Một mái lá soi bóng xuống suối vắng. Chủ của mái lá là một bà già rất khó đoán tuổi bởi tóc bà đã nhạt xanh mà mắt vẫn như sao. Đôi chân vẫn còn đủ sức leo qua năm, bảy quả đồi mà mặt không hề biến sắc. Bà già tên là Dưỡng Phụng. Một cái tên gợi trí tò mò cho những ai năng suy nghĩ.
Xung quanh bà có một phụ nữ trung niên và mấy bé gái. Đứa bé nhất chừng mười tuổi, đứa lớn nhất chừng mười sáu mười bảy tuổi. Trong nhà không có bóng đàn ông. Thỉnh thoảng có bóng đàn ông xuất hiện thì đó là bác tiều phu. Bác chỉ đến chốc lát rồi về.
Cuộc sống của hai người đàn bà và những đứa trẻ chủ yếu là tự cấp, tự túc nhờ vào rừng, suối. Những thức gì không tự túc được họ mới nhờ vào thế giới bên ngoài qua trao đổi sản vật hoặc tiền bà thu được do lộc rừng ban cho thông qua trí tuệ của bà và mồ hôi của những đứa trẻ.
Phía sau mái lá là một khu vườn rộng. Trong vườn ngoài những giống hoa ta thường gặp như hồng, cúc, huệ, nhài còn có những giống hoa rất lạ dân quê rừng rú không ai biết tên. Một vài bé gái sống quanh bà tò mò hỏi tên những loài hoa lạ. Bà và ẩn Phụng nói là cũng không biết.
Đầu hồi phía Tây nhà là khu bếp và chuồng lợn, chuồng dê, chuồng gà. Đầu hồi phía Đông giáp phòng ngủ của hai người đàn bà là những hàng chè xanh thẳng tắp, cây nào cây nấy mơn mởn búp non. Sau những hàng chè xanh là hai cây bưởi và một cây hoàng lan cao lớn, chứng tỏ chúng đã nhiều tuổi. Hai cây bưởi không nói làm gì còn cây hoàng lan không thể là cây tự nhiên mà phải là cây do người trồng, và giống cũng phải từ nơi khác mang về. Bởi vì vùng này dọc ngang trăm dặm tìm đâu cũng không thấy bóng hoàng lan, còn bưởi thì vô số.
Bên ngoài khu vườn phía sau ngôi nhà là vạt đồi rộng dễ đến dăm bảy mẫu trồng hàng trăm loài cỏ thuốc. Có những cây cỏ thuốc là thảm hoạ cho các loài ong bướm. Vì ong bướm cứ đậu vào hoa hút mật xong là lăn đùng ra chết. Tên của những loài cỏ chết người ấy chỉ có bà Dưỡng Phụng và ẩn Phụng cùng một người nữa biết. Người đó là bé gái mười sáu mười bảy tuổi tên là Sơn Nữ. Vun tưới những cây cỏ đặc biệt ấy, bà ẩn Phụng giao cho Sơn Nữ.
Sơn Nữ cùng những đứa trẻ sống trong nhà này quan hệ thế nào với hai người đàn bà? Là con hay là cháu. Nếu là con thì chỉ vài ba đứa thôi chứ. Nếu là cháu, vậy bố mẹ chúng đâu?
Gần hai mươi năm trước, vào lúc hoàng hôn của một ngày mùa đông buốt giá có một thiếu phụ tuổi trên ba mươi và một cô gái tuổi chừng mười sáu mười bảy thất thểu tới hẽm núi này. Ngày ấy hẻm núi chỉ có hai nóc nhà của hai gia đình tiều phu. Thiếu phụ dắt cô gái đến một nhà xin ngủ nhờ qua đêm. Bác tiều phu bằng lòng, bởi lẽ nhà bác chẳng có của nả gì ngoài cây búa. Vợ chồng bác và hai đứa con tuổi còn nhỏ không thù hằn ai, không hề gây nguy hiểm cho ai, cho nên cũng không ai gây hoạ cho bác. Hai người chân yếu tay mềm ngủ nhờ nhà bác cũng không thể đe doạ bác được.Vả lại, đêm đông rét mướt, người đàn bà và cô gái biết đi về đâu giữa núi rừng hoang vắng.
