vết lấm mực.
Phong thư mà Tưởng Tiếu Dân hết sức trân trọng, dám đổi cả sinh mạng để lấy một lời hứa nhằm buộc chàng phải mang tới chỉ có một tờ giấy trắng.
Riêng hắn, hắn chết để buộc chàng hứa hẹn, riêng chàng, chàng bất chấp hiểm nguy. Cả hai hy sinh vì một tờ giấy trắng đến tay một người hiện đã chỉ còn là linh hồn u lạnh. Có ai trong trường hợp của chàng ngờ được chuyện xảy ra như thế.
Phương Bửu Ngọc ngây người, còn nàng vẫn lạnh lùng cố hữu.
Nàng không thấy đó là lạ, chừng như nàng không màng tới phong thư có chữ hay không, có hay không dường như chẳng liên hệ gì tới nàng.
Chính nàng cũng nói thế kia mà.
Người của nàng đã chết, chính nàng cũng như đã chết, nàng chỉ còn là một u linh, thư từ còn ý nghĩa gì nữa? Còn gì đáng cho nàng để tâm trên thế gian này? Một người vắng bóng, cả vũ trụ hóa hư không.
Nàng nói:
– Thư đó, ta đã thấy rồi.
Phương Bửu Ngọc không hiểu. Chàng thông minh, nhưng giờ chàng đầu hàng:
– Nhưng... tờ thự..
Tờ giấy trắng, nàng lại nói nàng đã thấy rồi, là làm sao?
Những phong thư trước Tưởng Tiếu Dân gửi đến nàng đều là giấy trắng, hay một dấu hiệu ngầm nào đó thoa? hiệp với nhau dù thư không chữ?
Nàng điềm nhiên nói:
– Ý tứ của thư ta đã hiểu rõ.
Phương Bửu Ngọc tròn mắt:
– Cô nương hiểu? Một tờ giấy trắng không chữ, cô nương hiểu thế nào?
Nàng lạnh lùng:
– Vậy nhưng ta hiểu. Bởi ta hiểu ý tứ của hắn nên không cần xem thư.
– Vậy ý tứ của hắn như thế nào?
Nàng đáp:
– Hắn trao một phong thư không chữ cho ngươi mang đến đây chẳng phải nhắn nhủ gì ta cả. Chỉ cốt để ta thấy mặt ngươi. Ý của hắn là thế. Đơn giản vậy thôi.
Phương Bửu Ngọc giật mình. Tưởng Tiếu Dân muốn nàng thấy mặt chàng, để làm gì?
Chàng thấp giọng:
– Thấy mặt tại hạ? Tại sao hắn lại muốn như vậy?
– Tự nhiên phải có một nguyên nhân.
Phương Bửu Ngọc hỏi gấp:
– Nguyên nhân thế nào?
Nàng thản nhiên:
– Sau này ngươi sẽ rõ. Tự nhiên ngươi sẽ rõ.
Phương Bửu Ngọc cao giọng:
– Tại sao cô nương không nói ra ngay bây giờ cho tại hạ biết? Sao thái độ của cô cũng giống hai người tại hạ đã gặp, tất cả đều bí mật như muốn che giấu một sự thật nào đó với tại hạ. Tại sao? Việc gì kì quái thế chứ?
Nàng không đáp, cũng không nhìn chàng.
Nàng nhẹ nhàng bước đi, phất phơ như theo gió đẩy mây đưa. Nàng ra ngoài mặc Phương Bửu Ngọc ở đó.
Chàng tâm thần không khỏi cảm thấy rối loạn, kì dị trước thái độ của nàng. Chàng nhớ tới Tưởng Tiếu Dân, tự hỏi hắn dàn cảnh thế này làm gì?
Chàng thoáng có ý nghĩ Tưởng Tiếu Dân muốn chàng thế chân hắn trong lòng u nữ, chỗ trống của hắn để lại sau chuyến vĩnh du.
Nhưng không được, nghĩ thế chẳng phải tự cho mình có giá trị lắm ru?
Thế không hợp lý, có ai tự dưng nhường người yêu cho người khác để lấy cái chết về mình. Khi yêu người ta thường ích kỷ. Dù phải chết, vĩnh viễn rời bỏ trần thế cũng vẫn còn ích kỷ, có khi còn muốn mang theo người yêu về bên kia thế giới cùng mình. Làm gì có chuyện nhường?
