Văn Tĩnh theo Bạch Phác lên lầu thành, trông ra thấy tinh kỳ Mông Cổ rờm rợp khắp núi đồi, che kín cả chân trời, binh sĩ nhiều gấp đôi gấp ba hôm nọ, dàn hàng dày đặc, đứng im phăng phắc. Dưới sông, chiến thuyền và mẫu hạm rùng rùng theo dòng xuôi xuống, đối mặt với thủy quân nhà Tống.
Trên đầu thành, người ta đun hơn một trăm vạc to dầu hỏa, làm bốc ra mùi hôi thối rất khó thở. Lăn gỗ và đá tảng chất đống như núi, mấy chục vạn dân Hợp Châu đều được huy động, đàn ông trai tráng đổ hết lên mặt thành phòng thủ, phụ nữ, bô lão và trẻ em đẩy xe dắt trâu, vận chuyển đá bắn.
Đôi nhịp hồ già bay lên phiêu phưởng, trống vàng rền vang như sấm động, lính Mông Cổ rống to như sét nổ ngày xanh, sông núi cùng rung chuyển. Mấy trăm chiếc thuyền nhẹ bén lửa rần rật chở đầy củi khô dầu hỏa trôi xuống hạ lưu, lao vào thủy sư Đại Tống, đâm phải thuyền lớn, lập tức bắt cháy bùng bùng. Lữ Đức chỉ huy quân sĩ vừa dập lửa vừa di chuyển đội hình.
Sử Thiên Trạch đứng ở mũi thuyền, ngẩng mặt nhìn thủy trại của quân Tống, thấy rất phân tán, bèn khua đại kỳ. Lưu Chỉnh truyền lệnh cho binh sĩ mượn chiều nước lao thẳng xuống hạ lưu, muốn tiên hạ thủ vi cường, đâm vỡ đội hình đối phương. Lữ Đức cũng phát lệnh, quân Tống bắn tên sang rào rào như châu chấu bay, hỏa pháo nổ rền, sĩ tốt Mông Cổ rên la thảm thiết, hàng loạt người trúng tiễn ngã nhào khỏi thuyền, mấy cỗ chiến hạm bị thiết sa hỏa pháo ném bắn cho vỡ vụn, xoay ngang xoay ngửa giữa dòng, rồi từ từ chìm xuống.
Đại quân Mông Cổ trên bờ sông cũng bắn nỏ bắn đá, cho thủy sư Tống nếm mùi lợi hại. Tên qua đá lại, tiếng động ầm ầm điếc cả tai. Sau thời gian chừng tàn nửa cây hương, thuyền chiến của hai bên đâm sầm vào nhau, binh sĩ ngả nghiêng loạng choạng, những người còn đứng vững lập tức vung cung tên trường thương, chém giết tơi bời giữa đại giang, máu tươi chảy loang, nhuộm đỏ mặt nước.
Trên bờ, tiếng trống trận càng thêm dữ dội, đại quân Mông Cổ dậm chân thình thịch, rục rịch tiến. Ở đầu hàng, từng tốp hai mươi người nâng một cái khiên mặt bọc da trâu và lông chiên cao chừng năm trượng, dày chừng nửa thước, rầm rập tiến về phía thành trì. Theo sau là nỏ to và đại pháo gỗ.
Tên nỏ được tẩm dầu hỏa. Hỏa tiễn đốt ngòi dẫn, rít gió lao xuống thành, đâm vào đám khiên khiến chúng bén cháy xèo xèo. Những khúc gỗ to bọc lửa đổ ào ào xuống mặt khiên, đốt trụi cả da trâu và lông chiên, mặt khiên xạm đen dần trong ngọn lửa rần rật. Quân Mông Cổ rú lên thảm thiết. Cùng với tiếng bật lẫy tanh tách, máy bắn nhả đá tới đầu thành, những mũi tên đá nặng cỡ hai mươi cân1 tới tấp dội vào tường, phát ra tiếng động ầm ĩ, làm đất rung núi chuyển.
Lâm Mộng Thạch ra hiệu lệnh. Phá sơn nỗ được kéo lên, cỗ nỏ này có thể đẩy những mũi tên đá nặng bốn mươi cân bay xa một nghìn bộ, phải hai mươi người mới điều khiển được. Sau một tiếng trầm đục, hai mươi mũi tên lớn xé gió lao đi. Bụi bốc mịt mù. Rên la đau đớn. Những tấm khiên khổng lồ lần lượt vỡ vụn. Phá sơn nỗ bật lẫy liên tiếp năm lần, chiến binh Mông Cổ ngã rạp dưới mũi nỏ của quân Tống, hỏa tiễn tỏa đi vun vút sáng giữa không trung, mỗi lượt lửa lấp lóe, lại có người lăn lộn gào rú dưới chân thành, mùi thịt da cháy khét dần dần đùn lên trong không khí.
Lính Mông Cổ cũng ráo riết bắn nỏ, phản kích một cách vô vọng lên đầu thành cao vời vợi. Hậu quân bắt đầu dùng đến thang mây, hàng trước đổ hàng sau tiếp bước, ào ạt xung phong, họ tựa thang mây vào tường thành, lũ lượt leo lên. Đá tảng và lăn gỗ của quân Tống ồ ồ đổ xuống, trét máu thịt đối phương lại trên tường thành. Hơn một trăm cái vạc đại được treo vào xích sắt, dốc nghiêng, dầu hỏa bỏng rãy trút xuống người các chiến binh Mông Cổ, cháy qua lớp giáp sắt, cháy thấu da thủng xương, đun sôi nội tạng họ. Chẳng biết bao nhiêu binh sĩ đã ngã nhào khỏi thang trong những tiếng kêu thét rợn người.
Lại một trăm lính Mông Cổ khác đẩy cỗ xe húc khổng lồ đến dưới chân thành, lập tức hứng trọn một vạc đá trộn dầu hỏa từ trên cao trút xuống. Xe húc mất điều khiển, đổ nhào, súc gỗ nặng hàng vạn cân ấy bị tưới dầu hỏa, lập tức bén cháy bởi đám hỏa tiễn vương vãi dưới đất, rồi kềnh càng lăn xuống sườn núi, để lại từng đám máu thịt dẹp lép sau lưng.
Quân đội Mông Cổ không kham nổi đành rút lui. Đúng lúc ấy, tiếng trống bịt da cá sấu trỗi lên dồn dập, đoàn quân đang từ từ lùi xuống bỗng lại ào thốc lên như nổi cơn điên.
Văn Tĩnh đứng xem, mỗi lúc một suy sụp, miệng không ngớt than thở, mấy lần muốn nôn ọe, thấy quân Mông Cổ rút lui, toan thở phào, nào ngờ sau một hồi trống, đối phương lại tiếp tục xung phong. Gã run rẩy thốt: “Chuyện gì vậy?”
Vương Lập trỏ tay ra xa, mắt tóe lửa “Hoàng đế Thát đến!”
Văn Tĩnh phóng mắt nhìn, trông thấy một lá cờ tiết mao cực lớn căng phồng trước gió.
oOo
Mông Ca đang ngự trên con ngựa tên gọi “Trục Nhật2” - thuộc dòng thần câu vùng Tây Vực, quan sát cuộc chém giết dưới thành, cơ mặt giật nhẹ, lặng lẽ không thốt một lời.
“Đại hãn!” Ngột Lương Hợp Thai dè dặt nói: “Cứ hùng hục tấn công thế này chẳng phải là biện pháp hay, quân ta yếu về thủy chiến, không giành được ưu thế trên sông nước. Thành Hợp Châu lại chiếm được địa lợi, dễ thủ khó công…”
Đét một tiếng. Bị roi ngựa của Mông Ca quất mạnh lên lưng, Ngột Lương Hợp Thai ngạt thở.
“Ta mười sáu tuổi theo Bạt Đô Hãn tây chinh, tung hoành thiên hạ, đánh đâu được đó. Một thành Hợp Châu nhỏ nhoi liệu cản được ta chăng?” Khuôn mặt cương nghị của Mông Ca Hãn nóng bừng, hệt như mặt trời rực rỡ, khiến người ta không dám ngước nhìn: “Tốc Bất Đài tổ phụ ngươi kiêu dũng biết chừng nào! Ngươi là cháu đích tôn mà nói ra những lời nhụt chí thế à?”
Ngột Lương Hợp Thai hổ thẹn xuống ngựa vái lạy, nói thật lớn: “Hạ thần xin dẫn quân tấn công cửa đông.”
Mông Ca không đáp, phóng mắt ra xa hỏi: “Người mặc áo bào xanh lam kia là Bá Nhan phải không?”
Ngột Lương Hợp Thai ngoái đầu nhìn, thấy Bá Nhan đang xách ngựa phi như bay, mỗi lần giương cung, lại bắn ngã một người trên đầu thành.
“Dạ vâng.” Ông ta đáp.
Mông Ca cười: “Nghe nói y có công lớn trong trận phá Kiếm Môn. Hôm nay trông thấy, quả nhiên kiêu dũng. Ta muốn gặp y.”