Thiếu phụ hỏi bác chủ nhà mua gạo nấu cơm. Nhà bác tiều phu chỉ có bồ rỗng. May sao rổ còn mấy củ sắn luộc, bác bèn đãi hai người khách cơ nhỡ.
Hôm sau, người thiếu phụ không rời xóm núi mà lại đi dạo một vòng xem đồi núi, suối khe và con đường mòn thông với đường quan. Trở về, thiếu phụ bỏ ra một số bạc nhờ bác tiều phu dựng cho một nếp nhà bên suối. Hẻm núi có thêm một nóc nhà nữa nên trở thành xóm núi.
Bác tiều phu trở thành láng giềng tốt của thiếu phụ. Tuy vậy, bác vẫn chưa biết tên của thiếu phụ và cô gái. Bác bèn hỏi cho tiện xưng hô. Thiếu phụ ngẫm nghĩ một lúc mới nói: "Tên tôi là Dưỡng Phụng còn cháu nó tên là ẩn Phụng." Dưỡng Phụng và ẩn Phụng có phải là tên thật của hai người hay nó mới mọc ra từ ngày hai người bước chân đến hẻm núi hoang vắng này? Điều đó bác tiều phu không thể biết.
ẩn Phụng gọi bà Dưỡng Phụng là mẹ. Mẹ thật hay mẹ giả nào ai biết. Tóm lại tung tích của hai mẹ con bà Dưỡng Phụng được bao bọc bởi một màn sương khói mờ ảo. Nhưng điều này không thể không thừa nhận, hai mẹ con bà Dưỡng Phụng sống ngay lành, sẵn sàng giúp đỡ bác khi hoạn nạn và những ai cơ nhỡ.
Làm xong nhà, bà Dưỡng Phụng nhờ bác tiều phu cùng với bà và cô ẩn Phụng phát đồi trồng cây thuốc. Qua vài ngày giúp bà Dưỡng Phụng, bác tiều phu nhận thấy hai mẹ con bà Dưỡng Phụng chưa quen cày cuốc. Tuy vậy, cả hai đều rất cố gắng. Vất vả, rét mướt mà mẹ con bà vẫn cắn răng chịu. Chẳng bao lâu, đồi hoang đã trở thành đồi cỏ thuốc. Bà Dưỡng Phụng chặt về phơi khô, sao tẩm, đóng bồ để vào nơi cao ráo trong buồng.
Một hôm, con của bác tiều phu trúng phong ngã vật ra, mắt trợn ngược, rồi cấm khẩu. Bác tiều phu không biết làm thế nào để cứu con. Chợt nghĩ đến bà Dưỡng Phụng, bác bèn chạy sang nói với bà. Bà Dưỡng Phụng bảo ẩn Phụng sang cứu con bác tiều phu. Mang theo một nắm cỏ khô, ẩn Phụng bước sang nhà bác tiều. Giã nát nắm cỏ khô hoà vào một bát nước, bỏ thêm vào mươi hạt muối, vớt bã bỏ đi, ẩn Phụng cạy mồm đứa trẻ đổ nước thuốc cho nó uống. Thật thần kỳ, một lát sau mắt đứa trẻ hết trợn ngược và nói được. ẩn Phụng quay về nhà lấy một nắm cỏ khô nữa đưa cho bác tiều phu nói: "Bác sắc cho bạn ấy uống, sắc cho đặc lấy một bát thôi." Bác tiều phu làm đúng theo lời ẩn Phụng. Con trai bác đã vượt qua con hiểm nghèo.