Nhường chắc gì người ta đã chịu? Mà không, chắc chắn là không phải. Cho dù đúng thế, chàng không nhận, chàng không yêu nàng dù nàng đẹp tuyệt trần, mà nàng cũng chắc gì thuận theo sắp xếp đó.
Nàng yêu hắn đến thế kia mà, hắn chết, nàng chỉ còn thân xác vất vưởng. Còn chàng, chàng có tiểu công chúa khả ái kia.
- – Nàng quay lại, mang theo một chiếc mâm đựng thức ăn.
– Ăn đi.
Nàng nói lạnh lùng, nhưng như có ma lực kì lạ, chàng không thể cưỡng lại.
Huống chi đã lâu chàng không được ăn những món ngon như thế.
Cần gì giọng nói đầy ma lực của nàng.
Chàng không khách sáo. Chàng gác hết mọi việc sang bên.
Chàng ăn xong, nàng lại mang đến một chậu nước cùng một chiếc khăn mặt sạch sẽ. Nàng không hỏi chàng một tiếng, cứ tự ý nàng nàng làm. Chẳng để ý chàng có cảm tưởng gì.
Nàng lẳng lặng cởi khuy áo, rồi cởi luôn áo ngoài của chàng.
Cởi áo, điều đó trước kia chàng không tự làm thì nhất định chẳng để ai làm.
Nhưng bây giờ nàng làm chàng cũng chẳng ngăn trở.
Chàng cũng không hiểu sao tự dưng mình lại ngoan ngoãn như thế.
Như một đứa em trai cần chị gái chăm sóc.
Nàng nhúng khăn vào chậu, rồi lau qua mấy vết thương trên người chàng. Nàng làm với thái độ lạnh lùng nhưng cử chỉ lại hết sức dịu êm.
Nước hẳn có hoà lẫn thuốc, vì nàng lau tới đâu, chàng nghe mát tới đó, không chỉ vết thương chỗ bị bỏng lúc trước, mà cả toàn thân, tâm hồn chàng cũng dịu lại.
Nhưng những nghi vấn trong chàng thì vẫn không dịu đi chút nào.
Một nữ nhân lạnh lùng như thế, sao lại có thể ôn nhu chăm sóc chàng một cách thiết tha như vậy được.
Tưởng như vợ chăm sóc chồng cũng chỉ tới thế là cùng.
Thoạt đầu, chàng im lặng. Sau đó thì chàng nhịn không nổi, hỏi :
– Cô nương làm thế là ý tứ gì? Có phải là tỏ lòng biết ơn tại hạ đã mang thư tới đây chăng?
Nàng thản nhiên:
– Phong thơ đó, có ý nghĩa gì với ta đâu, mà nk cho là có ơn với ta?
Phương Bửu Ngọc hơi thẹn, chàng cúi đầu, thấp giọng:
–Đúng vậy! Đó không phải là một phong thơ, thì làm gì có ơn? Một mảnh giấy trắng suông, chẳng có nghĩa gì cả!
Nữ nhân giải thích:
–Ta làm thế, chỉ vì ta đã thấy mặt ngươi!
Phương Bửu Ngọc vụt ngẩng đầu lên, tiếp hỏi:
– Chỉ vì cô nương đã thấy mặt tại hạ? Nhưng tại sao thấy được mặt tại hạ rồi cô nương lại làm thế? Tại sao?
Nữ nhân thản nhiên:
– Tại vì ta rất muốn thấy mặt ngươi, ta ước mong được thấy mặt ngươi.
Phương Bửu Ngọc cứ đi theo cái vòng lẩn quẩn của nàng:
– Nhưng tại sao cô nương ước mong thấy được mặt tại hạ? Thậm chí cô nương chưa biết mặt tại hạ kia mà? Cô nương đâu có biết tại hạ là ai?
Nữ nhân lạnh lùng:
– Sao ta lại chẳng biết ngươi là ai? Ngươi là Phương Bửu Ngọc, chứ còn ai khác nữa?
Phương Bửu Ngọc giật mình kêu lên:
– Cô nương nhận ra tại hạ! Tại sao? Tại sao chứ?
