Sự chờ đợi làm Avery phát điên. Cô ngồi trong cái buồn nhỏ vuông vức, lưng dựa vào tường, chân này chéo lên chân kia, một tay gõ mấy đầu ngón tay lên mặt bàn, tay kia nắm bao nước đá để lên đầu gối bị thương. Tại sao lâu như thế này nhỉ? Tại sao Andrews không gọi? – Cô nhìn chăm chăm vào máy điện thoại, muốn nó reo lên. Không có gì. Không có tiếng động. Quay chiếc ghế xoay, cô nhìn chiếc đồng hồ hiện số lần thứ một trăm. Bây giờ là 10:05, giống như cách đây 10 giây. Lạy Chúa, đáng ra bây giờ cô đã nghe điện thoại reo rồi mới phải chứ.
Mel Gibson đứng dậy, dựa vào bức vách ngăn đôi giữa buồng làm việc của anh với buồng của Avery, nhìn cô với ánh mắt đầy thiện cảm. Tên này là tên thật của anh, tên móc nôi, nhưng Mel cho rằng cái tên này xưa rồi, cái tên vô danh, không ai trong lực lượng cảnh sát đếm xỉa đến. Thế nhưng anh cũng không thích cái tên do cơ quan đặt cho anh là Brad Piit.
- Chào, Brad, - Avery nói. Cô và các đồng đội khác vẫn dùng cái tên mới này cho quen. Tuần trước đồng đội gọi anh bằng tên "George Clooney", và cái tên này gặp phản ứng như cái tên "Brad" bây giờ, anh quắc mắt và nhắc rằng tên anh không phải là "George", không phải "Brad", và không phải "Mel", mà là "Melvin".
- Đáng ra bây giờ cô đã có tin rồi mới phải, - anh nói.
Avery quyết không để cho anh ta trêu chọc. Anh ta cao, trông có vẻ lanh lợi, yết hầu nhô ra thật lớn, và có thói quen dùng ngón tay thứ ba đẩy chiếc kính gọng thép lên trên cái sống mũi thẵng. Margo, một đồng đội khác nói với Avery rằng Mel làm thế là có ý đồ. Đấy là cách anh để cho ba người khác trong tổ biết rằng anh ta cảm thấy mình quan trọng hơn các tổ viên khác.
Avery không đồng ý như thế. Mel thường không làm điều gì không chính đáng. Anh sống theo quy cách mà anh tin là hình ảnh điển hình của người thuộc cơ quan FBI. Anh tận tâm, có trách nhiệm, năng nổ, có tham vọng, và…. Hơi quan trọng hóa công việc một chút. Mặc dù anh mới 27 tuổi, nhưng áo quần anh mặc giống như các nhân viên mật vụ mặc vào thời thập niên 50 của thế kỷ XX. Comple đen, sơ mi trắng tay dài có cổ áo cài khuy, cà vạt đen nhỏ bản, giày đen mũi nhọn đánh láng bóng, và đầu tóc ngắn mà Avery biết cứ hai tuần là anh cắt một lần.
Anh có thói quen kỳ lạ là hay trích dẫn vài chi tiết trong tập Chuyện Của Cơ Quan FBI, truyện đã được chuyển thành phim với Jimmy Stewart thủ vai chính. Anh ta nhanh trí kinh khủng và có tinh thần đồng đội. Anh chỉ cần tỏ ra mình xuất sắc hơn một tí là được. Thế thôi.
- Cô không nghĩ bây giờ đáng ra cô đã nhận được tin tức rồi à? – Anh hỏi, giọng lo âu như tâm trạng của cô.
- Còn sớm, - cô đáp, nhưng chưa đầy năm phút sau, cô nói tiếp, - anh nói đúng. Đáng ra bây giờ đã có tin.
- Không – anh chỉnh lại – Tôi nói đáng ra "cô" đã nhận tin. Lou, Margo và tôi không có dính líu gì đến quyết định nhờ cậy đội SWAT hết.
Ôi, lạy Chúa, cô đã nghĩ như thế nào nhỉ?
- Nói cách khác, anh không muốn bị khiển trách nếu tôi sai lầm phải không?