Lệnh truyền đi. Bá Nhan phi ngựa trở về, nhảy xuống vái lạy.
Mông Ca trầm giọng bảo: “Ngẩng đầu lên!”
Bá Nhan ngẩng đầu. Hai mắt Mông Ca sáng quắc, soi lên mặt y.
Bá Nhan không đổi sắc diện, điềm nhiên nhìn thẳng lại. Hai người đối mắt rất lâu, Mông Ca Hãn chợt mỉm cười hỏi: “Ngươi không sợ ta ư?”
Bá Nhan điềm tĩnh đáp: “Hạ thần vấn lòng không thẹn, có gì phải sợ?”
“Hay cho câu vấn lòng không thẹn!” Mông Ca Hãn chìa tay ra: “Đứng dậy, Thần Tiễn tướng quân!”
Bá Nhan ngạc nhiên. Ngột Lương Hợp Thai nhắc: “Đại hãn phong tặng cho ngươi đó!”
Bá Nhan sực hiểu, Mông Ca ban cho y danh hiệu Thần Tiễn, hàm ý “Mông Cổ đệ nhất thần tiễn thủ”, chính là danh hiệu Triết Biệt đã từng mang ngày xưa. Nên biết Mông Cổ bình thiên hạ cũng nhờ tài kỵ xạ, danh hiệu đó quả thực không phải tầm thường.
Bá Nhan đứng lên đáp tạ. Mông Ca bảo: “Ngươi từ nam xuống đây, công phá biết bao thành lũy, nhất định có điều đúc rút. Theo ngươi, làm thế nào để hạ được Hợp Châu?”
Bá Nhan thoáng vẻ đắn đo: “Theo thiển kiến của vi thần, tốt nhất là không tấn công.”
“Không tấn công?” Mông Ca chưng hửng, nhưng lập tức lấy lại hứng thú: “Nói nghe thử.”
Bá Nhan thẳng thắn trình bày: “Đại hãn cũng thấy rồi đó, thành Hợp Châu hiểm yếu không thua gì Kiếm Môn, nhưng quy mô rộng lớn, binh mã đông đúc, phần lớn tướng giỏi lính tài của nhà Tống đều tập hợp ở đây. Nếu tấn công dồn dập, e rằng không hạ ngay được.”
“Ồ!” Mông Ca sầm mặt.
Bá Nhan liếc ông ta, tiếp tục nói: “Hiện đã phá được Kiếm Môn, hơn một nửa Lư Châu thuộc về chúng ta rồi. Hạ thần cho rằng nên lấy Lư Châu làm cơ sở, từng bước lập dinh lũy, phòng thủ cẩn mật mọi chỗ hiểm yếu, cắt đứt tuyến cứu viện đường bộ của Hợp Châu. Kế đó phái tinh binh sang phía tây phá Thành Đô, quét sạch đất Thục, gom lương thảo nuôi đại quân. Lại dựng trại trên sông, thao luyện thủy chiến, kết hợp hai đường thủy bộ, cắt đứt cứu viện đường thủy của quân Tống. Cứ thế, Hợp Châu cạn lương thảo, không đón được viện binh bên ngoài, lúc ấy chúng ta không đánh cũng lấy được.”
Mông Ca lắc đầu: “Kế sách đó tuy vẹn toàn nhưng mất nhiều thời gian quá, không hợp với binh pháp tốc chiến tốc quyết của Mông Cổ ta. Nhớ thuở xưa hai lần tây chinh, tung hoành cả vạn dặm, trước sau chỉ mất có mấy năm. Nếu làm theo cách của ngươi, chẳng lẽ mười năm sau mới phá được Tống triều hay sao?”
Bá Nhan toan nói “Tống triều có chỗ khác với Tây Vực.” nhưng thấy Ngột Lương Hợp Thai khẽ lắc đầu với mình, liền kìm lại.
Mông Ca ngẩng đầu chăm chú quan sát trận chiến khốc liệt dưới thành, trầm ngâm một lúc lâu rồi bảo: “Bất kể thế nào, bọn Tống kia đã sát hại vô số hảo hán của chúng ta, đợi đến khi vào được thành, ta sẽ triệt hạ tất cả, gà chó cũng không tha.” Ông ta nói bằng giọng chậm rãi, trầm hùng dị thường, nghe như tiếng sấm rền nơi chân trời. Bá Nhan và Ngột Lương Hợp Thai nhìn nhau, run rẩy, hiểu câu nói đó cũng chính là hiệu lệnh phá thành.
Mông Ca ngừng một lúc rồi quát: “Ngột Lương Hợp Thai! Ta cho ngươi ba đội, mỗi đội một vạn quân để tấn công cửa đông.”
Ngột Lương Hợp Thai trù trừ: “Lúc này điều đâu ra ba đội, mỗi đội một vạn quân?”
Mông Ca nói “Ta cho ngươi một vạn quân Khiếp Tiết.”
Khiết Tiết là đội thân binh của Đại hãn Mông Cổ. Nghe ông ta nói vậy, mọi người đều sửng sốt. Ngột Lương Hợp Thai vội can: “Sao có thể thế được?”
“Sao không?” Mông Ca nhìn Bá Nhan: “Có Thần Tiễn tướng quân ở đây, ai hại nổi ta?”
Bá Nhan nghe nói, bất giác trái tim sôi sục, nhiệt huyết dâng trào, liền quỳ mọp xuống đất, thề chết trung thành.
“Dóng ba hồi trống!” Mắt Mông Ca sáng quắc: “Thổi tù và!”
Cây dùi bằng xương đùi ngựa giáng xuống mặt trống da trâu, tiếng trống vang vọng đất trời, ba hồi dõng dạc. Chiếc tù và sừng dê khổng lồ rúc lên không trung, chí khí bi tráng dâng tràn vũ trụ. A Thuật ngừng khua lệnh kỳ, dõi mắt nhìn bụi đất mờ mịt phía xa, “Cha định đánh cửa đông chăng?” Gã thầm nghĩ. Ngột Lương Hợp Thai là thống soái, đồng thời cũng là phụ thân gã, có thể nói là cha – con – đồng – đội.
Ngoảnh nhìn cây cờ tiết lông trắng to tướng của Mông Ca Hãn, A Thuật nhíu mày, đôi mắt sáng thoáng tư lự: “Phía cửa đông thế núi nhấp nhô, khó triển khai binh mã, cho vài ngàn người chặn giữ, đợi sơ hở tập kích còn có thể xuất kỳ chế thắng. Nhưng ồ ạt tấn công thì thực không đơn giản. Chẳng lẽ… Đại hãn muốn mạo hiểm sao?”
Trong lúc gã mải suy nghĩ, nơi cửa đông đã bắt đầu chiến đấu. Nỏ lớn kê sườn núi, tên đá bay rợp trời, binh sĩ Mông Cổ vung đao thương, dựng thang mây, chuẩn bị công thành. Trước cửa đông có một khe núi dài hẹp cực kỳ gập ghềnh, được tạo nên bởi tường thành và một gờ nhỏ gần đó. Quân Tống bắn tên xối xả, Mông Cổ bắt đầu có dấu hiệu rối loạn. Khiếp Tiết quân vốn dĩ đều là con cháu nhà quý tộc, tuy lanh lợi khỏe mạnh nhưng ngày thường chỉ theo hầu Mông Ca, ít kinh nghiệm chinh chiến, chưa biết đánh phá thành trì là gì, gặp mấy lượt công kích dữ dội, đã có người luống cuống chân tay. Chỉ thoáng chốc, hai vạn quân rối tung, chen chúc trong cái khe hẹp, trước hò sau đẩy, tiến thoái đều khó khăn, có người còn bị ép bẹp dí vào tường thành suýt chết. Ngột Lương Hợp Thai thấy vậy, thúc ngựa tiến lên, quát tháo hô gọi chỉnh đốn đội hình. Quân Tống nhận ra sự lúng túng của đối phương, càng dội tên tới tấp. Lính Mông Cổ thương vong nặng nề.
Lý Hán Sinh dẫn quân lao ra khỏi cửa đông, thừa lúc đối phương bấn loạn phóng tay chém giết. Lương Thiên Đức thúc ngựa đi đầu, đâm chết mấy người, trông ra xa thấy có người mặc giáp bạc óng ánh (chính là Ngột Lương Hợp Thai), biết giáp bạc là dấu hiệu của đại tướng Mông Cổ, bèn quẳng trường thương đi, vỗ ngựa lao tới, giương cánh nỏ lớn lót sắt nặng ba trăm thạch, bắn liên tiếp chín phát, chiêu này gọi là Long sinh cửu tử3, sở trường của Lương Thiên Đức.