Nữ nhân đáp:
–Hiện tại, dù nguyên nhân có như thế nào, cũng chẳng còn quan hệ nữa. Hiện tại, kể như chẳng có nguyên nhân! Hiện tại ta và ngươi chẳng có quan hệ với nhau nữa!
Nàng quay mình, lạnh lùng tiếp lời:
– Người chết, đương nhiên chẳng còn quan hệ đối với bất kỳ ai!
Phương Bửu Ngọc hết sức kỳ quái, trố mắt nhìn nàng, trầm giọng nói:
– Cô nương... Chẳng lẽ cô nương có quan hệ gì với tại hạ từ trước?
Nữ nhân thốt:
– Vô luận quan hệ như thế nào giữa ta và ngươi, hiện tại cái quan hệ đó không còn nữa, nó đã thuộc về quá khứ, hiện tại những gì ta đã làm cho ngươi, vì ngươi mà làm, ta đã làm xong, ngươi nên...
Phương Bửu Ngọc bực tức hét lớn:
– Tại hạ chẳng hiểu gì cả, cô nương càng nói, tại hạ càng thấy mù mờ!
Nữ nhân điềm nhiên:
– Ngươi chẳng cần hiểu làm gì. Bởi ta và ngươi chẳng còn mảy may quan hệ, ngươi đừng nhớ tới ta, ta cũng chẳng nhớ đến ngươi, chỉ vì...
Phương Bửu Ngọc vụt đứng lên, đi mấy bước, rồi nghĩ sao đó lại lùi về chỗ và ngồi xuống. Nàng lại nói tiếp:
– Lần trước, Tưởng Tiếu Dân cũng từ ngả này mà ra. Hắn vọt qua cửa sổ đó. Chỉ có hai cửa sổ đó là lối ra duy nhất. Hắn ở lại đây dưỡng thương mấy hôm rồi nhảy qua cửa sổ đó. Dưới cửa sổ là biển cả, nước biển mềm mại dịu êm, nước biển chẳng làm bất cứ ai bị thương tổn.
Phương Bửu Ngọc thở dài:
– Tại hạ đã đoán cô nương trọn đời ở đây hẳn tịch mịch thê lương khó chịu lắm. Vì thế khi cứu hắn, vừa gặp hắn cô nương đã ký gửi trái tim cho hắn.
Nàng bình thản:
– Hắn xứng đáng cho bất cứ nữ nhân nào ký gửi tâm tình. Hắn là một nam nhân đầy đủ tư cách như nữ nhân mong muốn.
Phương Bửu Ngọc gật đầu:
– Đúng, hắn là một nam nhân tốt, rất tốt. Nhưng... nhưng...
Chàng nắm chặt tay, rồi đột nhiên vung tay hét to:
– Nhưng cô nương còn trẻ quá, sao cô không sống, tại sao cô nương không chịu sống chứ?
Nàng hơi u sầu :
– Bởi trái tim ta hắn đã mang đi mất rồi. Người không tim thì sống làm sao, phải không?
Chàng trầm ngâm:
– Cô nương đã quyết định như vậy sao?
Nàng gật đầu:
– Phải, ta đã quyết định rồi. Còn ngươi, ngươi nhảy qua cửa sổ xuống biển mà đi đi. Bạch Thủy Cung chẳng có gì cho ngươi lưu luyến.
Ở đây chỉ có bi thương âu sầu tịch mịch mà thôi...
Chàng thở dài, lẩm bẩm:
– Bây giờ tại hạ đã hiểu. Tưởng Tiếu Dân muốn tại hạ mang thư không lời tới trao cho cô nương ngoài việc muốn cô nương thấy mặt tại hạ còn có dụng ý khác. Hắn biết thế nào tại hạ cũng bị khốn như hắn, và khi lâm vào cảnh khốn đốn rồi, tại hạ chỉ còn nhờ cô nương chỉ đường thoát đi. Tại hạ nghĩ vậy có đúng không cô nương?
Nữ nhân buông gọn:
– Có thể đúng, có thể không.
Phương Bửu Ngọc lại tiếp:
– Đúng hay không đúng, tại hạ cũng không thể thoát. Tại hạ không thể đi một cách đơn giản như vậy. Tại hạ chỉ đi sau khi gặp mặt cung chủ Bạch Thủy Cung mà thôi. Bạch Thủy Cung này có nhiều điều bí mật liên quan tới tại hạ. Bằng mọi giá tại hạ phải tìm hiểu những bí mật đó. Tại hạ chưa thể rời khỏi nơi này chừng nào còn chưa hiểu những điều cần hiểu.