- Không khiển trách đâu, - anh nói – Mà bị sa thải. Tôi cần công việc này. Tôi đã sắp trở thành nhân viên mật vụ chính thức rồi. Theo nhãn quan của tôi.
- Tôi biết, Mel.
- Melvin, - anh chỉnh lại ngay tức khắc. – Và lợi thế sẽ lớn.
Margo đứng dậy để có thể tham gia câu chuyện.
- Nhưng tiền lương bèo.
Mel nhún vai nói:
- Môi trường làm việc cũng thế. Nhưng…. Cơ quan FBI kia mà.
- Môi trường làm việc của chúng ta có sao đâu? Lou vừa đứng dậy vừa hỏi. Buồng làm việc của anh nằm bên trái buồng của Avery. Mel ngay trước mặt cô, còn buồng của Margo nằm kế bên buồng của Lou. Phòng làm việc của họ - họ thường âu yếm gọi là hang chuột – nằm phía sau phòng cơ khí với tiếng máy đun nước nóng và máy nén kêu rầm rầm.
- Tôi thấy môi trường làm việc có gì không ổn đâu? – Anh hỏi lại, giọng có vẻ bối rối.
Lou kém năng lực, nhưng dễ thương, Avery nghĩ thế. Bất cứ khi nào cô nhìn anh ta, cô lại nhớ đến cảnh bừa bãi trong bức biếm họa cũ có nhan đề "Nghèo xơ xác". Lou lúc nào cũng luộm thuộm. Anh ta thông minh thật đấy, nhưng không mở miệng nói được câu gì hay ho, cái áo sơ mi tay cụt thường thường có ít ra là một vết bẩn. Sáng nay có hai vết. Một vết do nước mứt nơi bánh cam vòng của Margo mang đến. Vết này có màu đỏ lớn nằm ngang trên vết mực đen do cây bút gây ra trên túi áo sơ mi trắng.
Lou nhét đuôi áo vào quần – sáng nay là lần thứ ba anh nhét áo vào quần – rồi nói:
- Tôi thích làm việc dưới này. Rất thoải mái
- Chúng ta làm việc trong một góc tầng hầm không có cửa sổ - Margo đáp lại.
- Thì có sao đâu? – Lou hỏi. – Chúng ta làm ở đâu cũng không giảm bớt tầm quan trọng. Chúng ta là thành phần của một tổ công tác.
- Tôi muốn làm thành phần của tổ công tác nào có cửa sổ. – Margo nói.
- Không thể có đủ thứ được. Này, Avery, đầu gối ra sao rồi? – Bỗng anh hỏi, đổi đề tài.
Cô thận trọng giở bao nước đá lên, nhìn chỗ bị thương.
- Bớt sưng rồi.
- Chuuyện xảy ra như thế nào? – Mel hỏi. Anh là người duy nhất không nghe tai nạn xảy ra.
Margo vuốt mái tóc quăn đen, ngắn và đáp:
- Một bà già suýt chút nữa giết chết cô ấy.
- Với một chiếc Cadillac, - Lou nói. Tai nạn xảy ra trong bãi đổ xe. Rõ ràng bà già không nhìn thấy cô ấy. Chắc phải rút bớt tuổi cho phép lái xe xuống mới được.
- Bà ta đã tông vào cô à?
- Không, - Avery đáp.- Khi xe bà phóng quành góc đường, tôi chạy tránh được xe bà ta, nhưng lại đụng phải đầu một chiếc Mercedes khác, đầu gối va vào càng xe. Tôi nhận ra chiếc Cadillac là của bà Speigel, bà ở trong tòa nhà chung cư của tôi. Tôi nghĩ bà đã 90 tuổi. Bà không được lái xe, nhưng thỉnh thoảng tôi thấy bà lấy xe ra để đi mua đồ lặt vặt.
- Bà ta có dừng lại không?- Mel hỏi.
Cô lắc đầu.
- Tôi nghĩ chắc bà ta không tin là có tôi ở đấy. Bà ta phóng xe thật nhanh đến nổi tôi mừng là không có ai trên đường hết.