Trông thấy một chuỗi chín mũi tên hệt như con rắn dài phóng về phía mình, Ngột Lương Hợp Thai vốn quen chiến trận, lập tức giục ngựa tránh, nào ngờ mỗi mũi tên một kình đạo mạnh yếu, được nửa đường thì húc vào nhau, lập tức bắn tỏa ra bốn phía như tiên nữ rắc hoa, chặn cứng mọi hướng tránh của Ngột Lương Hợp Thai. Vị đại tướng Mông Cổ trúng liền ba mũi, bị một trong số đó xuyên thủng mắt phải, ông ta ngã nhào khỏi ngựa…
oOo
Trời ngả hoàng hôn, vầng dương tàn úa phả ráng tà nhợt nhạt và từ từ chìm xuống. Gió mạnh rú gào giận dữ trong mây tím, người hét ngựa hí giữa núi đồi trập trùng. Mấy chục vạn quân bất chấp sống chết lăn xả vào nhau dưới chân tòa thành trơ trơ, tường thành xám vàng nhuộm máu Mông Cổ, chuyển sắc đỏ gắt ghê người.
Mông Ca Hãn đứng bất động như một pho tượng, nhìn về nơi xa. Một con ngựa phi ào tới, kỵ sĩ không dám quấy rầy chủ nhân, dừng ngựa lại quỳ xuống đất.
Một lúc lâu sau, Mông Ca chậm rãi hỏi: “Có chuyện gì ư?”
“Bệ hạ, khí giới công thành đã cạn…”
“Còn gì nữa?”
“… Ngột Lương Hợp Thai… Ngột Lương Hợp Thai tướng quân… tử trận rồi.”
Mông Ca rúng động, ngửa mặt nhìn khoảng trời nhập nhoạng, nhắm mắt, từ từ thở hắt ra bằng một giọng khê đặc: “Tạm… thời… thu… binh!”
oOo
Trận đầu ra quân không tổn thất, đem lại rất nhiều sinh khí cho thành Hợp Châu vốn bị phủ chụp dưới đám mây lo âu. Lý Hán Sinh đứng ra mở tiệc, tướng lĩnh hân hoan yến ẩm trong phủ Thái thú, vui vẻ chúc tụng nhau. Văn Tĩnh ngồi một mình trên bậc cấp, ngơ ngẩn thất thần, chằm chằm nhìn chung rượu trên tay. Hễ nhắm mắt lại là trông thấy máu tươi ngập ngụa, dường như còn trông thấy đôi tay ấy, đôi tay bíu chặt vào lỗ châu mai, bỗng đâu một lưỡi đao sắc bén chặt xuống, máu bắn tung tóe, người ấy rống lên thảm thiết, càng rơi càng xa, cuối cùng chìm lỉm giữa những tiếng hò la dập dồn như sóng, không còn nghe thấy đâu nữa.
“Vì sao?” Đầu óc gã trống rỗng: “Vì sao bọn Mông Cổ ấy ngu thế? Vì sao chẳng ai tiếc thương sinh mệnh của chính mình? Vì sao phải đổ bao nhiêu máu như vậy? Lẽ nào người và người không thể sống chung hòa thuận, nhất định phải tàn sát nhau mới được ư?”
Lật đi lật lại vấn đề nan giải khiến bao đại triết gia từ xưa tới nay vẫn phải đau đầu buốt óc ấy, trước sau Văn Tĩnh vẫn không sao cắt nghĩa nổi. Tiếng huyên náo dưới vườn làm gã mở bừng mắt, mấy viên tướng uống say đang giằng kéo một vũ cơ lại ôm, Vương Lập vuốt râu tủm tỉm, những người khác cũng cười theo ầm ĩ.
“Ta mệt, về trước đây.” Văn Tĩnh đứng dậy, khoác tấm áo choàng gấm Thục lên vai, bước ra giữa những ánh mắt ngạc nhiên của đám tướng lĩnh.
Đi qua con đường dài yên tĩnh, nghe văng vẳng tiếng bước chân tuần tiễu của đội vệ binh ở xa, Văn Tĩnh ngồi trong kiệu, cảm thấy nặng đầu, mệt mỏi, cái mệt thấm từ xương tủy ra.
Chợt nghe thấy một giọng lạnh băng như từ a tỳ địa ngục đưa lên: “Sư muội ta đâu?” Văn Tĩnh tỉnh người, toàn thân lạnh buốt.
Gã vén tấm rèm pha lê, nhìn ra ở đầu đằng kia con đường, một bóng người lờ mờ hiện rõ dần, thi thể lính gác nằm ngổn ngang đầy mặt đất, máu đã lạnh đông nơi vết thương trên cổ.
Bạch Phác nhảy xuống ngựa, sắc mặt tối sầm đáng sợ, chậm rãi thốt: “Cái thằng loạn trí này!”
“Sư muội ta đâu?” Giọng Tiêu Lãnh nghe nhiếp hồn như phù chú.
“Ngươi muốn gặp ả ư?” Bạch Phác cười khẩy: “Vậy bó tay chịu trói, ta mang đầu ngươi đi gặp ả.”
Mắt lóe lên những tia sắc nhọn, Tiêu Lãnh gằn từng chữ: “Một ngày không gặp nàng, ta giết một trăm người. Mười ngày không gặp nàng, ta giết một ngàn người. Nếu nàng có hề hấn gì, ta sẽ tận diệt cả thành Hợp Châu này.”
Trước sát khí yêu dị của y, đám lính gác mất sạch dũng khí, chẳng ai dám hé răng. Hải Nhược đao lướt tới, nước thép xanh lam ngưng tụ trong đêm, xóa mờ ánh trăng ảm đạm.
Keng một tiếng. Bạch Phác xòe quạt nghênh đón đao phong, hai người giao thủ, chỉ thoáng chốc chiết liền sáu chiêu, bụi sắt rơi lả tả. Trong sáu chiêu ấy, cây thiết phiến thép luyện bị Hải Nhược đao chẻ tơi bời, Bạch Phác đành vứt chiếc quạt nát, giơ tay không đối địch. Mặc dù dùng tay không, y cũng không mảy may ngại ngần đao pháp lăng lệ của Tiêu Lãnh, xuất chiêu lanh lẹ biến ảo, gồm công gồm thủ, thi thoảng lẩn vào màn đao quang tìm cách cướp lấy bảo đao của Tiêu Lãnh.
Hai người giao đấu mười mấy hiệp, không phân thắng phụ. Bọn thị vệ cũng lấy lại bình tĩnh, rút đao xông tới, song chưa đến gần đã có hai người gục ngã, những người khác sững sờ, quây thành một vòng không dám tiến lên. Bạch Phác thét: “Tên kia giỏi thực, ngươi còn rảnh rỗi lo việc khác ư?”
“Hừ!” Tiêu Lãnh phì mũi, “Cái giống giá áo túi cơm ấy thì càng nhiều càng tốt.” U Linh Ảo Hình thuật của y phù hợp nhất cho lối quần chiến, di chuyển chớp nhoáng, khiến đối thủ không kịp trở tay.
Văn Tĩnh nhíu mày, đang cân nhắc xem có nên đến trợ trận không, chợt nghe thấy tiếng móng ngựa, gã ngoái đầu nhìn, một tốp gồm Lương Thiên Đức, Nghiêm Cương, Đoan Mộc và Lưu Kình Thảo đang hớt hải lao tới, kế đó lại nghe tiếng huyên náo, một đội binh sĩ đông đảo từ đầu kia con đường cũng đang ùn ùn đổ về. Lưu Kình Thảo nhận ra Tiêu Lãnh, mắt đỏ hoe, không đợi ngựa đến nơi đã tung mình bật lên, Tùng Văn kiếm lộn một vòng, phóng thẳng tới. Tiêu Lãnh ngó thấy, biết hôm nay khó giải quyết êm xuôi, vội vàng đỡ mấy chiêu rồi đằng thân lên mái nhà. Lương Thiên Đức giương cung lắp tên, Long sinh cửu tử buông dây bay đi, Tiêu Lãnh đứng giữa lưng chừng không, múa tít Hải Nhược đao, tạo thành một bánh xe ánh xanh rờn rợn chặn liền tám mũi tên đang nhắm thẳng vào những chỗ yếu hại của mình, nhưng do hấp tấp, không phát huy được hết khả năng nên bị mũi tên thứ chín cắm vào bả vai.
Y đáp xuống mái lầu, hơi chao người. Bạch Phác cũng nhảy lên, hai bên chỉ trao đổi một chiêu, Tiêu Lãnh lại lắc mình bỏ chạy, Bạch Phác đuổi theo, thoáng cái mất dạng. Lưu Kình Thảo và Nghiêm Cương bay lên mái nhà, không thấy bóng hai người đâu nữa, nhìn quanh quất rồi hậm hực nhảy xuống.
Lương Thiên Đức thúc ngựa tới, ngoảnh nhìn Văn Tĩnh. Cha con chăm chú nhìn nhau một lúc, Văn Tĩnh cúi đầu. Mấy ngày nay nhiều việc đột ngột xảy ra, họ chẳng tìm được lúc nào ở riêng hai người. Thêm vào đó, Văn Tĩnh sợ bị cha chửi mắng vì vụ lẻn đi trốn hôm nọ, cũng cố ý tránh mặt lão. Lương Thiên Đức có bao điều muốn nói nhưng không cách nào nói được, lúc này mấp máy môi toan gọi hỏi, nhưng cân nhắc một hồi, cuối cùng nén lại.