Nàng hỏi hắn, chính câu hắn hỏi nàng trước đó:
– Ngươi đã quyết định như vậy?
Phương Bửu Ngọc cương quyết:
– Chắc chắn là như thế, cô nương.
– Ngươi không hối hận sau này?
– Tại sao tại hạ phải hối hận?
Nàng đáp:
– Vì nơi đây tất cả đều tàn khốc. Tất cả đều có thể khiến ngươi tổn thương đau đớn. Ngươi muốn đi cứ đi. Đi tới nơi sẽ hiểu. Tại đây có một con đường thông tới chỗ Bạch Thủy Cung chủ.
- Đường đi không phải bên ngoài mà ngay trong nhà. Nàng đứng trước lối đi đó, nói:
– Cứ theo con đường này ngươi sẽ gặp mặt Bạch Thủy cung chủ nương nương.
Phương Bửu Ngọc nói gì, làm gì, cũng cố chú ý tới vẻ mặt của nàng.
Chàng muốn dò nét biến hóa nơi gương mặt nàng.
Và chàng đã thấy gương mặt lạnh lùng đó có sự thay đổi.
Sự biến đổi đó, là khi nàng nói mấy chữ Bạch Thủy nương nương.
Chừng như có một sự ám ảnh nào đó, hiện lên gương mặt nàng, khi nàng nói bốn tiếng đó.
Một sự Oán hận. Tình cảm nàng đã chết theo cái chết của Tưởng Tiếu Dân, nhưng bây giờ lại còn đó sự Oán hận. Tất cả, chỉ còn sự Oán hận mà thôi.
Sự Oán hận đó là sinh khí của nàng, sinh khí gắn liền u linh với cơ thể. Oán độc tiêu tan, sinh khí sẽ mất, u linh cũng rời xa trần thế.
Niềm oán hận đã đè nén ăn sâu từ lâu trong nàng, có lẽ đã phát sinh lâu lắm, càng ngày càng lớn, tới hôm naỵ..
Nàng ở trong Bạch Thủy Cung, hẳn nàng và Bạch Thủy Cung chủ có một liên quan đặc biệt. Tại sao nàng lại hận Bạch Thủy Cung chủ?
Chàng muốn hiểu ngay điều đó. Không còn thời gian nữa. Không thể chậm trễ. Chàng vòng tay đáp:
– Đa tạ cô nương chiếu cố chỉ điểm cho đường đi nước bước. Tại hạ xin cáo từ.
Nàng khoát tay:
– Hãy khoan. Ngươi không nên cảm tạ ta. Ta có việc yêu cầu ngươi.
Chàng sững sờ.
Yêu cầu chàng? Việc gì mới được chứ? Nàng ở đây gần như biệt lập với thế giới bên ngoài, còn thiết gì mà yêu cầu chàng?
Nàng lạnh lùng tiếp:
– Ta nói, ngươi đáp ứng hay không đáp ứng cũng không sao.
Chàng hấp tấp:
– Bất luận việc gì tại hạ cũng chịu. in cô nương cứ nói.
Nàng hơi trầm ngâm:
– Trong lòng ta có một nghi vấn. Chỉ có ngươi có thể giải thích nghi vấn đó thôi.
Phương Bửu Ngọc nghiêm giọng:
– Chính cô nương không giải thích được thì chắc là tại hạ vô năng rồi.
Nữ nhân trầm gương mặt:
– Ta biết ngươi giải thích được.
Phương Bửu Ngọc cau mày:
– Nghi vấn của cô nương thuộc lĩnh vực nào?
Nữ nhân đáp:
– Võ công.
Chàng chớp mắt:
– Võ công? Cô nương lại thiết tha với võ công?
Nàng không trả lời, chỉ tiếp:
– Từ ngày có tri thức tới nay, ta tự hỏi không biết trong võ học có chiêu nào mà bất cứ ai cũng không phá nổi?
Chàng ấp úng:
– Chuyện đó... tại hạ tưởng... trên thế gian này, từ cổ chí kim, chẳng có một ai giải đáp nổi.