- Lou, anh nói đúng đấy, - Margo nói. Cô ta biến mất sau bức vách ngăn buồng làm việc của cô, cúi xuống đẩy cái thùng đựng giấy đánh máy đến góc buồng, rồi đứng lên trên thùng. Bỗng cô cao bằng Mel.- Phải giới hạn tuổi cho phép lái xe. Avery nói bà già quá nhỏ, đến nổi cô ấy không thấy được đầu bà ta khi nhìn từ phía sau xe. Chỉ thấy được một đám tóc bạc.
- Khi chúng ta già, thân thể chúng ta teo lại, - Mel nói. – Margo, nghĩ mà xem, khi cô 90 tuổi, chắc không ai thấy cô.
Margo, người nhỏ nhắn, cao 1m55, không phật ý đáp:
- Tôi sẽ mang giầy cao gót.
Điện thoại reo, cắt đứt câu chuyện. Avery vùng đứng dậy, xem đồng hồ: 10 giờ 14 phút.
- Đúng giờ, - cô thì thào nói khi điện thoại reo lần thứ hai.
- Trả lời đi,- Margo lo lắng nói.
Avery nhấc máy khi máy reo hồi thứ ba. Cô đáp:
- Avery Delaney đây.
- Ông Carter muốn gặp cô tại văn phòng của ông lúc 10 giờ 30, cô Delaney.
Cô nhận ra giọng nói. Cô thư ký của Carter có giọng nói của người ở bang Maine, cô đáp:
- Tôi sẽ đến bây giờ.
Khi Avery gác máy, ba cặp mắt đều nhìn cô.
- Ôi, trời đất!- cô nói nhỏ.
- Sao?- Margo hỏi, cô là người thiếu kiên nhẫn nhất.
- Carter muốn gặp tôi.
- Ơ ồ. Chuyện không hay rồi. – Mel nói, rồi, như thể anh nhận ra anh đã nói cái gì đáng ra không nên nói, anh nói thêm. – Cô muốn chúng tôi cùng đi với cô không?
- Anh muốn làm thế à?- Avery hỏi, ngạc nhiên khi nghe anh ta đề nghị.
- Tôi không muốn, nhưng phải đi.
- Thôi được rồi. Tôi hứng đạn một mình được rồi.
- Tôi nghĩ chúng ta sẽ cùng đi, - Margo nói. Nếu đuổi thì đuổi cả đám. Tôi muốn nói chúng ta cùng đồng lòng với nhau, được không?
- Được, Avery đồng ý – Nhưng ba bạn đã cố nói với tôi đừng đến gặp Andrews kia mà. Bạn nhớ chứ? Tôi là người duy nhất phạm lỗi. – Cô đứng dậy, để bao nước đá lên đỉnh tủ hồ sơ, lấy áo khoác.
- Chuyện không hay rồi, - Mel lặp lại. – Họ phá hỏng quy tắc chỉ huy. Lôi thủ trưởng của thủ trưởng vào việc này, chắc là chuyện chẳng lành. Carter vừa được đề bạt làm chỉ huy các chiến dịch nội hạt.
- Như thế tức là bây giờ ông ta là thủ trưởng của hai tầng thủ trưởng, - Margo nói.
- Không biết có đầy đủ các thủ trưởng ở đó không – Lou nói.
- Chắc có, Avery nói nhỏ. – Có lẽ cả ba thủ trưởng đều có mặt để sa thải tôi. – Cô cài nút áo khoác rồi hỏi: - Trông tôi như thế nào?
- Giống như người muốn hại cô, - Mel nói.
- Bít tất của cô rách hết, - Margo nói.
- Tôi biết. Tôi tưởng tôi có một đôi khác trong hộc bàn, nhưng té ra không.
- Tôi có thừa một đôi đây.
- Cám ơn, Margo, nhưng cô nhỏ con, mà tôi thì lớn. Mel, Lou, quay lưng lại hay ngồi xuống.
Khi họ quay lưng, cô đưa tay xuống dưới váy, kéo bít tất dài ra rồi để hai gót chân lên giày.