Một lần khác, bác tiều phu khác- người hàng xóm thứ hai của bà Dưỡng Phụng có cô con gái bị rắn cắn. Toàn thân cô gái phù nề, tím ngắt, mồm thở rốc. Bác tiều phu này cũng chạy đến nhà bà Dưỡng Phụng cầu cứu. Bà cho ẩn Phụng sang cứu đứa trẻ . Với một ấm thuốc lá tẩy độc, ẩn Phụng đã trả lại sự sống cho cô gái.
Tiếng lành của mẹ con bà qua hai bác tiều phu vượt qua hẻm núi bay đi. Nhiều người tìm đến bà Dưỡng Phụng để giữ lấy mạng sống. Hàng trăm người đã thoát chết bởi những nắm cỏ dại. Để tiện việc cứu người, bà Dưỡng Phụng đã dựng một căn lều gần ngã ba nơi con đường mòn nối với đường cái. Mỗi tháng, bà tiếp người bệnh ba lần vào các ngày mùng mười, hai mươi, ba mươi. Bà Dưỡng Phụng không bao giờ đặt giá thuốc với người bệnh. Ai trả bao nhiêu tuỳ tâm, không trả cũng chẳng sao. Những người nghèo khó có trả tiền bà Dưỡng Phụng cũng không lấy. Người bệnh đến không đúng ngày bà Dưỡng Phụng làm thuốc cứ gặp một trong hai bác tiều phu kể đúng trạng thái đau đớn là có nắm cỏ dại mang về. Hai bác tiều phu nhờ những đồng tiền của bà Dưỡng Phụng bán "cỏ dại" san cho nên cuộc sống đỡ phần vất vả.
Bác tiều phu nhà ở gần nhà bà Dưỡng Phụng hay quan sát những hiện tượng khác thường. Vì bác thường vào rừng sâu nên phẩm chất ấy tự nhiên hình thành trong bác. Nhờ phẩm chất ấy mà hai ba lần bác thoát hiểm. Một lần thấy dấu chân hổ còn mới, bác biết hổ chưa đi xa. Bác bèn đi ngược chiều dấu chân hổ nên bác không gặp nguy. Hôm sau, bác tiều phu lại vào rừng. Qua đoạn đường hôm trước, bác phát hiện ra dấu chân hổ không xa. Bác thấy một vũng máu và một nắm lông hươu. Cây cỏ xung quanh đó nhàu nát cả. Vậy là đúng rồi. Một con hươu xấu số đã làm mồi cho con hổ. "Hôm qua mình không thay đổi hướng đi tất sẽ gặp nó".
Một lần khác, bác đi qua đồi tranh. Buổi sớm mùa xuân cả đồi tranh long lanh sương. Vậy mà, có một vạt cỏ dài như ai vừa dẽ ra không có hạt sương nào bám trên cỏ cả. Bác đoán chắc có con trăn lớn vừa đi qua. Bác lần theo, quả không sai. Phía trước bác, một con nai đang bị con trăn dữ dùng cái thân dài săn chắc vằn lên như sợi chão tre thít lấy cổ.
Bác để ý thấy ánh đèn nhựa trám trong nhà bà Dưỡng Phụng thường sáng đến gần nửa đêm, có khi còn sáng khuya hơn. "Làm gì mà thức khuya thế?" Tính hiếu kỳ kích thích, bác lặng lẽ bước sang nhà bà Dưỡng Phụng. Qua khe hở của vách liếp, bác thấy hai mẹ con bà Dưỡng Phụng đang đối diện bên bàn cờ. Vẻ mặt cô ẩn Phụng có vẻ căng thẳng. Có lẽ thế cờ của cô đang bị hãm. Bà Dưỡng Phụng ba lần nhắc quân cờ, cô ẩn Phụng xin thua. Bà Dưỡng Phụng giảng giải: "Ván cờ này tiểu thư thua là vì xuất tướng quá sớm. Tướng tôn nghiêm chỉ xuất khi nào cần thiết. Như vậy tướng mới có uy. Còn quân để thay cho tướng trong nước cờ này, tiểu thư không dùng lại vội xuất tướng là lạc nước. Cờ đi đúng nước thì con tốt cũng to hơn tướng, còn tướng tham công, hiếu thắng, lạc nươc dễ sa bẫy sẽ bị pháo mã khinh". Ván thứ hai cô ẩn Phụng lại thua. Bà Dưỡng Phụng lại nói: "Ván cờ này tiểu thư thua vì để tốt nhập cung. Tiểu thư tiếc con xe nên con tốt ấy mới sống sót. Tốt là tiểu nhân. Tiểu nhân vào được cung tất sinh loạn, tướng sỹ trên dưới nháo nhào ngay..."
