Phương Bửu Ngọc nhìn về phía hậu.
Ngưu Thiết Oa vẫn còn vác con ngựa nơi vai, đứng bên vệ đường, tiểu công chúa đang cố gắng dựng con ngựa của nàng lên.
Phương Bửu Ngọc gọi to:
- Thiết Oa, ngươi đứng đó chờ ta nhé!
Ngưu Thiết Oa cao giọng đáp:
- Tự nhiên, Thiết Oa ở đây đợi đại ca rồi, song còn nàng? Thiết Oa không đủ sức giữ gìn nàng đâu!
Tiểu công chúa ngẩng đầu lên cười lạnh:
- Ngươi yên chí! Nếu ta muốn đi, ta đã đi từ lâu rồi, chẳng đợi đến lúc nầy đâu!
Phương Bửu Ngọc quay mình lại.
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Vậy xin mời đại hiệp!
Cả hai hướng về cánh rừng, đi sâu vào.
Tưởng Tiếu Dân đi trước dẫn đường, Phương Bửu Ngọc bình tỉnh theo sau.
Đi hơn mười trượng rồi, Tưởng Tiếu Dân không hề quay nhìn lại sau, mà cũng chẳng thốt tiếng nào.
Phương Bửu Ngọc định hỏi gì đó, song thấy Tưởng Tiếu Dân có thái độ nghiêm trang quá, chàng lại thôi.
Gió thu thỉnh thoảng lướt qua, lá vàng rơi rụng, chân bước lên những lá đó, lá mới đè lá cũ khô hơn, tiếng xào xào nhè nhẹ chen lẫn với tiếng rắt rắt càng tạo cho khung cảnh thêm lạnh lùng, sơ sác...
Ai nói thu là cảnh tiêu sơ, thật trong lúc nầy lời nói đó đúng vô cùng!
Tưởng Tiếu Dân từ từ chậm bước, vừa chậm bước, y vừa thốt:
- Kể từ hôm đó, huynh đài trở thành thiên hạ vũ lâm đệ nhất nhân, thật đáng mầng cho huynh đài mà cũng chia niềm vui đó với huynh đài!
Phương Bửu Ngọc khiêm nhượng:
- Nhân huynh quá khen!
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Tại hạ Ở đây chờ huynh đài quá lâu! Vì nguyên nhân nào, huynh đài có biết chăng?
Phương Bửu Ngọc điềm đạm:
- Mong nhân huynh chỉ giáo!
Tưởng Tiếu Dân thốt:
- Vì cái việc...
Đột nhiên, một tiếng soảng vang lên, một đạo kiếm quang chớp ngời, biến thành cái mống ngắn, đầu mống kiếm chiếu xuống Phương Bửu Ngọc.
Tưởng Tiếu Dân vừa thốt, vừa rút kiếm ra khỏi vỏ, vừa khoa lên vừa chiếu vào mặt Phương Bửu Ngọc, ngần ấy động tác chỉ diễn ra trong khoảng thời gian vừa vặn ba tiếng nói!
Thiết tưởng trên giang hồ, chưa có ai xuất thủ nhanh bằng y!
Dĩ nhiên, Phương Bửu Ngọc phải kinh hoàng vì sự tấn công bất ngờ đó.
Nhưng, làm gì Tưởng Tiếu Dân xuất thủ liền lại được đắc ý ngay?
Nhất là y xuất thủ trước một Phương Bửu Ngọc?
Cái phản ứng tự nhiên đã nhanh, cái tài của chàng cũng cao diệu, thì đừng nói chỉ một Tưởng Tiếu Dân xuất chiêu trước mặt, dù có thêm hai ba người nữa đồng thời xuất thủ, từ bên tả, từ bên hữu, từ phía sau, chàng vẫn tránh né được như thường.
Lập tức nhanh hơn cái chớp của làn điện, chàng vừa tạt người vừa lùi lại, đủ ngoài tầm kiếm thôi.
Bất quá, tay chàng phất lên, tay áo bay qua, tay áo chạm vào mủi kiếm, kiếm rọc tét một đường.
Từ lúc xuất hiện trên giang hồ, đây là lần thứ nhất chàng phải phản ứng hấp tấp vội vàng, song hấp tấp vội vàng vì bất ngờ hơn là phải gặp một kiếm thủ siêu việt.
Dù sao, chàng cũng phải nhìn nhận kiếm pháp của Tưởng Tiếu Dân đã đạt đến mức hỏa hầu.
Chàng tránh xong chiêu kiếm, buộc miệng tán:
- Kiếm pháp tuyệt diệu!
Hụt chiêu kiếm, Tưởng Tiếu Dân vẫn giữ nguyên bộ vị nghiêng nghiêng người, lạnh lùng thốt:
- Nữu Chuyển Càn Khôn Sát Thủ Kiếm, các hạ có nghe nói đến chăng?
Phương Bửu Ngọc giật mình:
- Tại hạ nghe từng nói, kiếm phái Hải Nam có chiêu Phản Thủ Sát, lợi hại phi thường, có thể cho là vô địch trong thiên hạ. Ngờ đâu hôm nay tại hạ may mắn được trông thấy tận mắt nhân huynh biểu diễn!
Tưởng Tiếu Dân lạnh lùng tiếp:
- Tưởng Tiếu Dân nầy chờ đợi các hạ tại đây rất lâu, là cốt dùng chiêu kiếm đó, lấy tánh mạng cát hạ, các hạ có biết như vậy chăng?
Y thở dài tiếp:
- Không tưởng là các hạ vẫn tránh được!
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Tại hạ với nhân huynh vốn không cừu oán, tại sao nhân huynh có ý đó đối với tại hạ?
Tưởng Tiếu Dân nhìn chàng một lúc lâu đáp:
- Khắp trong thiên hạ, bất cứ một kiếm phái nào hay thu hẹp hơn, bất cứ một kiếm thủ nào, cũng đều có một Sát Thủ pháp phòng thân, nếu chẳng gặp trường hợp bất khả kháng thì tuyệt nhiên không nên xử dụng, do đó khách giang hồ dù có nghe nói đến, chứ dể mấy ai mục kích tận tường?
Y lại cười lạnh mấy tiếng rồi từ từ tiếp:
- Không mục kích tận tường những Sát Thủ pháp bí truyền đó, là một đại hạnh phúc, bởi kẻ nào trông thấy, kẻ đó không thể sống sót.
Phương Bửu Ngọc thở dài:
- Khi các hạ thi triển đường kiếm đó rồi, chắc chẳng có mấy ai được thoát chết!
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Đường kiếm của tại hạ, đành rằng cay độc, song trên giang hồ, những đường kiếm cay độc hơn chẳng biết thực số như thế nào!
Phương Bửu Ngọc gật đầu:
- Các hạ nghĩ đúng, cho nên khó mà phân định được sự hơn kém, khó mà thừa nhận cái giá trị tuyệt đối của sát thủ pháp bí truyền của mỗi người, mỗi phái!