Cô rất tiếc là hôm nay cô mặc váy. Thường thường cô mặc quần váo sơ mi, nhưng vì hôm nay cô đi ăn tiệc, nên phải diện bộ đồ Averymani của dì Carrie tặng cách đây hai năm. Bộ đồ có màu nâu đẹp tuyệt vời, mặc với chiếc áo bó không tay có cổ hình trái tim cũng cùng màu. Chiếc váy trước có xẻ hai bên trông rất khiếm nhã, nhưng Avery đã khâu lại cho kín đáo. Bộ đồ trông rất tuyệt. Điều đáng làm cho cô ghi nhớ là cô mặc bộ đồ đẹp đúng vào hôm cô bị sa thải.
- Bắt này, - Margo nói vừa ném cái gói bít tất còn mới cho Avery. – Đây là loại mỗi kích cõ đều vừa. Chúng co giãn rất tốt. Cô phải mang bít tất. Chắc cô biết luật về áo quần rồi.
Avery đọc cái nhãn, nó cho biết vừa với mọi kích cỡ.
- Cám ơn, cô nói và ngồi xuống lại. Hai chân cô dài, khi kéo chiếc bít tất lên tận hông cô cứ sợ rách, nhưng đôi tất hình như vừa vặn sít sao.
- Cô sẽ đến trễ đấy, - Mel nói khi cô đứng lên sữa lại chiếc váy cho ngay ngắn. Tại sao cô không nhận thấy cái váy ngắn như thế này nhỉ? Gấu của váy chưa chạm đến đầu gối.
- Tôi còn bốn phút nữa. – Cô đáp. Sau khi đã tô son lại đôi môi, kẹp tóc gọn gàng sau gáy, cô xỏ chân vào giày. Đến lúc ấy cô mới nhận ra gót giày bên phải lỏng ra. Chắc khi cô vấp phải nắp chiếc xe, gót giày đã bị gãy.
Cô nghĩ bây giờ chẳng làm gì được nữa rồi. Cô hít vào, vươn vai, đi khập khiễng ra lối đi ở giữa phòng. Mỗi khi cất chân bước, cô cảm thấy đầu gối giật giật.
- Hãy chúc tôi may mắn đi!
- Avery, - Mel nói lớn. Anh đợi cho cô quay lui mới thảy cho cô cái thẻ chứng minh kẹp nơi áo. – Có lẽ cô nên đeo cái này vào nó.
- Phải, đúng vậy. Thế nào họ cũng lấy lại trước khi đưa tôi ra khỏi cơ quan.
Margo nói với theo thật lớn:
- Này Avery, cậu đừng quên chuyện…. nếu bị sa thải, cậu khỏi cần phải lo quái gì hết mà cứ vui chơi thoải mái với dì cậu ở suối nước khoáng đẹp như mộng ấy.
- Tôi không biết có đến gặp dì tôi ở đấy không. Dì ấy vẫn tưởng tôi đang kèm các đứa bé ở D.C.
- Nhưng bây giờ chắc dì cô biết chuyện ấy đã hủy bỏ rồi, cô thế nào cũng đến đấy vui chơi, - Margo lập luận.
- Đúng đấy, cô nên đi thôi, - Lou nói.- Cô có thể ở lại Utopia cả một tháng để làm bảng tóm tắt.
- Không ích gì đâu, quý vị,- Avery đáp, không nhìn lui.
- Văn phòng của Carter nằm ở tầng lầu bốn của tòa nhà cao ốc. Vào ngày thường, cô sẽ đi bằng cầu thang lầu để tập thể dục nhịp điệu, nhưng bây giờ đầu gối cô quá đau và gót giày bên phải quá lung lay. Khi đến thang máy, cô mệt nhoài. Trong khi chờ đợi thang đến, cô nhẩm tính trong óc những điều cô nói khi Carter hỏi về việc cô đã làm.
Cửa thang máy mở. Cô bước vào, bỗng nghe có tiếng kêu răng rắc. Cô nhìn xuống thấy gót giày nằm kẹt giữa đường ranh của thang máy với nền nhà. Vì chỉ có một mình, nên cô kéo cao váy, cúi xuống ở bên phía chân không bị đau để lấy cái đế giày bị long ra. Chính lúc ấy cửa thang máy đống lại ngay trên đầu cô.