Văn Tĩnh bị cha nhìn, sợ quá, cúi đầu ngắm những ngón chân tự nhủ: “Ánh mắt bố như giết người ấy, phải như ngày xưa, nhất định mình đã bị ông ấy quật cho một trận rồi.”
Một bóng trắng chớp trên mái nhà. Bạch Phác theo đường cũ nhảy xuống, nhăn nhó: “Thằng cha đó lẩn như chạch, vừa rồi Bạch mỗ đánh trúng hắn một chưởng, nhưng hắn vẫn trốn được.”
“Không sao!” Vương Lập nghe ồn ã chạy tới, lúc này đã nắm rõ tình hình bèn nói: “Để ta truyền quân lệnh, cho sục sạo toàn thành, lật tung cả Hợp Châu lên. Tin chắc không để sổng hắn!”
Bạch Phác lắc đầu: “Không ổn. Hiện nay chiến tranh đang lúc nước sôi lửa bỏng, chẳng biết ngày nào mới xong, khiến dân lao lực quá độ e rằng có hại.”
“Hà.” Vương Lập không bằng lòng, quay sang hỏi Văn Tĩnh: “Thiên tuế thấy thế nào?”
Văn Tĩnh đưa mắt sang Bạch Phác: “Bạch tiên sinh nói có lý đấy.”
Vương Lập chưng hửng, sượng sùng rút cổ về.
Bạch Phác khẽ gật đầu với Văn Tĩnh: “Không cần lục soát, tự ta có cách ép hắn ra.”
oOo
“A Thuật!” Bá Nhan trèo lên quả đồi đen kịt, khẽ gọi người thiếu niên đang đứng sững ở đó.
A Thuật run người, quay đầu lại, mặt còn hằn dấu lệ “Bá Nhan tướng quân.”
Mắt Bá Nhan rừng rực thần quang, y vỗ vai A Thuật bảo: “Đại trượng phu tung hoành trên chốn sa trường, chỉ mong trở về da ngựa bọc thây. Nếu em còn là một nam tử hán thì đừng khóc, có bản lĩnh hãy đánh xuống thành trì kia, rửa hờn cho vong linh cha em.”
“Vâng!” A Thuật quệt mạnh nước mắt.
“Chưa ăn cơm đúng không?”
Bá Nhan dỡ nửa con dê béo trên vai xuống, lấy hỏa thạch ra nhóm lửa, bắt đầu quay. Một lúc sau, mùi thịt thơm lịm dậy lên trong không khí.
Bá Nhan dùng ngọn tiểu đao bằng bạc xẻo một tảng thịt, quẳng cho A Thuật: “Thực ra, đánh trận và trị quốc cũng giống như quay dê, lửa mạnh quá sẽ làm cháy thịt, lửa yếu quá thì thịt không chín.”
“Ừm!” A Thuật cắn một miếng thịt đùi ngọt lừ, nhả hơi nóng, xua bớt sương mù lạnh tê, lẩm bẩm “Lửa phải vừa độ mới quay được thịt ngon.”
“Đúng!” Bá Nhan nhìn doanh trại Mông Cổ sáng rực đèn đuốc, buồn rầu nói: “Đại hãn tính khí cương cường, lửa của người cháy quá mạnh!” A Thuật ngừng nhai, nghi hoặc nhìn Bá Nhan.
“Cháy quá mạnh…” Bá Nhan cười buồn, ném bầu rượu nóng cho A Thuật: “Thịt dê đã cháy, củi cũng hết rồi!”
oOo
Mông Ca thúc đại quân dốc sức tấn công bất kể ngày đêm. Ông ta cho dựng đài cao dưới thành Hợp Châu làm giá kê nỏ bắn lên đầu thành. Hai bên huyết chiến suốt một ngày, quân Tống dùng Phá sơn nỗ oanh tạc liền ba canh giờ mới bắn sụp được đài cao. Mông Ca lại ra lệnh đào địa đạo từ cửa đông nhưng bị quân Tống phát giác, Lý Hán Sinh sai tháo nước thải trong thành xuống, dìm chết hai trăm binh sĩ Mông Cổ. Sau đó, Vương Lập phái quân đuổi theo phản kích, đương đêm đột nhập doanh trại kẻ địch, A Thuật phát hiện ra, triển khai tấn công vu hồi, hai ngàn quân Tống bị đánh bẹp như bánh bao nhân thịt, một đi không trở về. Kịch chiến mười mấy ngày, song phương vẫn ở thế giằng co, bất phân thắng phụ. Quân Mông Cổ thương vong nặng nề, quân Tống cũng tổn thất không nhẹ. Lính Mông Cổ sĩ khí mỗi ngày một giảm sút, thành Hợp Châu cũng nhà nhà cử tang, người người hờ khóc. Song Mông Cổ vẫn ngoan cường, còn quân dân Hợp Châu sợ hãi thảm kịch khi thành bị phá nên cũng liều mạng chống cự, nam phụ lão ấu đều không tụt lại sau.
Ngày ngày Văn Tĩnh lên thành đốc chiến, luôn phải chứng kiến những cảnh máu chảy thây phơi, muốn khóc mà không ra nước mắt, lòng đau như cắt. Đứng xem đã thảm, nhưng về phủ rồi, mỗi lần hồi tưởng cảnh tượng thảm khốc trên sa trường, gã không chịu nổi lại nôn thốc nôn tháo, đêm gặp ác mộng triền miên. Đến ngày thứ năm, tâm lực kiệt quệ, Văn Tĩnh phát bệnh nằm liệt giường. Đại chiến đang đến hồi dữ dội, chư tướng đều gánh trọng trách trên vai, chỉ thi thoảng ghé thăm rồi lại vội vã đi ra. Lương Thiên Đức ngại tai vách mạch rừng, cũng không tiện nói nhiều.
Được Nguyệt Thiền tận tụy chăm sóc hai ngày hai đêm, Văn Tĩnh bớt sốt. Không phải lên đầu thành nữa, đỡ tâm bệnh, gã lặng lẽ vận nội công, mồ hôi chảy ròng ròng. Được thuốc thang tẩm bổ, được Nguyệt Thiền hầu hạ, ba ngày sau, khỏi phong hàn, gã bắt đầu xuống giường đi lại.
Văn Tĩnh bình phục, nhớ ra mấy ngày rồi không gặp Ngọc Linh, chẳng biết nàng thế nào, cũng chưa thấy Bạch Phác đến thăm mà hỏi tin. Canh cánh trong lòng, mặc sức còn yếu, gã lần tìm đến thạch lao, chỉ thấy nhà giam trống rỗng, không một bóng người, Văn Tĩnh kinh ngạc vô cùng. Suy đoán lung tung, bỗng gã nghĩ ra: “Nhân lúc ta ốm, Bạch Phác đã hạ sát nàng rồi không chừng?”
Nghĩ tới đó, gã lạnh toát người, hùng hổ đi ra, tìm thẳng đến nơi nghỉ của Bạch Phác, vừa đúng lúc chạm mặt y, gã hằm hằm túm lấy, tức giận hỏi: “Tiêu cô nương đâu?”
Bạch Phác khẽ phất năm ngón tay, vạch nhẹ lên cườm tay Văn Tĩnh. Gã thiếu niên thấy tê dại, buông lỏng tay, nhưng vẫn thở hổn hển, nhìn Bạch Phác trừng trừng. Trước bộ dạng hung dữ của gã, Bạch Phác cau mày tự nhủ: “Thằng oắt này đúng là bị ma ám, tại sao lại thích thứ con gái đó kia chứ?” Văn Tĩnh chực lao tới lần nữa, Bạch Phác lùi một bước, xua tay bảo: “Đừng vội, nghe ta nói đã nào.”
“Ông… ông đã giết nàng rồi phải không?” Văn Tĩnh dấn bước lên, nghiến răng, chỉ cần Bạch Phác đáp “Phải”, hẳn gã sẽ liều mạng với y.
Bạch Phác lắc đầu: “Mấy ngày em ốm, quả thực có chuyện xảy ra với con bé đó, nhưng ta không giết nó.”
Văn Tĩnh thở nhẹ, nhưng nghe nói có chuyện xảy ra, lại dồn dập hỏi: “Nàng… nàng làm sao?”
“Dạo em ốm, không gặp được em, nó cứ như lên cơn, bỏ ăn bỏ uống. Bọn ta tìm một bà đến bón cơm cho, nào ngờ nó cắn đứt cả ngón tay bà ấy. Đêm hôm qua chẳng hiểu nó moi đâu ra một cái trâm, mở khóa trốn thoát, vừa may ta kịp thời đuổi theo…”
“Ông… ông làm nàng bị thương?” Văn Tĩnh cay mắt, thầm nghĩ: “Mấy ngày vừa rồi, nàng đã chịu đau khổ đến điều… Văn Tĩnh ơi Văn Tĩnh, ngươi… ngươi đúng là một gã ngu xuẩn.”