Tưởng Tiếu Dân bỗng nghiêm giọng thốt:
- Kể từ hôm nay, tại mỗi chặng đường, các hạ sẽ gặp một người, chờ đón như tại hạ, để xử dụng một sát thủ pháp của họ, nếu tránh được một sát thủ pháp, là các hạ biết ngay cách giải phá. Càng biết cách giải phá những đường bí truyền, các hạ sẽ nắm cái cơ tất thắng trong tay khi đối phó với người áo trắng trong tương lai.
Phương Bửu Ngọc thoáng biến sắc:
- Nếu không tránh được?
Tưởng Tiếu Dân quát:
- Thì sẽ như thân cây nầy!
Y quay phắt mình, thanh kiếm quét ngang, thân cây bên cạnh bị tiện hạ, chồi trơ ra đó, tàng trịch qua một bên rồi ngã xuống, một tiếng ầm vang lên.
Đoạn y cao giọng tiếp:
- Nếu không tránh nổi những sát thủ đó, các hạ phải bại nơi người áo trắng là cái chắc. Và như vậy, đời cần gì phải có một Phương Bửu Ngọc? Vũ lâm cần gì phải đặt kỳ vọng nơi Phương Bửu Ngọc?
Phương Bửu Ngọc sững sờ một lúc, rồi trầm giọng thốt:
- Những vị kiếm khách đó, nào có cừu hận chi với tại hạ? Bất quá họ muốn cho tại hạ phải thắng người áo trắng, họ quá nhiệt tình nên tiết lộ bí học, giúp tại hạ có một kiếm thuật tân kỳ!
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Các hạ hiểu được như vậy, là không uổng sự dụng tâm khổ sở của họ!
Phương Bửu Ngọc thở dài:
- Tuy nhiên tránh được thì tại hạ thu thập ích lợi, không tránh được thì tại hạ mất mạng! Dù sao, cái mỹ ý đó ngang bằng với ác ý!
Chẳng rõ, tại sao các vị ấy dồn tại hạ vào cảnh chết?
Tưởng Tiếu Dân rùn vai:
- Ngày nay các hạ đã trở thành đệ nhất danh kiếm trong thiên hạ, nếu có người thắng nổi cát hạ, người đó phải nổi tiếng ngay, phàm đã luyện kiếm thì có ai lại chẳng muốn mình được nổi tiếng? Đã muốn nổi tiếng thì những kẻ luyện kiếm có ai lại không muốn sát hại các hạ?
Thoáng nhìn qua các hạ cho là ác ý, song nghĩ kỹ, các hạ sẽ công nhận là lẽ công bình!
Phương Bửu Ngọc rợn người:
- Nhưng... việc ấy...
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Việc ấy làm sao chứ? Trên thế gian nầy, có vật gì quý mà dễ chiếm đoạt đâu? Người ta đem sanh mạng đổi lấy chút danh dự, còn các hạ đem sanh mạng để đổi lấy bí học của người ta, kể ra cũng công bình, theo tại hạ nghĩ thì chẳng có gì đáng cho các hạ phải lấy làm thắc mắc!
Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút, lại bật cười dài:
- Đời là canh bạc, mà vật đánh cuộc là sanh mạng con người!
Chàng lại cười rồi tiếp:
- Phía sau sanh mạng của mỗi người, mới là cái đích chánh của một canh bạc, bởi thắng cuộc không hẳn để chiếm cái mạng sống của người gây cuộc đặt làm vật cuộc, mà để chiếm những cái gì do sanh mạng đó lưu lại.
Bỗng, Tưởng Tiếu Dân quát to:
- Phương Bửu Ngọc! Ta đã nói hết những gì muốn nói với ngươi!
Liều sống chết với nhau, hẳn phải công bình, nếu đường kiếm của ta không làm tổn thương đến ngươi, thì ta phải chết, ta chẳng khi nào trốn tránh cái chết!
Thanh kiếm trong tay y vụt chớp lên, biến thành một cái mống bạc, uốn vút xuống đầu Phương Bửu Ngọc.
Phương Bửu Ngọc hét:
- Dừng tay! Tại sao các hạ hành động như vậy?
Tưởng Tiếu Dân không đáp, cứ vung kiếm tấn công tới tấp.
Kiếm pháp của y quả đã luyện đến mức siêu thần nhập hóa, mỗi nhát kiếm lợi hại phi thường.
Huống chi, y quyết liều sống chết như y đã nói, nếu hạ được Phương Bửu Ngọc, thì thinh danh của y tức khắc vang rền, do đó y tận dụng tài năng và công lực để thủ thắng.
Cho nên đấu pháp của y cực kỳ ác liệt.
Phương Bửu Ngọc không có ý sát hại y, chàng không hề hoàn thủ, chỉ dùng thân pháp linh diệu tránh né thôi.
Vô Tình công tử, quả có kiếm pháp vô tình, song qua một lúc lâu, kiếm pháp đó chẳng làm gì nổi Phương Bửu Ngọc dù chàng chỉ tránh né.
Không một mủi kiếm nào chạm phải chiếc áo chàng, chứ đừng nói là chạm đến da thịt.
Ngày thu dần tàn.
Gió thu dần dần mạnh với đêm sắp về, gió rung chuyển cành cây, lá rơi chập chờn, phản ánh tà dương, kiếm quang chớp lên, khí khí chập trùng.
Chiều thu lạnh, càng thêm lạnh với tử khí càng phút càng tỏa rộng, càng nặng động.
Đột nhiên, Tưởng Tiếu Dân bật cười cuồng dại:
- Tốt lắm! Phương Bửu Ngọc ngươi không có ý giết ta! Tại sao hở Phương Bửu Ngọc? Ngươi muốn gì?
Phương Bửu Ngọc trầm giọng:
- Các hạ hãy đi đi!
Tưởng Tiếu Dân hừ một tiếng:
- Chạy đi? Con nhà võ đâu có thể chạy đi dễ dàng như vậy. Con nhà võ chỉ có một việc dễ dàng nhất, là chết! Mà trên đời nầy, ai không thích làm chuyện dễ dàng?
Một vòi máu vọt ra, vọt từ ngực y, vòi máu tiếp tục vọt.
Y đã hoành kiếm đâm thốc vào ngực.
Phương Bửu Ngọc hét lên:
- Tưởng huynh!... Tưởng Tiếu Dân! Huynh đài... huynh đài...
Trường kiếm cắm nơi ngực Tưởng Tiếu Dân còn rung rung, máu đã nhuộm đỏ chùm tơ nơi chuôi, gió phất qua chùm tơ rung rung, máu từ chùm tơ rõ xuống từ giọt, đều đều.
Nhưng, thân hình của Tưởng Tiếu Dân còn đứng sừng sững như pho tượng.