Một trận gió ào qua. Cánh cửa liếp bị gió đẩy vào. Bà Dưỡng Phụng hướng ra phía cửa. "Thế nào bà Dưỡng Phụng cũng ra đóng cửa". Sợ bị phát hiện, bác tiều phu lặng lẽ lui gót.
Bà Dưỡng Phụng gọi cô ẩn Phụng là tiểu thư vậy bà không thể là người đẻ ra cô gái. Vả lại, mẹ con sao không hề có nét giống nhau. Thế thì bà là ai? Hôm sau, bác tiều phu mong cho ngày chóng qua để đêm tới nhanh. Trăng hạ huyền đã mọc. Đêm khuya lắm rồi. ánh đèn nhựa trám trong nhà bà Dưỡng Phụng vẫn hắt ra qua vách liếp thưa. Bác tiều phu rón rén bước tới nhà bà Dưỡng Phụng như con chồn buông những bước chân nhẹ tựa làn sương bám theo con gà rừng. Hôm ấy, bà Dưỡng Phụng và cô ẩn Phụng ngồi bên ấm trà. Hương thơm tinh khiết từ trong nhà loang trong không gian vắng lặng nhàn nhạt màu trăng. Chưa bao giờ bác tiều phu gặp hương trà thơm kỳ lạ như hôm ấy. ánh mắt của hai người đăm chiêu. Bỗng cô ẩn Phụng nói: "Nhũ mẫu đừng dấu con nữa. Nhũ mẫu đã hứa là sẽ nói cho con biết kia mà. Giờ con lớn rồi. Nhũ mẫu không coi con là con à?" Rồi cô khóc hu hu. Bà Dưỡng Phụng nựng: "Tiểu thư đừng khóc. Nhũ mẫu không muốn tiểu thư đau lòng." Cô ẩn Phụng giãy nảy: "Con không thích gọi là tiểu thư nữa. Nhũ mẫu không nói, ngày mai con đi khỏi nơi này". Nhũ mẫu sợ quá bèn ngọt ngào: "Nhũ mẫu sẽ nói, nhũ mẫu sẽ nói. Con nín đi!"
Nghe lời bà Dưỡng Phụng, cô ẩn Phụng cố nín. Tiếng khóc dừng hẳn, cô ẩn Phụng giục: "Mẹ nói đi mẹ! Bố con phạm tội gì mà bị Vua giết?". Bà Dưỡng Phụng đáp: "Phụ thân con can Vua nên mắc tội." Cô ẩn Phụng lại hỏi: "Thế còn mẹ con?" Bà Dưỡng Phụng đáp: "Chuyện mẫu thân con đau lòng lắm!" Cô ẩn Phụng lại giục: "Đau lòng như thế nào nhũ mẫu cứ nói đi". Bà Dưỡng Phụng giọng buồn rầu: "Hôm nay, nhũ mẫu chỉ nói thế thôi. Chuyện này rất rắc rối và còn dài lắm. Khuya lắm rồi đi ngủ thôi con ạ".
Bà Dưỡng Phụng bước tới giường buông màn. Cô ẩn Phụng bước theo nài bà nói tiếp. Bà Dưỡng Phụng chối khéo: "Nhũ mẫu mệt lắm rồi. Con bắt nhũ mẫu thức nữa nhũ mẫu sẽ ốm mất." Bà Dưỡng Phụng quay ra tắt đèn. Bác tiều phu quay về nhà nằm thức cho tới sáng...