Bạch Phác bất lực gật đầu: “Em cũng biết mà, con bé đó võ công ghê lắm, hôm qua lại hung hăng lạ thường, nếu gượng nhẹ thì bắt sao được?”
Văn Tĩnh hỏi: “Cô ấy đang ở đâu?”
“Hừm…” Bạch Phác nói: “Lần này nó bị thương nặng đấy, ta đã mời đại phu, ở căn phòng phía tây đằng trước…”
Không đợi y nói dứt, Văn Tĩnh đã chạy thẳng đến căn phòng phía tây, xô cửa vào, trông thấy Ngọc Linh mặt vàng như nghệ, nằm thiêm thiếp trên cái sập gụ, cạnh đó có mấy nữ tì, nhưng đều đang đứng cách rất xa, co ro cúm rúm, không dám tới gần.
Văn Tĩnh bước đến ngắm Ngọc Linh, bất giác lệ tuôn ròng ròng, nước mắt lạnh giá rơi xuống mặt nàng. Cô gái từ từ tỉnh giấc, trông thấy Văn Tĩnh, đôi mắt ảm đạm bỗng sáng bừng, “Mình… mình đến rồi?” Nàng dịu dàng nói, tuy không cử động được nhưng thần sắc hoan hỉ vô cùng, mắt lấp lánh cười, lệ châu cũng theo khóe mắt chảy ra.
Văn Tĩnh nắm chặt tay nàng, hai người say sưa nhìn nhau, ngàn lời vạn ý đong đầy trong ánh mắt. Hồi lâu, Ngọc Linh lên tiếng, giọng êm dịu: “Vì sao không đến thăm em?”
Văn Tĩnh cay mắt: “Tôi… tôi ốm.”
“Á!” Ngọc Linh cố sức giãy giụa, nhưng kiệt sức, không dậy được: “Mình… mình không sao chứ?”
“Không sao, khỏi rồi.”
Ngọc Linh ngắm gã bảo “Sau này không được phép ốm nữa.”
Văn Tĩnh bối rối: “Hử, bệnh tật đâu do mình quyết định được?”
“Mặc kệ… khụ khụ… đằng nào… em cũng không… cho phép mình ốm.” Ngọc Linh thổ huyết. Văn Tĩnh đương cuống quýt không biết làm thế nào, một cánh tay bỗng đâu thò ra, nhanh như cắt nhét một viên hoàn đan màu lam nhạt vào miệng Ngọc Linh, thuốc vừa vào là tan, người đó lại bấm huyệt Thiên đột4 của nàng, thuốc lập tức trôi xuống.
Văn Tĩnh ngoái cổ nhìn. Bạch Phác, mặt không biểu lộ gì, đứng sau lưng gã.
Ngọc Linh cố sức khạc nhổ: “Phì… phì… ta, ta không uống cái thứ thối tha của nhà ngươi, phì… phì…”
“Đừng nên xử sự theo cảm tính. Tùng Vận đan, cả thiên hạ chỉ có ba viên, uống vào sẽ tốt cho cô đấy.” Bạch Phác lạnh lùng nói, đoạn bảo đám tì nữ: “Ra ngoài hết.” Rồi y cũng đi ra, tiện tay khép cửa lại.
Văn Tĩnh nghe nói thuốc quý như thế, vội khuyên: “Em uống đi, đừng nhổ ra nữa.” Ngọc Linh lườm gã, bĩu môi bảo: “Mình cũng muốn giúp cái thằng dài lưng tốn vải đó hả?”
Văn Tĩnh đỏ mặt: “Không, tôi… chỉ lo cho em mà thôi.”
“Được rồi, mình bảo em uống, em cũng nể mặt hắn vậy.” Ngọc Linh nói, cảm thấy nơi ngực dễ chịu rất nhiều, thầm nhủ: “Cái thứ đan dược thối tha này hiệu nghiệm thật.” Nàng níu tay Văn Tĩnh: “Mình sẽ bên em cả đời chứ?”
“Tất nhiên…” Văn Tĩnh đáp.
“Nếu lần này em chết, mình có đi tìm người đàn bà khác không?” Ngọc Linh hỏi.
Văn Tĩnh vội bảo: “Đừng nói gở như vậy.”
“Mình biết không, mình chẳng đến thăm em, họ lại không báo cho em biết tin tức của mình, em… em chỉ nghe thấy tiếng quân Mông Cổ công thành, cứ tưởng mình đã tử trận rồi… đằng nào…” Đôi mắt to của nàng lóe sáng: “Mình mà chết, em cũng không sống nữa.”
Văn Tĩnh chẳng ngờ nàng lại si mê đến vậy, ngực nóng ran, gã run giọng đáp: “Được. Không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm nhưng nguyện chết cùng năm cùng tháng cùng ngày.”
Ngọc Linh ngả đầu vào ngực gã: “Em luôn cảm thấy mình khác tất cả mọi người. Em biết lời mình là chân thành, mình mà nói đối tốt với em, nhất định mình sẽ đối tốt với em. Sư phụ và sư huynh tuy cũng nói thật lòng, nhưng họ rất ít mở lời.”
Văn Tĩnh thấy rối tung cả đầu: “Vậy ư? Tôi… tôi…” Gã đột nhiên thở dài: “Đáng tiếc, tôi bây giờ thân bất do kỷ, nếu không có chinh chiến, không có cái vỏ Hoài An vương này thì tốt biết bao. Quả thực tôi rất ghét đánh giết, chỉ muốn tìm một nơi yên bình, phong cảnh hữu tình, sống êm đềm ngày tháng.”
“Đưa em đi chứ?” Ngọc Linh hỏi.
“Đương nhiên là sẽ đi với em rồi.” Văn Tĩnh cười: “Cả cha nữa.”
Ngọc Linh chìa bàn tay trắng muốt “Nhất định thế nhé, không được nuốt lời đâu đấy.”
Văn Tĩnh cũng thò tay: “Nhất định.” Hai người toan đập tay, bỗng nghe thấy Bạch Phác gọi: “Thiên tuế, Vương Kinh lược sứ cầu kiến.”
Ngọc Linh cong môi tức giận: “Hừ, cái tên thối tha này dám nghe trộm.”
Văn Tĩnh chẳng còn cách nào khác, đành đứng dậy.
oOo
“Thiên tuế khí sắc kém tươi.” Vương Lập chào, rồi cùng các tướng ngồi xuống: “Mấy hôm trước thiên tuế sinh bệnh, chúng thuộc hạ không dám quấy nhiễu người, nhưng tình hình mỗi ngày một cấp bách, quân Mông Cổ bất chấp thương vong vẫn tấn công dữ dội. Nếu bọn chúng đánh thêm vài ngày nữa, chỉ e…” Vương Lập nhìn quanh, mọi người đều im thin thít.
Văn Tĩnh cũng tắc tị, đưa mắt sang Bạch Phác. Bạch Phác trầm ngâm chốc lát, đứng dậy nói: “Thuộc hạ có một kế sách, may ra hữu hiệu.”
“Mời Bạch tiên sinh.” Văn Tĩnh thở phào, nhưng chẳng vui vẻ gì.
Bạch Phác nói: “Xin lên đầu thành xem.”
Mọi người lên đầu thành, Bạch Phác trỏ ra dãy đồi trọc nơi xa “Quân Thát rất giảo hoạt, một là sợ chúng ta dùng hỏa công, hai là phải gấp rút chế tạo khí giới công thành, đã đem tróc sạch cây cối trên núi. Chim chóc mất nơi trú ngụ, lẽ ra phải bay hết đi nơi khác, nhưng các vị đã bao giờ nhận ra trong doanh trại Mông Cổ thi thoảng vẫn có chim bay lên bay xuống, cứ tập trung thành từng cụm, số lượng cũng rất nhiều không?”
“Ô…” Vương Lập vuốt râu giả bộ hiểu.
Văn Tĩnh thì sáng mắt hỏi: “Phải chăng nơi có chim bay lên xuống chính là chỗ tích lương của đại doanh Mông Cổ?”
Bạch Phác gật đầu với gã tỏ ý tán thưởng, thầm nghĩ: “Cứ bảo thằng nhóc ngây ngô, nhưng đôi lúc rất thông mình, còn bảo hắn thông minh thì…” Y không đủ thời gian nghĩ tiếp, lại nói: “Thiên tuế dạy rất phải, người Mông Cổ ăn thịt trâu thịt dê, nhưng trâu hay dê gì thì cũng phải nuôi bằng cỏ rạ. Thêm vào đó, hoàng đế Thát lần này thân chinh, đã huy động hàng chục vạn binh mã và dân phu người Hán ở phương bắc, những người đó đều sống bằng kê, bằng lúa mạch, tôi cho rằng những nơi chim chóc lên xuống chính là chỗ dồn trữ lương thảo của đại quân Mông Cổ, chỗ nào nhiều chim, chỗ đó càng nhiều lương.” Các tướng chăm chú quan sát, quả nhiên thấy đúng như vậy.