Máu ngưng vọt, nhưng lại chảy ròng ròng, nhuộm đỏ áo y, máu chảy xuống quần, ướt sũng trọn y phục nhanh chóng.
Máu càng chảy ra, gương mặt y càng biến nhợt nhạt.
Y chưa chết, y còn nói được, tuy giọng nói phều phào:
- Trí mạng với nhau, tất phải công bình, không còn chọn cách nào khác hơn, thắng là sống, bại là chết, chỉ có những kẻ hèn mới tham sống sau cái bại!
Y trừng mắt, cắn răng, đưa tay rút phăng lưỡi kiếm ra khỏi ngực.
Vết thương bỏ ngỏ, máu theo kiếm vọt ra mạnh hơn lúc đầu, mạnh để rồi ngưng lại ngay, và tiếp tục chảy xuống.
Đến bây giờ thân thể y mới chịu ngã, y ngã song đôi mắt chưa nhắm, y còn nhìn Phương Bửu Ngọc, giọng nói yếu ớt hơn nhiều:
- Phương Bửu Ngọc! Ngươi cũng là con nhà võ, ngươi nên xem trọng ta... Ta có việc yêu cầu ngươi... ngươi đừng quên...
Giọng nói đã bắt đầu khàn khàn, khó nghe lắm rồi, và lời nói hàm hồ quá, cuối cùng thì những lời nói y cốt đưa ra, là tắt ngay nơi cuống họng.
Tịch mịch! Tịch mịch đến lạnh lùng!...
Một cơn gió quét qua phất tung tà áo Phương Bửu Ngọc.
Nhưng chàng vẫn còn đứng đó. Chàng không thể cất bước liền trong trường hợp nầy!
Một khắc trước đây, chàng còn tin tưởng bằng hữu giang hồ thành thật với chàng, đặt trọn kỳ vọng nơi chàng. Tất cả đều một lòng thương mến chàng, hỗ trợ chàng trong mọi mặt, ủng hộ tinh thần tiếp giúp vật chất.
Giờ đây, chàng thức ngộ ra, tất cả đều có bề trái, và bề trái của những người chàng tin là bằng hữu đó, có chứa chất một ý chí trừ diệt chàng.
Với chiêu bài giúp chàng tinh tiến kinh nghiệm, chuẩn bị một trận tuyến đối phó với người áo trắng từ ngoài khơi Đông Hải sang năm, họ mong muốn thực hiện ý chí đó, không hơn không kém.
Họ dồn chàng vào tử địa, bắt chàng tự tìm cái sống trong cái chết, song họ vẫn cho mình là người ơn của chàng, cái ơn thành toàn kiếm thuật cho chàng!
- Trời!
Một cái ơn ngang giá sanh mạng! Muốn nhận cái ơn đó chàng phải đùa với tử thần!
Trên thế gian nầy, có ai thích nhận ơn theo lối đó chăng?
Nhưng, chàng không thể tránh loại ơn đó, chàng sẽ chui qua dưới lưỡi hái của tử thần, để tiếp nhận loại ơn đó, chui nhiều lần bởi có nhiều người sẵn sàng “Thi ơn” với chàng!
Bây giờ chàng nhận thức ra sự đối lập trên giang hồ quá tế nhị, càng tế nhị hơn là cái thế đối lập lại nằm trong phạm vi ơn nghĩa, dùng phương tiện ơn nghĩa để giữ vững cái thế đối lập!
Chàng cúi đầu lặng nhìn thi thể của Tưởng Tiếu Dân, tự nhiên lệ thảm trào dâng, thoát khỏi viền mi, từ từ kết thành giòng lăn dài xuống má, chàng lẩm bẩm:
- Các hạ chết! Cái chết như thế, cái chết có giá trị gì? Trừ cái chết ra, các hạ chẳng còn một phương pháp nào khác sao? Chẳng còn một lối nào khác cho các hạ sao? Các hạ kỳ quái, tất cả người trên giang hồ chẳng lẽ cũng kỳ quái như cát hạ? Các hạ yêu cầu việc gì...
Bỗng chàng thấy một mảnh giấy ló ra nửa phần nơi ống tay áo Tưởng Tiếu Dân.
oo Không, chẳng phải một mảnh giấy, mà là một phong thơ!
Phong thơ, hẳn là dành cho Phương Bửu Ngọc.
Phong thơ đó, đại để ghi những ý tứ như thế nầy:
- Xem thường sanh mạng cùng huynh đài khai diễn ác chiến, sống được là thành danh, nếu danh chẳng thành thì thân phải hủy diệt, huynh đài đã hiểu cái ý của tại hạ như vậy. Từ lúc ly gia đến đây chờ huynh đài, ra khỏi cửa là tại hạ thừa hiểu một đi vĩnh viển, đi không có ngày về, đi sống nhưng không về sống. Biết đó là chết, vẫn vui mà đi để được chết vui. Thời gian mấy mươi năm tuy đếm từng ngày thì dài thật, song qua rồi ngảnh mặt lại nhìn mới thấy chẳng có là bao, thì mấy phút ân tình, phỏng có giá trị gì bên cạnh hạn định một kiếp nhân sanh? Tại hạ ra đi, không hề lưu luyến tình nhà, song người ở lại sao khỏi hoài mong tin nơi phương trời xa thẳm? Cho nên trước khi lâm chung, chắc chắn là phải có phút lâm chung khi gặp huynh đài, tại hạ có mấy giòng nầy ghi sẵn, tại hạ tắt thở rồi, mấy giòng chữ sẽ hiện ra dưới mắt huynh đài, mấy giòng chữ thay tại hạ khẩn cầu huynh đài chuyển cái tin từ biệt nầy đến người đang dõi mắt trên đường trường chờ đón một bóng hình của kẻ một đi không trở lại.
Lời nói khẳng khái, tỏ rõ cái khí phách của một con người, lời nói tuy có khô khan nhưng chỉ là cái khô khan giả tạo của một con người, vì chí tang bồng bắt buộc phải quên những gì nồng ấm cần thiết cho con tim!
Phương Bửu Ngọc thở ra, than:
- Tưởng Tiếu Dân! Tưởng Tiếu Dân! Đã nặng quan hoài với người mình tha thiết, tại sao ngươi không tha thiết với sanh mạng của ngươi?
Khinh thường sanh mạng của ngươi, là khinh thường cái lưu luyến của ai kia, ngươi lấy sự vô tình đối đãi lại sự hữu tình, ngươi chết đi, tròn mộng của ngươi, ngươi có nghĩ chăng người nấp bên cửa sổ chờ vó ngựa của ngươi trở về sẽ vỡ mộng, mộng vỡ rồi thì đời cũng vỡ luôn! Ngươi có nghĩ đến những ngày thừa thãi của kẻ kia sẽ âm u thê thảm bao nhiêu chăng, nếu vắng bóng một người? Vắng bóng ngươi dưới gầm trời nầy?