Nàng lại tiếp:
– Có thể ngươi đúng. Vấn đề đó chừng như nan giải vậy. Dù là có người nào đó giải được thì ta cũng làm sao biết, bởi ta suốt đời giam mình trong toà tiểu lâu tịch mịch này, xa rời nhân thế...
Chàng trầm ngâm một lát:
– Trên giang hồ xưa tới nay có biết bao nhiêu môn phái. Mỗi môn phái lại có một tuyệt kỹ riêng. Nhưng chẳng có tuyệt kỹ nào mà người ta có thể hoành hành khắp thiên hạ. Giả như có một ngón nghề độc đáo, môn phái nào đó có thể tạm thời ngang dọc giang hồ, nhưng không có nghĩa là ngón nghề ấy vô địch không ai phá nổi. Cô nương chắc cũng hiểu đạo lý đó chứ?
Nàng gật đầu:
– Ta hiểu.
Chàng cũng gật đầu:
– Thực vậy đó cô nương. Tuyệt đối không thể có một chiêu nào không thể hóa giải.
Nàng lạnh lùng:
– Tuy nhiên, biết là biết vậy, song chẳng có ai chứng minh được sự tuyệt đối đó Phương Bửu Ngọc mỉm cười:
– Cái đó đã hẳn.
Nàng lại nói tiếp:
– Ta biết, hay ta nghĩ vậy, cho nên ngày ngày ta cứ suy tư, nghiên cứu. Ta có sáng chế ra nhiều chiêu thức, song sáng chế ra rồi ta lại bỏ ngay, bởi chính ta cũng thấy rõ là những chiêu thức đó có nhiều sơ hở.
Ta tự nhận thấy sơ hở thì ta cần gì còn phải hỏi ai?
Phương Bửu Ngọc chú ý:
– Rồi sau đó?
Nữ nhân tiếp:
– Ta gặp Tưởng Tiếu Dân. Hắn ở lại đây dưỡng bệnh một thời gian.
Ta xin hắn dẫn giải rõ những môn công phu, tuyệt chiêu của hắn cho ta biết qua.
Phương Bửu Ngọc gật đầu:
– Không những thông minh tuyệt đỉnh, Tưởng Tiếu Dân là dòng dõi võ lâm thế gia. Hắn biết hầu hết các môn công phu, chiêu thức của các phái lớn trên giang hồ. Kiến thức của hắn rộng lắm.
Nàng nói tiếp:
– Những chiêu thức hắn kể có một số giống với những chiêu thức do ta sáng chế ra, một số khác lại hoàn toàn bất đồng. Sau đó hắn từ biệt ra, trở lại giang hồ. Còn lại mình ta đem những chiêu bất đồng đó phối hợp với những chiêu do ta sáng chế, chọn lấy tinh túy của các chiêu tạo thành một chiêu tổng hợp.
Phương Bửu Ngọc tặc lưỡi:
– Cô nương thông minh vô cùng, trên đời này chắc gì có người sánh kịp.
Nàng không để ý nói tiếp:
– Sáng chế ra chiêu tổng hợp đó ta phải mất một năm dài. Và ta tin rằng trong thiên hạ chẳng môn phái nào có một chiêu giống thế, hoặc giả có chiêu nào độc đáo hơn chiêu đó.
Phương Bửu Ngọc nhìn sững:
– Sao cô nương chứng minh được điều đó?
Nàng giải thích:
– Bởi nếu trên đời này có chiêu đó thì nó đã vang danh khắp võ lâm từ lâu, đương nhiên, Tưởng Tiếu Dân cũng sẽ biết. Còn một điểm nữa. Phần nhiều những chiêu độc là những chiêu chuyên giết người, mà chiêu giết người thì lại không tuyệt đối, vì địch thủ có phòng bị trước những chiêu sau nữa. Các chiêu của ta chính ta cũng không biết cách hóa giải, người ngoài làm sao biết được. Chiêu của ta không độc ở hình thức, địch dễ coi thường. Nó hàm súc huyền cơ, mà nói tới huyền cơ thì quỷ thần cũng phải chịu thôi.
Nàng kết luận:
– Chiêu sát thủ của tất cả các môn phái, ta hóa giải dễ dàng.
Tưởng Tiếu Dân có thể biểu diễn cho ta xem nên ta dám tin chắc như vậy. Còn chiêu của ta chỉ có mình ta biết nó nên ta dám quyết nó là độc đáo.