“Bảy ngày nay, mấy chục vạn nhân mã Mông Cổ đã tiêu dùng rất nhiều lương thảo, nếu đốt trụi đống lương thảo đó, bọn họ không lui binh thì cũng chùn nhụt hẳn, giảm nhẹ sức ép cho chúng ta!” Bạch Phác nói với ánh mắt sáng ngời, khuôn mặt tươi tắn.
Vương Lập vuốt râu: “Nói nghe xuôi lắm, nhưng làm mới biết khó, mấy hôm trước tập kích quân doanh đã mất mạng cả đấy thôi.”
Bạch Phác cười: “Chớ tưởng kế gì cũng chỉ nên dùng một lần, tôi nghĩ cứ tiếp tục theo cách đó. Bọn Mông Cổ nhất định không ngờ nổi chúng ta vừa thảm bại đã đến tập kích nhanh thế, huống hồ lần này tiến hành thật kín đáo, đừng cho nhiều người đi quá, chỉ trăm người là đủ rồi.”
Vương Lập sửng sốt: “Một trăm người đột nhập, khác nào dâng mỡ miệng mèo, chả đúng mong muốn của quân Thát quá ư?”
“Vì vậy, một trăm người đó võ nghệ phải thực tinh thâm, biết ứng biến.” Bạch Phác giải thích: “Hiện nay rất nhiều hào kiệt võ lâm Xuyên trung đang tận sức trong thành, đây chính là cơ hội lập công của họ. Bạch mỗ bất tài, xin đi hàng đầu.”
Vương Lập thầm nghĩ: “Vỏn vẹn trăm người, chết cũng không tiếc, cứ để chúng thử xem.” Đoạn nói: “Được!” Văn Tĩnh không có ý kiến gì khác, cũng hùa theo khen phải.
Lương Thiên Đức can: “Không được. Còn tên sát thủ áo đen xuất quỷ nhập thần, chỉ Bạch tiên sinh mới đối địch được hắn, lúc ông đi vắng hắn thừa cơ giết người thì chí nguy.”
Bạch Phác giật mình, băn khoăn ngẫm nghĩ: “Khó đây, hôm trước vây đánh tên ấy khiến hắn bị thương nặng, ta đã mấy lần bắn tin, đem sư muội hắn làm mồi nhử mà chẳng thấy động tịnh gì. Nhất định hắn đã tìm được một nơi vắng vẻ dưỡng thương rồi, chẳng biết bao giờ hắn sẽ thò mặt ra?”
Lương Thiên Đức nói: “Lương mỗ cũng vọc vạch chút ít công phu, tuy không đến mức tinh thâm, nhưng cũng tạm đối phó được, nguyện đi thay Bạch tiên sinh.”
Văn Tĩnh hoảng hồn nghĩ bụng: “Bố rối trí rồi!” Gã toan lên tiếng ngăn cản, đã thấy hai mắt Lương Thiên Đức chĩa vào mặt mình, sợ quá thậm chí không đứng dậy nổi.
Bạch Phác mừng rỡ nhủ thầm: “Bọn võ sinh kia vốn là một lũ ô hợp, Lương tiên sinh có cái tài của đại tướng, sẽ dẫn dắt được chúng.”
Nghiêm Cương nói dõng dạc: “Nghiêm mỗ cũng xin đi.” Lưu Kình Thảo bước theo thỉnh mệnh, chỉ có Đoan Mộc Trường Ca không lên tiếng, Bạch Phác liếc lão, thầm nghĩ: “Người này võ nghệ vừa phải, được mỗi cái âm khí bức nhân, chẳng hiểu đang nghĩ gì? Lần này lành ít dữ nhiều, hắn không muốn đi, ta cũng không miễn cưỡng.” Mọi người thỏa thuận xong, Vương Lập truyền lệnh xuống, chọn khoảng một trăm cao thủ giao cho Lương Thiên Đức dẫn đầu, chọn ngày đột kích doanh trại địch.
Trở về Trúc Hương viên, Văn Tĩnh mặt mày xám xanh. Biết gã có chuyện không vui, nhưng không tiện hỏi thẳng, Nguyệt Thiền thử dọ dẫm mấy lần, Văn Tĩnh cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, tinh thần để đâu đâu.
Chợt nghe báo Lương Thiên Đức cầu kiến, gã nhảy cẫng lên bảo: “Mau mau mời vào!”
Nguyệt Thiền nghĩ thầm: “Thiên tuế xưa nay suy nghĩ kín đáo, ngoài mặt luôn tỏ ra uể oải, ngoài vị cô nương áo đen ấy, rất ít khi ông ta quan tâm đến việc gì như thế này.”
Lương Thiên Đức vừa đến cửa, Văn Tĩnh đã kéo tuột cha vào phòng ngủ, đóng sập cửa lại.
Lương Thiên Đức sầm mặt: “Mày cuống cà kê lên làm cái gì thế?”
“Bố, con van bố đừng đi.” Văn Tĩnh nói: “Lần này nguy hiểm quá.”
Lương Thiên Đức toan nổi giận, nhưng nhìn bộ dạng sướt mướt của con, liền dịu lại: “Nam tử hán đại trượng phu sinh ra trong trời đất quý ở hai chữ nhân nghĩa. Hiện tại ngàn vạn lê dân Hợp Châu tính mệnh như chỉ mành treo chuông, nếu thành bị phá, chắc chẳng ai may mắn thoát chết, so với điều đó, một chút nguy hiểm của ta thì có đáng gì?” Nói tới đây, lão nhướng mày: “Nhớ thuở xưa…” rồi hồi tưởng một lần nổi giận năm nào gây liên lụy đến cả gia môn, thê nhi lần lượt ngộ hại, nếu không có người bạn là Huyền Âm đạo nhân thì cũng không giữ được cả đứa con thơ này. Dung nhan và giọng nói của người vợ quá cố lướt qua óc, bất giác lão nhói ngực, đứng ngẩn ra một lúc. Lại nhìn Văn Tĩnh nước mắt lưng tròng, lão càng cảm thấy đau đớn, đưa tay gạt lệ cho con: “Thằng bé ngốc này, nam nhi đổ máu chứ không rơi lệ!”
Văn Tĩnh lau mặt qua quýt, nén khóc nói: “Bố, lần trước con lén lút bỏ trốn, thực không phải, sau này không dám làm bố giận nữa. Bố đừng đi, được không?” Tới đây, gã lại trào nước mắt.
Lương Thiên Đức lắc đầu bảo: “Người lớn cả rồi, đừng làm nũng thế. Lần trước ta cũng đoán được là tự con trốn đi, vì vậy không lo lắng lắm. Con bẩm tính mềm yếu, không gánh vác được trách nhiệm lớn lao, quả tình đã làm khó con.” Lão thầm nghĩ sống chết chưa biết thế nào nên nói năng hiền hòa hẳn, khiến Văn Tĩnh càng thêm muốn khóc.
“Con giả mạo Hoài An vương, thực vô cùng nguy hiểm. Sự việc bại lộ tất mang họa sát thân, chuyến đi này, nếu ta thất bại không trở về, Hợp Châu e rằng khó giữ, con… con hãy thay đổi y phục, mau rời khỏi đây!” Lương Thiên Đức thở dài: “Ta để con dấn thân vào việc thị phi, chẳng biết là đúng hay sai, nắm xương già này dẫu có rải trên núi Ba sông Thục cũng đành lòng, nhưng con tuổi còn trẻ, ngày tháng còn dài…” Lão đưa Văn Tĩnh cái gói cầm trên tay, hào khí ngút trời chốn sa trường bỗng biến sạch, ánh mắt đượm yêu thương, đúng vẻ mặt một người cha hiền từ.
Văn Tĩnh biết tâm ý cha đã quyết, không cách nào thay đổi được, gã đỡ lấy khăn gói, đứng ngẩn người, những muốn khóc rống lên. “Bố, bố nhất định phải trở về.” Cuối cùng gã chỉ thốt ra được một câu như vậy.
Lương Thiên Đức nhìn con chăm chú, bật cười ha hả, đẩy cửa bước ra.
oOo
Gió thu hun hút lướt qua đầu thành, trên cao trăng sao nhàn nhạt. Văn Tĩnh để mặc tà áo bay phần phật, chăm chăm ngóng sang đại doanh Mông Cổ, ở đó đèn đuốc lốm đốm, như sáng thay màn sao trên trời.
Hốt nhiên, một ngọn lửa bùng cháy, càng lúc càng rỡ ràng, càng lúc càng lan rộng, tựa vầng thái dương nóng bỏng, từ từ dâng lên khoảng trời phương bắc.
“Thành công rồi.” Chư tướng nhà Tống nhất loại reo hò. Văn Tĩnh thì biết sau khi lửa cháy mới là lúc nguy hiểm nhất, tim đập bình bình như muốn phá ngực lao ra.
Bạch Phác nhìn vẻ căng thẳng của gã, đoán được phần nào, bất giác thở dài.