Bên trong phong thơ để cho Phương Bửu Ngọc, còn có phong thơ khác, nơi bì thơ, có mấy hàng chữ:
- Chủ nhân Tinh Tinh tiểu lâu tại Nhiễm Hồng sơn trang, tự tay mở xem!
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Nhiễm Hồng sơn trang? Ở đâu? Chủ nhân Tinh Tinh tiểu lâu là ai?
Rồi chàng lại nhìn thi thể của Tưởng Tiếu Dân, lẩm nhẩm:
- Tuy nhiên, ngươi yên tâm, Tưởng Tiếu Dân, vô luận làm sao ta cũng chuyển phong thơ nầy đến tay người có quyền mở xem!
Dĩ nhiên, chàng phải mai táng thi hài của Tưởng Tiếu Dân, chàng cũng chôn theo thanh trường kiếm của y, cho y vẫn còn là kiếm khách nơi dạ đài.
Tà dương xuống mau, gió thu lồng mạnh...
Nhìn cảnh thu thê lương, Phương Bửu Ngọc man mác tình hoài tưởng vọng về tương lai...
Chàng quay mình, từ từ trở lại vệ đường.
Nơi vệ đường, một số hào kiệt anh hùng đang bao vây Ngưu Thiết Oa, song phương đang cười cười nói nói với nhau.
Con ngựa bị ngã, đã chết, nằm lù lù một đống gần đó.
Nó chết, không vì ngã, mà vì tiểu công chúa đánh chết.
Và lúc đó, tiểu công chúa đang ngồi lên thi thể nó, mặt nàng ửng đỏ, như tinh thần đang phấn chấn, miệng nàng điểm phớt nụ cười, nàng có cái vẻ như đang nói với con ngựa:
- Bây giờ, thì ngươi chắc chắn không còn hất ta xuống đất nữa rồi vậy!
Phương Bửu Ngọc rùng mình, nhớ lại bảy năm về trước, tại con thuyền buồm ngũ sắc, chàng hơn một lần mục kích sự biểu lộ tánh tình của tiểu công chúa, thương là nâng niu như châu báu, ghét là hủy bỏ như cỏ rác, đã thế, nàng còn thoạt yêu thoạt giận, thành ra chẳng ai hiểu nổi lúc nào nàng vui vẻ, lúc nào nàng cáu kỉnh, và vui vẻ hay cáu kỉnh được bao lâu?
Đó cũng là một đoản kiếm, cũng như cái đoản kiếm của Tưởng Tiếu Dân!
Con người chịu quá nặng ảnh hưởng của sở đoản, thì khó mà thành tựu lớn lao trên đời.
Chàng thầm nghĩ:
- Nàng có một ngoại lệ nào đối với ta chăng? Hay nàng chỉ xem ta như tất cả mọi người?
Ngưu Thiết Oa vừa trông thấy chàng, sáng rực ánh mắt lên, vội bước tới:
- Đại ca ơi! Mấy vị nầy nghe tin gió mà đến, đến để nhìn mặt đại ca, người trên giang hồ sao mà dành nhiều ưu ái đối với đại ca quá như vậy chứ? Tôi nghĩ từ đây mà đi tới, chúng ta sẽ gặp nhiều điều khoái ý lắm!
Phương Bửu Ngọc còn nặng ảnh hưởng của cái chết vừa qua, cái chết của Tưởng Tiếu Dân, cái chết của con ngựa, chàng nhếch nụ cười thảm, thốt:
- Thật vậy hở, Thiết Oa? Chúng ta mong được như vậy!
oo Bình Âm, là một bến sông, sông là Huỳnh Hà.
Phàm là một thị trấn dù nhỏ, cũng có đông người, huống chi lại là một bến sông, địa điểm chiêu tập khách đường bộ lẫn khách đường thủy.
Khách sạn An Bình hướng mặt về giòng sông, ngồi nơi lầu cao khách sạn, nhìn rõ những lượn sóng bủa trập trùng, giòng sông chảy mạnh, sóng dợn theo, sóng sau đùa sóng trước chuyển động ầm ầm.
Sông rộng trải dài ngoài ngàn dặm, nhìn đuối mắt chưa thấy thân cây, mênh mang như biển.
Đêm nay, thành Bình Âm náo nhiệt hơn ngày thường, tất cả quán rượu phòng trà đều đông nghẹt khách hàng, đến cả những hiệu buôn cũng ồn ào khách vào ra.
Dĩ nhiên, phải có những khách từ phương xa đến, tăng phần náo nhiệt một nơi đã nhiệt náo rồi.
Khách, ngoài một số con buôn dừng chân qua các cuộc ngược xuôi, còn thì toàn là những người có tham dự trong cuộc đại hội Thái Sơn.
Sau ngày giải tán, họ tản mác ra bốn phương trời, và một phần lớn đổ về đây.
Nhưng, nhiệt náo ở bất cứ nơi nào trong thành thị, từ hang cùng hẻm cụt, đến các con đường lớn, khách ồn ào, riêng tại An Bình khách sạn thì hoàn toàn im lặng, đúng với cái tên An Bình của nó.
Bởi, nơi đó Phương Bửu Ngọc thuê phòng, và hào kiệt anh hùng không hẹn mà đồng, đều xem là một nơi đất cấm.
Những ai đi qua đó, đều phải im hơi lặng tiếng, cốt giữ sự yên tịnh cho vị thiếu niên anh hùng kỳ vọng của vũ lâm, nếu thắng được người áo trắng từ ngoài khơi Đông Hải, thì sẽ là cột trụ vũ lâm luôn.
Họ cố giữ sự yên tịnh cho chàng, để chứng tỏ lòng thành kính đối với chàng.
Đi ngang qua đó mà phải im lặng thì dù sao cũng có phần nào khó chịu, thà đi qua những con đường khác còn hơn.
Song ai ai cũng muốn đi, đi để có dịp may bất ngờ nhìn thấy bậc cao tài nhưng nhỏ tuổi.
Đêm đã xuống rồi, đêm xuống dần dần, rồi đêm về khuya, đêm xuống thì trăng lên, đêm xuống càng khuya, trăng càng sáng càng lạnh.
Cảnh ồn ào của thị thành cũng dần dần lắng dịu.
Phương Bửu Ngọc ngồi tựa mình bên trong cửa sổ, lòng miên man nghĩ ngợi mông lung.
Chàng nhìn ra giòng sông, sóng vẫn còn nhấp nhô tuy gió đã nhẹ lại rất nhiều, nước cuốn theo giòng đùa sóng xuôi về xa xăm, lòng chàng cũng cuộn chảy như con sông dài vô tận, sông chảy không ngừng, tâm tư chàng cũng dao động không ngừng!
Đột nhiên, trên giòng sông hiện ra một con thuyền nhẹ, con thuyền rẽ nước tiến nhanh như tên, trạo phu hẳn phải là những tay suốt đời ăn gạo chợ, uống nước sông, quen thủy tánh như cơm hằng bữa.