Phương Bửu Ngọc vô cùng cao hứng:
– Chiêu đó vô cùng ảo diệu phải không cô nương?
Nàng trầm ngâm một chút rồi nói:
– Tự ta cũng không biết hóa giải chính chiêu ta nghĩ ra, song ta cũng không chứng minh được là không một người nào trên đời có thể phá nổi, bởi trong võ lâm ngày nay chỉ có một người là có thể chứng minh chiêu của ta có thể hóa giải hay là bất khả kháng mà thôi.
Phương Bửu Ngọc trầm giọng:
– Tại sao chỉ có tại hạ chứ không còn ai khác?
Nữ nhân đáp:
– Bởi vì cứ theo lời người giang hồ thì tựa hồ ngươi là đương kim đệ nhất cao thủ trong võ lâm. Nếu ngươi không hóa giải nổi chiêu của ta thì chắc chắn không còn ai hóa giải nổi.
Phương Bửu Ngọc suy nghĩ một lúc rồi cao giọng:
– Với mọi sự việc trên đời cô nương còn không quan tâm nữa, thì tại sao cô nương lại muốn chứng thực chiêu kiếm đó? Hay cô nương muốn dùng chiêu kiếm đó để đối phó với một người?
Nàng điềm nhiên:
– Cũng có thể như vậy mà cũng không hẳn như vậy.
Chàng hỏi tiếp:
– Người cô nương muốn đối phó là ai?
Nàng lạnh lùng:
– Điều đó... ngươi không cần biết.
Phương Bửu Ngọc lại hỏi:
– Có phải là Bạch Thủy nương nương không? Cô nương căm hận bà ấy đến thế à? Tại sao cô nương lại căm hận bà ấy?
Nàng nhìn chàng, một lúc sau từ từ lùi lại:
– Ngươi đã đáp ứng yêu cầu của ta thì còn hỏi làm gì?
Phương Bửu Ngọc lặng người một hồi lâu rồi buông tiếng thở dài:
– Lấy kiếm đi, cô nương.
Ánh sáng chớp lên, trường kiếm đã rời khỏi vỏ.
Nàng đâm mũi kiếm xuống chân Phương Bửu Ngọc, giữ mũi kiếm trong tư thế đó cách chân chàng độ ba thước. Phương Bửu Ngọc giật mình kêu lớn:
– Chiêu thức gì kỳ lạ thế?
Nàng điềm nhiên:
– Là chiêu do ta sáng chế.
Phương Bửu Ngọc tròn mắt:
– Nhưng chiêu đó sao có thể hại được tại hạ? Bất cứ ai cũng không thể bị hại bởi chiêu này.
Nàng nói:
– Chính vì chiêu đó trước mắt không có vẻ làm thương tổn tới ai, cho nên không ai nghĩ tới cách hóa giải. Cũng vì chưa ai thấy một chiêu như thế.
Phương Bửu Ngọc sững người một lúc rồi nhếch mép cười khổ:
– Nhưng chiêu đó căn bản không cần hóa giải...
Nàng hừ một tiếng:
– Ai nói không cần hóa giải?
– Cần gì ai nói. Thấy là hiểu ngay.
Nàng gật đầu:
– Được! Ngươi xem đây!
Nàng từ từ thu trường kiếm về, rồi lại đâm theo chiều hướng cũ.
Đích xác chiêu đó không làm hại gì chàng được.
Nhưng ánh kiếm vừa chớp lên, chàng đột nhiên vừa ngả người vừa vọt xéo về phía sau, ngã ngồi xuống cách đó hai trượng.
Vẻ kinh hãi hiện rõ trên gương mặt chàng.
Nàng lạnh lùng:
– Chiêu đó không cần hóa giải phải không? Tại sao ngươi lại phải tránh đi?
Chàng còn chưa hết kinh sợ:
– Lợi...lợi hại thật! Bây giờ tại hạ mới thấy rõ sự lợi hại của nó.

<< Hồi 57 | Hồi 59 >>


Dành cho quảng cáo

©2007-2008 Bản quyền thuộc về Liên Mạng Việt Nam - http://lmvn.com ®
Ghi rõ nguồn "lmvn.com" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này - Useronline: 784

Return to top