Cô ẩn Phụng dấu mình trong xó rừng ngày ngày quanh quẩn bên cây thuốc. Cô những tưởng không ai để mắt đến nên cô được yên thân. Song dù hoa muốn dấu hương đi cho bướm ong không đến quấy nhiễu, thế nhưng gió không bao giờ cho hoa đừng. Tiếng đồn cô ẩn Phụng như bông hoa rừng đã khiến công tử gần xa tìm đến. Bao lời cầu hôn đều bị cô ẩn Phụng khước từ. Thương cô, bà Dưỡng Phụng khuyên:
- Trong số những người đến cầu hôn con có một vài người hào hoa xứng bậc quân tử. Con hãy chọn lấy một người. Rồi một ngày nào đó, nhũ mẫu cũng phải đi thì con sẽ có người ấm lạnh, nắng mưa.
Cô ẩn Phụng lễ phép hỏi nhũ mẫu:
- Nhũ mẫu lại khuyên con làm việc xấu à?
Bà Dưỡng Phụng ngẫm nghĩ lại nói:
- Không bao giờ nhũ mẫu khuyên con làm việc bất nghĩa. Có điều, đó mới là lời hứa của phụ thân con với quan Ngự sử. Vả lại, người ấy đã bị bọn tham quan tàn bạo giết rồi. Vì thế, con có lấy người khác cũng được.
Cô ẩn Phụng lặng đi giây lát rồi nói rất cảm động:
- Con biết nhũ mẫu thương con nên mới khuyên con tìm nơi nương tựa. Nhưng con không thể làm theo lời khuyên đó. Phụ thân con đã định nơi cho con. Người ấy thật xứng đáng. Nhưng chẳng may người ấy thiệt phận khi nhà Tướng công và nhà con gặp nạn oan do bọn gian ác gây nên. Vậy con phải một lòng với người ấy. Đó cũng là con giữ hiếu với người đã sinh thành ra con.
Hàng ngày, bà Dưỡng Phụng dậy đạo nghĩa cho cô ẩn Phụng. Những lời của cô đúng như lời dạy của bà, bà còn biết nói gì nữa. Bà Dưỡng Phụng ân hận đã nói ra điều bí mật ấy cho ẩn Phụng biết. Giá bà chưa nói ra...
Dù ẩn Phụng không muốn tiếp những người đến xin cưới cô làm vợ, nhưng đó là cô muốn. Ngẫm nghĩ nhiều đêm, cô ẩn Phụng đi đến một quyết định táo bạo. Cô lẳng lặng vào giữa vườn thuốc um tùm lấy dao rạch một vết dài trên má. Bà Dưỡng Phụng biết thì việc đã rồi. Bà xiết đỗi bàng hoàng. Trời đất phú cho tiểu thư hiền thục một nhan sắc như hoa. Vậy mà tiểu thư lại phải tự huỷ hoại vẻ đẹp như hoa của mình. Thì ra trên cõi đời này, người con gái nhan sắc bình thường dễ yên thân hơn những người con gái có vẻ đẹp rực rỡ.
Vết sẹo dài trên má có làm cho mặt ngọc giảm đi vài phần. Tuy vậy, cô ẩn Phụng vẫn đẹp. Nhiều người vẫn tơ tưởng cô. Nhưng họ không tìm đến xóm núi hoang nữa. Vì họ biết rằng, dù có cưới được người nhưng không cưới được lòng... Vậy có cưới được ẩn Phụng cũng không vui gì. Lòng đã không rung cảm thì tình có hơn gì nước ốc ao bèo.
Việc làm quyết liệt của ẩn Phụng đã đánh thức một thời đau đớn trong bà về nỗi oan của nhà quan Tổng đốc và những ngày đói rét, gió bụi của bà cùng tiểu thư coi bà như mẹ.