Họ giữ con thuyền rất ổn, tuy sóng dập gió nhồi, gia dỉ họ có những cánh tay lực sĩ, đẩy mái chèo nhanh chóng phi thường.
Trên sông, dù là về đêm, thuyền xuôi ngược vẫn nhiều, không kể những chiếc neo giữa vời, neo gần bờ, thế mà con thuyền nhẹ đó lách qua lách lại, tránh né tài tình, dù tránh né vẫn giữ tốc độ như cũ chẳng hề chậm lại.
Nếu để ý một chút, tất nhận thấy con thuyền đó phải đặc biệt hơn cả mọi thuyền, bởi cái vẻ vội vàng lướt sóng của nó.
Khách thương hồ có ai gấp vội như thế đâu? Trừ phi chở bệnh nhân khẩn cấp, hoặc bị săn đuổi, thì có ai gắng sức như thế?
Phương Bửu Ngọc vốn tánh thận trọng, nhận định ngay cái vẻ khác biệt của con thuyền đó.
Nhận ra sự khác biệt của nó, đương nhiên chàng phải chú ý.
Nơi bờ sông, gần khách sạn An Bình, có bến nước, ngôi nhà che mưa nắng cho khách lên đò quá cũ kỹ, đến thềm đá cũng quá cũ kỹ.
Con thuyền nhẹ trên sông nhắm bến sông đó tiến đến, gần đến nơi bẻ lái ngoặt vào.
Phương Bửu Ngọc giật mình, dưới sông người trên thuyền đã quăng giây bám đầu trụ.
Thuyền vừa ngừng, từ trên thuyền, một đại hán phi thân lên bờ.
Dưới ánh trăng đại hán hiện ra với thân pháp cực kỳ nhẹ nhàng, cử động nhanh nhẹn, y chớp chớp đôi mắt, ánh chớp sáng lạ thường, y nhìn ra bốn phía, y bắt gặp bóng Phương Bửu Ngọc bên trong cửa sổ vội bước thẳng đến.
Biết vậy,chàng vẫn trấn định tâm thần, thử xem đại hán đó sẽ làm gì.
Đại hán đi thẳng đến cửa sổ, cửa cao y đứng ở bên ngoài đầu ngang bệ, y nhìn Phương Bửu Ngọc một chút, đoạn nghiêng mình trầm giọng hỏi:
- Phương đại hiệp phải không?
Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:
- Chẳng dám nhận hai tiếng đại hiệp! Các hạ có điều chi chỉ giáo?
Đại hán không đáp, bước tới gần hơn một chút lấy trong mình ra một phong thơ, hai tay trao lên đồng thời đáp:
- Tiểu nhân vâng lệnh thượng cấp, mang đến trình đại hiệp!
Phương Bửu Ngọc tiếp lấy phong thơ, nhìn thoáng qua bên ngoài.
Đại hán cúi đầu:
- Tiểu nhân xin cáo thoái!
Y lui ba bước, toan quay mình, Phương Bửu Ngọc quát khẽ:
- Hãy khoan!
Đại hán hỏi:
- Phương đại hiệp còn điều chi phân phó?
Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút:
- Các hạ đợi một chút, biết đâu tại hạ chẳng cần hồi âm?
Chàng mở phong bì, bóc thơ xem liền.
Tờ thơ chỉ có mấy chữ:
- Canh tư, qua sông Hoàng Hà có thuyền đèn đỏ đón!
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Chủ nhân các hạ sao chẳng chỉ rõ địa điểm, để tự tại hạ đi? Bày vẽ cái lối mỗi đoạn đường mỗi gởi tin như thế nầy? Không ngại làm lụy phiền người ta sao chứ? Mà còn lụy phiền cho mình nửa đấy!
Đại hán nghiêng mình:
- Tiểu nhân chỉ biết có mỗi một việc mang thơ, ngoài ra thì không dám hiểu gì khác!
Phương Bửu Ngọc lại hỏi:
- Hành động như vậy, hẳn chủ nhân các hạ có điều gì ẩn bí chứ?
Đại hán nghiêng mình:
- Tiểu nhân không dám biết gì hơn ngoài nhiệm vụ được ủy thác!
Phương Bửu Ngọc thở dài:
- Được rồi! Các hạ cứ đi!
Đại hán nghiêng mình lần cuối:
- Xin cáo từ đại hiệp!
Hắn đi nhanh xuống thuyền, mở giây, gảy chèo.
Con thuyền rẽ nước lướt đi, vẫn tốc độ như trước, chừng như hắn tranh thủ thời gian, chừng như hắn thuộc một tổ chức mà bất cứ hành động nào cũng có tánh cách khẩn cấp.
Nhìn con thuyền ra giữa giòng sông rồi, Phương Bửu Ngọc tự thốt:
- Tại sao đến hôm nay mà Hỏa Ma Thần vẫn còn giữ vẻ bí ẩn với ta? Lão có mưu toan một điều gì bất lợi cho ta chăng!
Vừa lúc đó, con thuyền khác, cũng thuộc loại thuyền nhẹ nhưng lại có buồm, cánh buồm trương ra, bọc no gió từ thượng lưu xuôi xuống, nhanh như tên bắn.
Bình sanh, Phương Bửu Ngọc chưa từng thấy thuyền nào lướt nhanh bằng.
Một tốc độ kinh khủng!
Tuy còn xa, tuy đang đêm, Phương Bửu Ngọc vẫn thấy mờ mờ ba bóng người.
Con thuyền sau nhắm con thuyền trước mà tiến tới.
Đại hán trên thuyền trước kinh hãi, hấp tấp lái thuyền mình tránh qua một bên, đồng thời quát lên:
- Các ngươi đã điên hết rồi chăng? Cấp tốc quay thuyền lại!
Từ bên thuyền sau, hai đường giây cảo được quăng sang, đầu giây cảo dĩ nhiên có móc câu, trong thoáng mắt, hai con thuyền được liên kết với nhau liền.
Đại hán kêu lên kinh hãi:
- Phương đại hiệp! Xin cứu mạng!
Tiếng kêu của hắn còn âm hưởng trong không gian, Phương Bửu Ngọc đã vọt mình ra cửa sổ, nhưng đại hán đã bị kéo qua con thuyền kia rồi.
Cấp tốc con thuyền đó quay mũi, xuôi giòng, thuyền lướt đi như tên bắn.
Thuyền lướt đi, hai đường giây cảo còn lại đó, giây cảo dính vào con thuyền không bập bềnh trên giòng nước.
Sự việc diễn ra trong khoảng một cái nháy mắt, Phương Bửu Ngọc đứng trên bờ, nhìn theo hút con thuyền, lòng hết sức kinh dị.
Chàng tự hỏi, ba bóng người trên thuyền là ai? Sao lại bắt gã thuộc hạ của Hỏa Ma Thần?