Lửa càng lúc càng lớn, trong doanh trại Mông Cổ, người hét ngựa hí cực kỳ hỗn loạn, bỗng đại môn bật mở, chừng hai mươi kỵ mã lao ra như tên bắn, gấp rút phóng về phía thành Hợp Châu. Kỵ binh Mông Cổ đeo sát đằng sau. Bạch Phác bật kêu “Hơn một trăm người đã thiệt quá nửa?”
Văn Tĩnh mở to mắt tìm bóng cha, chợt thấy trong bọn có một người quay mình giương cung, rồi mấy tên kỵ sĩ Mông Cổ ngã ngựa, gã không kìm được reo lên hoan hô.
Truy binh càng lúc càng đông, tên bay như châu chấu, hơn hai mươi kỵ mã lại mất đi một nửa. Văn Tĩnh chẳng để tâm gì đến những người khác, chỉ chăm chăm nhìn cha, thấy ông già tụt lại sau, mỗi lần giương cung đều bắn liền mấy mũi, bách phát bách trúng, đoạn hậu cho mọi người, gã lo lắng vô cùng, chỉ hận không thể tiếp thêm đôi chân mình thúc ngựa cho cha, còn việc gã thúc ngựa liệu có nhanh hơn được không, gã chẳng hề nghĩ đến.
Đoàn người dần dần áp sát thành Hợp Châu. Văn Tĩnh kêu to: “Mở cửa thành!”
Chư tướng ngơ ngác. Lý Hán Sinh nói: “Không được, quân Thát đuổi rát quá, nếu mở cửa, chúng sẽ thừa cơ xông vào.” Văn Tĩnh nín lặng.
Bên kia pháo nổ vang trời, đại quân Mông Cổ ùa ra khỏi doanh trại, ùn ùn tràn về phía Hợp Châu. Quân Tống nhất tề giương cung nỏ, bắn cũng dở, không bắn cũng dở, bắn thì sợ trúng người mình, không bắn thì quân Thát sẽ lại gần, tạm thời ngần ngừ chưa quyết.
“Thả dây,” Bạch Phác thét to. Câu nói ấy đã nhắc nhở mọi người. Mười mấy sợi thừng từ đầu thành dòng xuống, toán đột kích cũng vừa về tới nơi. Lưu Kình Thảo lập tức tung mình bắt lấy thừng, nhấp nhô chốc lát đã lên tới đầu thành. Nghiêm Cương tóm được một sợi theo ngay đằng sau. Lương Thiên Đức tụt lại bắn cung đoạn hậu, bắn ngã mấy tên Thát rồi quơ lấy một sợi thừng.
Xạ thủ Mông Cổ tràn tới, xối tiễn như mưa lên tường thành. Nghiêm Cương và ba hảo hán Xuyên trung trúng tiễn, rơi xuống. Nghiêm Cương bị thương vào bắp tay, chật vật leo lại, chợt thấy một đồng đội thắt lưng trúng tên đang loạng choạng, y bèn đưa tay ra dìu, nào ngờ mấy chục tên Mông Cổ đã đuổi kịp, loạn đao chém xuống, máu thịt tơi bời.
Lương Thiên Đức đu sợi thừng chao đi chao lại tránh tên, đu mấy lượt chỉ còn cách đầu thành chừng mười trượng. Văn Tĩnh cuống quýt, không bận nề hà thân phận thò tay kéo binh sĩ. Lương Thiên Đức sắp tới gần, chợt nghe thấy một tiếng động lạ cực lớn, rồi một mũi tên bay tới, mạnh và nhanh vô cùng, khác hẳn những mũi tên bình thường. Lương Thiên Đức lơ lửng giữa lưng chừng trời, không tránh được, hự một tiếng, bị găm cứng vào tường thành5.
Văn Tĩnh hít một hơi lạnh buốt, gắng sức kéo thừng. Mũi tên thứ hai tới nơi. Lương Thiên Đức nghe lưng đau nhói, tuột tay ngã ngửa xuống dưới, còn lờ mờ trông thấy Văn Tĩnh với đôi mắt kinh hoàng. Lão ngáp ngáp miệng muốn nói, nhưng xung quanh tràn ngập tiếng người reo ngựa hí tựa núi đổ triều dâng, hơi nói thoát ra khỏi họng liền chìm lỉm đi như bọt nước khuất dạng dưới lòng biển cả. Tấm thân hùng tráng vừa rơi bình xuống đất, đao thương nhọn hoắt từ bốn bề đã cấp tập xỉa vào.
Văn Tĩnh nhìn đầu thừng, run bắn, sau ngước mắt trông ra xa, nơi ấy có một viên tướng áo lam cưỡi con ngựa đen tuyền đang giương cung lắp tên ngắm lên tường thành. Gã vụt thấy ngực trĩu nặng, hai mắt tối sầm, lảo đảo ngã vật ra đất.
oOo
Mùi long não nồng nồng ngập đầy phòng ngủ lót gấm. Văn Tĩnh bàng hoàng tỉnh khỏi trạng thái hỗn độn, người ngâm ngẩm đau như bị chặt đôi. Gã ngây dại nhìn bức trướng mẫu đơn diễm lệ trên đỉnh giường, nước mắt theo gò má lặng lẽ chảy xuống, từng giọt từng giọt một, thấm ướt chiếc gối ngọc trơn nhẵn tinh xảo.
“Thiên tuế bị bệnh gì vậy…” Tiếng nói chuyện của Vương Lập và lang trung từ ngoài cửa văng vẳng vọng vào, rồi xa dần xa dần. Tia nắng ban mai lọt qua khung cửa gỗ đàn hương chạm hoa, rơi xuống nền đá xanh trống rỗng, Nguyệt Thiền nhẹ nhàng bước trên nền đá đến bên giường, đứng một lúc, xong cũng với những bước chân nhẹ nhàng ấy, nàng lặng lẽ đi ra.
Văn Tĩnh ngồi dậy, lôi từ dưới gầm giường lên bọc khăn gói vải xanh Lương Thiên Đức đưa hôm nọ, mở ra xem, bên trong có bộ áo vải thô và khoảng một trăm lượng bạc. Gã nắm chặt một chéo áo, trong đầu lại hiện lên hình ảnh của cha, không kìm được nước mắt ròng ròng chảy. Gã mở khung cửa chạm hoa, nhảy ra ngoài.
“Đi đấy ư?” Có tiếng nói vang lên bên cạnh, không cần quay đầu Văn Tĩnh cũng biết đó là ai.
“Phải!” Gã chậm chạp đáp: “Bố mất rồi, tôi ở lại đây làm gì?”
Bạch Phác gạt đám lá trúc lòa xòa bước ra: “Có một người nữa đấy, em định bỏ mặc ư?”
Văn Tĩnh rùng mình, lạnh lùng nói: “Bạch tiên sinh quả nhiên cao minh, ngoài bố tôi ông còn kiềm thúc một người nữa, định dùng cô ấy để trói buộc tôi chăng?”
“Vì nước vì dân, cho dù bị người đời chỉ trỏ chửi mắng là đê tiện hạ lưu, ta cũng cam lòng.” Bạch Phác điềm tĩnh trả lời: “Hiện tại còn chưa chắc thắng, em chưa đi được.”
Văn Tĩnh nghiến răng với y, cười khẩy: “Đáng tiếc ông đã tính sai một nước, cô ta là người Mông Cổ, người Mông Cổ…”
Thấy gã khác hẳn ngày thường, Bạch Phác chưng hửng, giơ tay vỗ vai gã hỏi: “Em không sao chứ?”
Văn Tĩnh lắc mình tránh, nói giọng đanh thép: “Người Mông Cổ đã giết bố tôi, tôi còn thích cô ta được ư?” Gã vùng bước tới, nhìn Bạch Phác trừng trừng: “Còn ông, nếu ông không quấn lấy cha con tôi, bố tôi cớ gì phải đến đây, cớ gì phải chết dưới thành này?” Gã giật Cửu Long ngọc lệnh ra khỏi thắt lưng, hằn học ném vào Bạch Phác, gằn giọng bảo: “Mông Cổ và các ông, đều xấu xa!” Nói tới đây, lệ doanh tròng, gã điểm mặt Bạch Phác, nghẹn ngào lặp lại: “Các ngươi, các ngươi đều là kẻ xấu!”
Đoạn gã co chân chạy ra khỏi rừng.
Bạch Phác gọi với theo: “Em căm hận, ta không cấm cản được, song có một chuyện ta cần báo cho em biết. Tiêu Lãnh đã ra mặt, giết chết mấy chục quân dân vô tội, ta vừa bắn tin, trong vòng ba canh giờ nữa, ở chùa Tàng Long phía đông thành, một mạng đổi một mạng, dùng tính mệnh sư muội hắn đổi lấy tính mệnh hắn, nếu quá giờ mà hắn không đến, con tin mất tác dụng, ta quyết không nương tay.”
Văn Tĩnh hơi rùng mình, rồi lập tức cười khẩy: “Can hệ gì đến ta?” Gã không ngoái đầu lại, cứ cắm cúi sải bước đi rõ nhanh, nhảy bật lên ngược hướng nắng mai, vạch một đường vòng cung đẹp mắt trên không, lướt qua bờ tường cao hơn một trượng.