Bắt gã đó để làm gì?
Hỏa Ma Thần hành sự vô cùng bí ẩn, không lẽ sự bí ẩn đó chỉ có một lý do là tránh né ba người nầy?
Và nếu lo sợ như vậy, tại sao Hỏa Ma Thần không chỉ ngay địa điểm gặp nhau cho chàng, lại chỉ từng giai đoạn một làm chi? Từ Vạn Trúc sơn trang, đến Bình Âm thành, rồi từ Bình Âm thành sang bên kia bờ Hoàng Hà? Rồi từ bờ kia, có người đưa đến nơi nào khác nửa?
Tại sao lão làm như thế?
Nếu lão chỉ ngay địa điểm, chỉ một lần thôi, thì đã tránh được bao nhiêu phiền phức chăng?
Lão bỏ cái dể làm cái khó, thế là nghĩa lý gì? Thật chẳng làm sao đoán định được ý tứ của lão.
Phương Bửu Ngọc dù thừa thông minh, gặp trường hợp nầy vẫn chịu thôi chẳng làm sao suy ra lẽ.
Chàng quay đầu nhìn lại thấy tiểu công chúa đã ra đến nơi chẳng rõ từ lúc nào.
Gió sông thổi mạnh, phất bay tà áo trắng của nàng, tà áo uốn lộn như sóng lượn nhồi nhồi, tà áo trắng phản ảnh với suối tóc đen cùng buông trôi theo làn gió.
Giữa hai màu đen trắng đó, gương mặt trắng hồng của nàng hiện ra, đẹp vô cùng, đẹp ảo huyền mông lung.
Càng đẹp hơn là đôi mắt đen lay láy, chớp sáng ngời như hai vì sao trời gắn bên cạnh đường mi cong xanh mượt...
Nàng đứng đó bất động, nàng cũng chẳng thốt tiếng nào.
Nàng hiện ra ảo huyền, nàng lại im lặng như bóng ma, sự xuất hiện của nàng càng khoác cái vẻ u linh, lành lạnh...
Lâu lắm, Phương Bửu Ngọc mới cất tiếng hỏi:
- Cô nương ra đây từ bao giờ?
Tiểu công chúa buông gọn:
- Không lâu!
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Cô nương có nghe thấy chứ?
Tiểu công chúa gật đầu:
- Có!
Phương Bửu Ngọc lại hỏi:
- Cô nương hiểu chứ?
Đến bây giờ, Tiểu công chúa mới giương mắt nhìn chàng, từ từ hỏi lại:
- Hiểu cái gì?
Phương Bửu Ngọc trầm giọng:
- Tại sao Hỏa Ma Thần lại làm như thế? Ba kẻ đó là ai? Cừu nhân của Hỏa Ma Thần ? Bắt người mang thơ tín, để làm gì?
Tiểu công chúa điềm nhiên điểm nhẹ cụ cười.
Chẳng những thế, nàng còn ngảnh mặt nhìn một hướng khác.
Chàng hỏi một lúc mấy điều, nàng đáp lại bằng một nụ cười nhạt, lại tỏ thái độ lạnh lùng.
Phương Bửu Ngọc lướt tới trước mặt nàng, cao giọng:
- Những điều đó, cô nương biết, phải biết, chắc chắn là có biết! Tại sao cô nương không nói cho tại hạ biết? Tại sao cô nương nín lặng?
Chàng nói lớn, song tiểu công chúa như chẳng nghe gì.
Nàng mơ màng nhìn những đợt sóng trắng dưới ánh trăng, tâm thần nàng như phiêu phưởng tận phương trời nào...
Mường tượng là nàng có hiểu nhiều, mà cũng phảng phất là nàng chẳng hiểu chi cả.
Phương Bửu Ngọc nhìn nàng một lúc lâu, đôi mắt chàng từ từ hạ thấp, cuối cùng chàng thở dài não nuột.
Rồi chàng thốt:
- Canh tư đêm nay, chúng ta lên đường. Cô nương nên thu xếp hành trang đi!
Tiểu công chúa lẩm nhẩm vẻ xa xăm:
- Canh tư!... - Canh tư!...
Nàng từ từ quay đầu lại giương mắt nhìn chàng, nhếch khẽ một nụ cười rồi bước đi.
Dáng đi yểu điệu, cái dáng dịu dàng nhẹ lướt trong bóng đêm trông huyền ảo làm sao!
Nàng đi rồi, nụ cười của nàng còn ở lại. Ở lại nơi ánh mắt của Phương Bửu Ngọc, ở lại nơi tâm tư chàng...
oo Đêm càng về khuya, gió thu càng lộng mạnh, gió thu lay động cành lá lao xao.
Lòng người cũng lao xao như cảnh vật bị gió thu lay!
Xa xa, trống lầu thành điểm lên bốn tiếng, đều đều, vô tư, như muôn thưở.
Canh tư!
Phương Bửu Ngọc, Ngưu Thiết Oa, và Tiểu công chúa đã có mặt tại bờ sông.
Sao trên nền trời bắt đầu nhạt, bắt đầu thưa, những ngôi sao sợ ngày, đã bắt đầu ẩn tránh, số còn lại không đủ soi sáng cảnh đêm, bởi vầng trăng cũng nhạt mờ dần.
Tuy nhiên, họ vẫn thấy mặt sông rõ ràng, họ thấy rõ từng chiếc thuyền một neo cột dọc ven sông, cũng có một vài chiếc xuôi giòng...
Ngưu Thiết Oa thán oán:
- Hỏa Ma Thần đúng là một lão chuyên tâm gây phiền lụy cho người đời! Mình đang ngủ ngon lành, lại tìm cách dựng đứng mình lên, bắt ra bờ sông đón gió lạnh đêm khuya! Khổ! Chẳng rõ tại sao lão cướp mất cái sướng của mình mãi!
Gã nói như một đứa bé càu nhàu, mất cái ấm nơi lòng mẹ, mất cái tịnh nơi phòng kín.
Những lời nói của gã làm cho Phương Bửu Ngọc động tâm.
Chàng thầm nghĩ:
- Hỏa Ma Thần có dụng ý gì? Lảo định làm tiêu hao tâm, khí và thần của ta chăng? Lảo muốn cho ta trở thành bất lực lúc đương đầu với người áo trắng của Tam Đảo Đông Doanh?
Chàng nghi hoặc, chàng kinh hải.
Tiểu công chúa cùng buột miệng thốt một câu, dù là câu rất ngắn!
- Canh tư! Canh tư đã đến rồi!
Mặt sông vẫn y nhiên với sóng đùa, với những mảnh trăng bạc nhấp nhô.
Thuyền đâu?
Đèn đỏ đâu?
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Kỳ quái!... Tại sao...
Đột nhiên, Ngưu Thiết Oa kêu lên:
- Cái gì kia?
Phương Bửu Ngọc lập tức quay đầu nhìn về hướng Ngưu Thiết Oa đang chỉ tay.
Nơi đó có hai bóng người đi song song nhau, người bên hữu xách một chiếc giỏ, người bên tả cầm một chiếc đèn lồng màu đỏ.
Hai người đều mặc y phục đen, dưới ánh đèn đôi mắt của họ chớp sáng rực.
Tuy còn xa, Phương Bửu Ngọc vẫn thấy rõ ánh mắt của họ có vẻ kinh khủng.
Họ kinh khủng nhưng chàng lại linh cảm là có một sự bất tường, và sự bất tường đó phát xuất ngay từ người của họ.
Gương mặt của họ trắng quá, trắng đến biến thanh xanh xanh, màu da mặt đó hiện ra dưới ánh đèn đỏ làm tăng gia cái vẻ huyền bí của họ.
Ngưu Thiết Oa thấp giọng:
- Có phải chúng nó chăng?
Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút:
- Đèn đỏ đã có rồi, nhưng lại chưa có thuyền!
Hai người đó đi dọc theo bờ sông, đến trước mặt Phương Bửu Ngọc, mặt họ hết sức lạnh lùng, họ chẳng nhìn chàng, họ chẳng nói tiếng gì, họ chuyển mình, nhảy xuống sông.
Nơi họ nhảy, dĩ nhiên có một con thuyền, và họ nhảy xuống con thuyền đó chứ chẳng phải nhảy xuống nước.
Họ vào trong khoang một lúc lâu, một người từ trong khoang bước ra, treo ngọn đèn đỏ nơi một chiếc cột, có lẽ là cột buồm, nhưng chẳng thấy buồm đâu cả.
Phương Bửu Ngọc bây giờ mới đáp câu hỏi của Ngưu Thiết Oa:
- Phải rồi!
Chàng, Ngưu Thiết Oa, và Tiểu công chúa bước đến gần.
Người đó cất tiếng:
- Phải Phương đại hiệp chăng?
Phương Bửu Ngọc gật đầu:
- Phải!
Người đó tiếp:
- Xin mời xuống thuyền!
Thốt xong, hắn lấy ngọn đèn xuống, thổi tắt liền.
Trong thuyền có ba người, áo ngắn, chân không, có vẻ là trạo phu ngồi nơi một góc.
Hiển nhiên cả ba đều bị điểm huyệt.
Bọn Phương Bửu Ngọc xuống thuyền rồi, một người ở bên ngoài gảy chèo, một người ở bên trong đốt lên ngọn đèn khác.
Nhìn ba đại hán nơi góc thuyền, Phương Bửu Ngọc hỏi người kia:
- Chính các vị hạ thủ?
Người đó đáp:
- Phải!
Phương Bửu Ngọc thở dài:
- Các vị không chuẩn bị thuyền, lại tùy ý đoạt thuyền của người khác, hẳn có mục đích tạo cái vẻ huyền bí cho hành động, để cho thiên hạ không ai biết thế nào mà truy nguyên ra!
Người đó lạnh lùng:
- Phải!
Phương Bửu Ngọc hỏi:
- Các vị làm thế, hẳn cố trốn tránh một người. Người mà các vị trốn tránh là ai?
Người đó không đáp, cầm chiếc giỏ cung cung kính kính trao cho Tiểu công chúa.
Tiểu công chúa cau mày:
- Cái gì đấy?
Người đó cung kính thốt:
- Những thực vật cô nương thích dùng nhất!
Tiểu công chúa lộ vẻ hân hoan:
- Ạ! Thật vậy sao?
Nàng tiếp chiếc giỏ, mở nắp ra, thấy trong đó có đôi đũa và cái chén bằng bạc, ba cái thố bằng ngọc xanh, giỏ vừa mở nắp, từ bên trong một mùi thơm phưng phức bốc ra.
Tiểu công chúa vỗ tay cười lớn:
- Đúng là vật ta thích dùng!... Các vị còn nghĩ đến tôi, thật may mắn cho tôi biết bao nhiêu! Người ta hầu như bỏ đói tôi mấy hôm nay đấy!
Nàng trừng mắt nhìn căm căm Phương Bửu Ngọc gằn giọng:
- Ngươi thấy chưa, người khác đối xử với ta rất tốt, còn ngươi, ngươi chỉ cho ta ăn cái loại mì mà đến chó cũng nuốt không trôi!
Rồi nàng cầm đũa, ăn liền, ăn không nhìn ai, không mời ai.
Phương Bửu Ngọc giật mình, thầm nghĩ:
- Hỏa Ma Thần đưa đồ ăn đến, có cái ý tỏ ra săn đón nàng, mà cũng có luôn cái ý muốn thị Oai với ta, lão cho ta biết rằng nhất cử nhất động gì của ta, không lọt được tầm mắt của lão. Đến cái việc ta mua mì cho nàng ăn, lão cũng biết rõ! Hừ, sao thủ hạ của lão đông thế, nơi nào cũng có mặt cả?
Ngưu Thiết Oa nghe Tiểu công chúa nhai nhóc nhách, nuốt ừng ực, bất giác lấy làm lạ, ngóng cổ nhìn.
Những gì trong ba chiếc thố, có đủ màu xanh, đỏ, trắng, vàng chừng như thơm và ngon lắm vậy.
Chỉ nhìn thôi, cũng đủ rõ dãi rồi, chẳng đợi gì ngửi đến.
Gã thầm nuốt nước bọt, nhưng lại càu nhàu:
- Tưởng gì, chứ như vậy thì sao gọi là ngon?
Tiểu công chúa bật cười khanh khách:
- Vật gì mà mình không ăn được, dĩ nhiên vật đó sẽ là không ngon!
Bởi làm sao ăn được mà biết ngon? Không ăn được nên chẳng bao giờ khen ngon! Nếu ta cho ngươi ăn một miếng, chắc chắn là ngươi không chê nữa vậy!
Ngưu Thiết Oa chớp mắt, cười hì hì:
- Muốn cho tôi tin, ít nhất cũng phải để cho tôi ăn một miếng chứ!
Tiểu công chúa lại cười:
- Ngươi có vẻ ngốc đấy, nhưng cũng biết lừa người! Được rồi, ngươi muốn nếm thử, ta cho liền!
Ngưu Thiết Oa thoáng đỏ mặt, len lén đưa mắt nhìn sang Phương Bửu Ngọc.
Phương Bửu Ngọc không để ý đến gã.
Gã liếm môi, mặt ửng đỏ hơn thốt:
- Tôi chỉ ăn một miếng nhỏ, rất nhỏ thôi!
Tiểu công chúa gắp một đũa đưa qua cho gã nhưng đưa đến nửa vời, nàng rụt tay về rồi chỉnh sắc mặt thốt:
- Không được! Vật nầy sánh sao được cái món mì hôm nọ? Ngươi không nên ăn làm gì, có ăn cũng chê thôi!