“Thằng bé này, võ công tiến bộ lắm rồi!” Bạch Phác cười buồn, nhặt tấm Cửu Long ngọc lệnh lên, giắt vào thắt lưng, phất tay áo, đi sâu vào rừng trúc rậm.
oOo
Mông Ca nhìn chằm chằm ngọn lửa chưa tắt và những đụn khói nhẹ lập lờ, mặt lạnh băng.
Ông giơ chân hất những xác dê bò đã cháy đen, quét mắt nhìn mấy chục người đang quỳ la liệt dưới đất, đó là đám quan viên lớn nhỏ có nhiệm vụ bảo vệ kho lương.
“Các ngươi làm việc giỏi lắm!” Mông Ca nghiến răng cười, nụ cười nanh ác lạ lùng: “Vì sao địch nhân vào được?”
Một người đứng đầu run rẩy thưa: “Hạ… hạ thần… đêm qua, còn… còn đi tuần một lượt, sắp xếp canh gác xong xuôi mới trở về lều nghỉ… vừa chợp mắt…”
Mông Ca sốt ruột, xua tay quát: “Chặt đầu tất cả.” Thị vệ nhất tề vung đao kiếm chém xuống, đầu người rụng đầy mặt đất, máu tươi rỉ theo chỗ trũng, tụ thành vũng.
Mông Ca lạnh lùng quay mặt đi hỏi: “Tuần sát đêm qua là ai?”
Một người bước ra khỏi hàng, lạy thưa: “Mạt tướng Na Bất Oát, tuần tiễu không trọn chức trách, chỉ biết lấy cái chết để tạ ân vạn tuế.” Nói đoạn, rút loan đao ra khỏi thắt lưng, cứa lên cổ, ngã gục xuống.
Mông Ca gật gật đầu: “Người này dám làm dám chịu, không đánh mất bản sắc hảo hán Mông Cổ. Hậu táng cho hắn.”
Ông ta hỏi Sử Thiên Trạch: “Hiện tại lương thảo còn dùng được bao lâu?”
Sử Thiên Trạch bẩm báo: “Hiện tại lương thảo chỉ đủ dùng ba ngày, đội tải lương phải sáu ngày nữa mới tới.”
“Ba ngày?” Mông Ca nhíu mày, nhìn lướt khắp chư tướng: “Theo các ngươi thì nên làm sao đây?” Thấy mặt Mông Ca chẳng lành, ai nấy len lén liếc nhau không dám đáp. Bá Nhan toan bước ra khỏi hàng, Sử Thiên Trạch đứng gần đó bèn nắm y lại. Bá Nhan nhìn sang, đương thắc mắc, một tướng đã tiến lên, người đó tên gọi An Đạc, chức Thiên phu trưởng. An Đạc nói to: “Lương thảo có ảnh hưởng đến sĩ khí toàn quân, hiện nay không tiếp vận kịp, xin Đại hãn hồi giá Lư Châu tính kế khác.”
Mông Ca không đếm xỉa đến, ngửa mặt lên trời lẩm bẩm: “Ba ngày? Ba ngày ư?” Ông ta ngoảnh lại, bay lên mình Trục Nhật, phóng đi giữa bụi đất mịt mù.
oOo
Văn Tĩnh đến trước cổng thành, thấy cửa lớn đóng chặt, canh gác sâm nghiêm, gã dừng bước thầm nhủ: “Ta thật hồ đồ, hiện tại đang đánh nhau, làm sao mà ra được?”
Lúc ấy một viên hiệu úy đang khuyết tráng đinh, trông thấy gã liền gọi: “Tên hèn hạ kia mau lại đây khuân đất.” Văn Tĩnh sửng sốt co chân chạy, hiệu úy bèn hô hoán, bảy tám tên lính Tống chạy theo bắt. Văn Tĩnh lập tức thi triển Tam tam bộ, mấy người vồ hụt, đâm vào nhau ngã dúi dụi, chẳng hiểu ra sao. Họ lồm cồm bò dậy, gã thiếu niên đã mất dạng.
Văn Tĩnh chạy một thôi rồi đỗ lại sau một bức tường, trông ra bên ngoài thấy vô số dân phu đang bị đánh roi thúc đi, đủ cả nam phụ lão ấu, khóc rên váng trời.
“Thằng ranh!” Một giọng khản đặc cất lên sau lưng: “Mày cũng trốn bắt phu phải không?” Một bộ mặt già khọm răn reo như vỏ quýt hé ra dưới một cái lờ rỗng, ánh mắt đục ngầu mò mẫm trên mặt Văn Tĩnh.
Văn Tĩnh gật đầu, lão già bèn thò cái chân gày nhẳng ra bảo: “Mày không nên trốn. Già đây là do quả thực không đi nổi nữa, lại không có tiền bạc biếu quan gia mua rượu uống, cũng không có gái đẹp hiến quan gia ôm ấp, bất đắc dĩ mới phải trốn, mày còn trẻ, gặp chuyện này không trốn được.”
Văn Tĩnh lặng thinh, rồi hỏi: “Bọn quan binh khốn nạn, ức hiếp người nghèo, ép họ làm những việc họ không muốn. Triều đình như thế đáng để người ta bán mạng hay sao?”
“Già chẳng biết triều đình gì cả.” Lão nọ nói: “Già chỉ biết Mông Cổ đánh tới sẽ giết sạch đàn ông, cưỡng bức phụ nữ, cướp hết gà vịt, đốt trụi nhà cửa của chúng ta. Quan quân nhà Tống vẫn tử tế hơn, dẫu thế nào, họ cũng giữ gìn tính mệnh của người Hợp Châu, gặp phải thời buổi này, giữ được tính mệnh là tốt lắm rồi…” Lão già chừng như trốn quá lâu, mãi mới tìm được người để tâm sự, cứ lắp bắp nói không ngừng. Văn Tĩnh nghe đoạn trước ngẩn ra, đến đoạn sau lão ta nói gì gã cũng không chú ý nữa, mang máng nhớ là có cho lão già một đồng bạc vụn, rồi lơ mơ bỏ đi.
Gã đi lửng khửng một lúc, trong đầu vẫn hiện lên bộ mặt tức cười đó, gã buốt óc, nắm tay đấm mạnh vào tường, tay rướm máu, thần trí cũng tỉnh táo hơn, gã nghĩ: “Ta thực sự bỏ được nàng sao?” Nghĩ tới đây, Văn Tĩnh bất giác ngơ ngẩn ngước mắt nhìn, nhận thấy gần đó có một ngôi chùa nguy nga sừng sững, khí thế huy hoàng, thì ra trong lúc chân bước đưa chân, gã đã đến chùa Tàng Long ở phía đông thành.
“Đằng nào cũng đã tới, cổng thành không ra được, thôi thì ở lại xem diễn trò.” Văn Tĩnh lẩm bẩm định bước vào cửa, bỗng nghe loáng thoáng có tiếng nói, gã sững sờ nghĩ bụng: “Không nên chạm mặt họ thì hơn.” Gã bèn bước vòng qua bình phong, lờ mờ trông thấy bên tường một cây đại thụ vươn lên sừng sững, đứng trên đó có thể quan sát được mọi việc diễn ra trong chùa.
Nín thở, gã định thần nhìn kỹ. Bạch Phác đứng trước bồn hoa ở chái điện thờ, Ngọc Linh hai tay bị trói quặt ra sau, ngồi dưới đất, luôn mồm chửi mắng đối phương, miệng lưỡi nàng vốn sắc sảo, chửi người không kiêng kỵ gì. Bạch Phác tức giận đùng đùng, thi thoảng đáp lại nàng một câu, nhưng bị nàng nói cho cứng miệng, y càng thêm lúng túng, đành mặc kệ, ra vẻ không bận tâm đến nữa.
Văn Tĩnh nghe nàng chửi ngông nói càn, tự dưng mỉm cười, nhưng thoáng cái kiềm chế lại ngay: “Ta vẫn thích cô ta ư? Người Mông Cổ đã giết cha ta, thù này không đội trời chung, ta còn có thể thích đàn bà con gái của họ sao?” Vừa nghĩ thế, trái tim gã như bị dìm vào hố băng, không sao ngoi lên được.
Đang mải tự tranh đấu, Văn Tĩnh chợt nhìn thấy một người áo đen cầm đao xanh lam xuất hiện trước Đại Hùng bảo điện.
Hết chương 6
Chú thích1 Cân Trung Quốc bằng một nửa cân mình.
2 Đuổi mặt trời
3 Rồng sinh chín con
4 Huyệt nằm chính giữa chỗ lõm sát bờ trên xương ức
5 Nguyên văn: [font="ms mincho, ms 明朝, monospace"]梁天德身在半空,哪里避得开,闷哼一声,被生生钉在墙头
Tôi dịch câu này không thấy lôgic một chút nào, lại không nhận ra mình sai ở đâu. Sẽ sửa chữa ngay sau khi có điều kiện đối chiếu với bản gốc in sách.