Ngưu Thiết Oa lần nầy thì đỏ mặt quá chừng.
Tiểu công chúa gập lưng xuống mà cười.
Cười một lúc, nàng lại đưa đũa ra nín cười thốt:
- Đây, lần nầy thì ta cho ngươi ăn thực sự! Ăn một miếng thôi nhé!
Ngưu Thiết Oa quay mặt nơi khác, hận:
- Tôi không ăn!
Nhưng gã lại quay mặt trở lại, nhìn hỏi:
- Món... món đó là món gì thế!
Tiểu công chúa bĩu môi:
- Khi nào ngươi biết được cái món nầy là gì mà hỏi? Đừng nói là có ăn qua, đến cái tên của nó, ngươi cũng chưa từng nghe nói đến nữa mà!
Ngươi biết không, món nầy là măng mọc mùa đông, nấu với lưỡi chim anh vũ, dùng óc cá làm đậu hũ, gia vị...
Ngưu Thiết Oa trố mắt:
- Những mảnh đỏ đỏ đó, là lưỡi chim anh vũ?
Tiểu công chúa gật đầu:
- Đúng vậy.
Ngưu Thiết Oa kêu lên:
- Trời! Nấu được một thố như thế, phải giết bao nhiêu anh vũ?...
Tiểu công chúa điềm nhiên:
- Không bao nhiêu, độ trăm con thôi!
Ngưu Thiết Oa biến sắc:
- Cô nương... tại sao... lại thích ăn...
Tiểu công chúa thốt:
- Cái lưỡi của chim anh vũ, linh hoạt phi thường, cho nên ăn rất ngon. Không tin, ngươi cứ nếm thử đi, chỉ ăn một miếng thôi, ngươi sẽ nhớ hương vị của nó suốt đời!
Ngưu Thiết Oa đột nhiên đứng lên, mặt lộ sắc giận:
- Tàn nhẫn! Cô nương thật là tàn nhẫn! Muốn ăn một thố như vậy, phải giết hàng trăm con anh vũ, mà giết rồi, không ăn thịt chỉ ăn cái lưỡi thôi! Giả như có người đầu bếp nào đó, cắt cái lưỡi của cô nương mà nấu nướng, thì cô nương nghĩ sao chứ? Cái món mà cô nương cho là ngon tuyệt đó. Thiết Oa nầy dù chết cùng chẳng khứng ăn!
Tiểu công chúa phì cười:
- Thân vóc ngươi thì to lớn, song cái tâm của ngươi lại bé nhỏ quá!
Chim anh vũ chết rồi, không cắt lưỡi nó, nó cũng chết, thì cắt lưỡi mà nấu ăn, lại có sao?
Ngưu Thiết Oa trố mắt:
- Chim chết? Làm gì có một số nhiều chim chết cùng một lúc như vậy?
Tiểu công chúa cười khanh khách:
- Thì cái người nấu nướng giết chúng để lấy lưỡi chứ tại sao nữa?
Ngưu Thiết Oa sững sờ, lẩm nhẩm:
- Cô nương là một nữ ma! Đúng là một nữ ma!
Tiểu công chúa cười vang:
- Ngốc tử! Đến bây giờ ngươi mới biết như vậy à?
Nàng tự nhiên cười, tự nhiên nói, ung dung ăn lưỡi chim anh vũ, nàng nhai thành tiếng, nàng nuốt thành tiếng.
Ngưu Thiết Oa tởm quá, muốn chạy ra mủi thuyền, không nhìn nàng nhai, không nghe nàng ăn.
Lúc đó, thuyền đã đến bờ sông đối diện.
Ngưu Thiết Oa hấp tấp bước ra đến bên ngoài rồi, gã hớp mấy hơi dài không khí, đoạn ngẩng mặt nhìn lên nền trời đêm, thấy vầng trăng đã chếch thấp về phương tây.
Thời gian gần bình minh lắm rồi.
Phương Bửu Ngọc, Tiểu công chúa cũng đã lên bờ.
Hai đại hán lấy sào đẩy mạnh con thuyền trôi ra giòng sông, Phương Bửu Ngọc cau mày hỏi:
- Các vị có giải khai huyệt đạo cho chúng không?
Một người đáp ngoài câu hỏi:
- Phương đại hiệp yên trí, chúng không chết đâu!
Phương Bửu Ngọc hừ một tiếng, trong khi một tên móc trong mình ra một phong thơ trao cho chàng.
Họ không chào, không nói gì nửa, quay mình chạy đi liền.
Không gian tịch mịch, chung quanh chẳng có tiếng động nào ngoài tiếng gió lay cành, tiếng sóng vỗ về xa xa vọng đến.
Hai đại hán đó chạy trí mạng, chạy như quỷ đuổi, chạy không quay đầu lại.
Phương Bửu Ngọc thở dài:
- Họ có vẻ sợ hãi vô cùng! Họ sợ gì? Họ trốn gì?
Nói, để mà nói, Phương Bửu Ngọc thừa hiểu có nói cũng chẳng ai đáp lời.
Chàng mở phong thơ.
Một mảnh giấy nhỏ, có ghi mấy chữ, hiện ra trước mắt chàng.
- Bên ngoài cửa Tây thành Đông Xương, ngọn đèn đỏ trong rừng dâu!
Chàng mơ màng một lúc, đoạn thốt:
- Đi!
Chàng đi chưa xa, bổng nghe tiếng hô hoán vang ầm lên.
Phương Bửu Ngọc dừng chân.
Tiểu công chúa chừng như biến sắc mặt.
Phương Bửu Ngọc mang máng nghe trong tiếng kêu la đó, có người gọi chàng:
-... đại hiệp... cứu...
Chàng giật mình lẩm nhẩm:
- Hai người đó! Họ không trốn khỏi!
Ngưu Thiết Oa lấy làm lạ:
- Tại sao họ phải trốn? Ai đuổi theo họ mà họ trốn!
Trong khi gã thốt, Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa đã vọt mình về phía phát xuất ra tiếng kêu cứu, họ đã cách gã hơn mười trượng rồi.
Gã càu nhàu:
- Đại ca thừa hiểu là mình không biết khinh công, thế mà vẫn không chịu đợi mình...
Gã cố gắng chạy theo.
Gã chạy cũng nhanh, nhưng làm sao theo kịp Phương Bửu Ngọc.
Trong thoáng mắt, gã chẳng còn thấy bóng hình Phương Bửu Ngọc và tiểu công chúa đâu cả.
Sau cùng, thì gã hoàn toàn lạc lõng giữa cánh đồng bát ngát bao la, gã còn biết chạy về phương nào?
Gã cất tiếng gọi to:
- Đại...
Tiếng ca chưa thoát khỏi miệng gã, sau lưng có người gọi:
- Ngưu Thiết Oa !
Âm thinh của người đó trầm trầm, tiếng nói chậm, chừng như người gọi không có ác ý đối với gã!