Buột miệng rủa, Avery nhào lui. Thang máy chuyển động, cô níu vào lan can. Khi cửa thang mở ra ở tầng một, cô lấy gót giày và đứng lên. Khi thang máy lên đến tầng bốn, trong thang có nhiều khách, cô bị lấn ra tận phía sau. Cảm thấy mình như một kẻ ngu ngốc, cô xin lỗi mọi người để ra phía trước và khập khiễng bước ra ngoài.
Khổ thay, văn phòng của Carter ở cuối cái hành lang dài. Cánh cửa kính còn cách khá xa nên cô không đọ được tên khắc trên trên nắm tay cửa bằng đồng.
Vừa đi cô vừa nghĩ: Ráng lên. Đi được nữa đường cô dừng lại xem giờ để cho cái chân đau được nghĩ một lát. Cô con một phút nữa. Cô có thể đến kịp giờ, vừa đi lại cô vừa nghĩ. Cái kẹp tóc rơi ra, nhưng cô chụp kịp trước khi nó rớt xuống nền nhà. Cô kẹp lại vào tóc và đi tiếp. Cô bỗng ước chi xe bà Speigel tông vào cô. Chắc bây giờ cô khỏi phải nghĩ ra lời giải thích, và thế nào Carter cũng gọi cô ở bệnh viện để sa thải cô qua điện thoại.
- Ráng lên, - Cô lặp lại – Lẽ nào tệ hơn nữa?
Dĩ nhiên có thể tệ hơn. Ngay khi cô kéo cánh cửa, chiếc bít tất móc vào quần lót bị sút ra, tụt xuống khi cô khập khiễng bước tới bàn cô tiếp tân, dải vải quấn quanh hông tuột xuống mông.
Người đàn bà da ngăm đen trịnh trọng mặc bộ đồ Chanel ngắn cũn cỡn có vẻ ngạc nhiên khi thấy Avery.
- Có phải cô Delaney không?
- Phải, - cô đáp.
Chị ta cười.
- Cô đến đúng giờ. Ông Carter sẽ đánh giá cao việc này. Ông ấy làm việc rất đúng giờ giấc.
Khi chị ta nhấc máy điện thoại để báo Avery đã đến, cô nghiêng người tới trước, hỏi:
- Có phòng vệ sinh nữ gần đây không?
- Ở ngoài hành lang, qua khỏi cầu thang máy, phía bên trái.
Avery nhìn ra sau suy tính. Đi dọc theo cái hành lang dài dằng dặc để tháo cái bít tất mắc dịch ra, chắc cô sẽ trễ giờ hẹn, còn nếu không, cô có thể….
Cô tiếp tân cắt đứt dòng suy nghĩ mông lung của cô:
- Ông Carter muốn gặp cô ngay bây giờ.
Cô không nhúc nhích.
- Cô có thể vào trong, - Chị ta nói.
- Vấn đề là…
- Sao?
- Sao?
Avery từ từ đứng thẳng lên. Chiếc bít tất nằm yên. Cô mỉm cười nói:
- Tôi vào trong bây giờ.
Cô quay người, thôi cười, tay vịn vòa mép bàn rồi cố bước đi như thể chiếc giày vẫn còn đế. Nếu may mắn, Carter sẽ không chú ý đến tình trạng của cô.
Cô đùa với ai đấy? Người đàn ông đã được huấn luyện để có tài quan sát.
Ông ta cao, có vẻ đạo mạo, mái tóc dày đốm bạc và chiếc cằm vuông. Khi cô đi vào, Tom Carter đứng dậy. Cô lúc lắc đi tới. Khi đến bên cái ghế trước bàn làm việc của ông, cô muốn ngồi phịch xuống, nhưng phải đợi ông cho phép.
Carter đưa tay qua bàn để bắt tay cô, và vì cô phải vươn người tới trước, nên cái bít tất không chịu nằm yên một chỗ. Cái móc bây giờ đã tuột xuống đến đầu gối. Trong cơn hoảng hốt, cô nắm tay ông, lắc thật mạnh. Khi cô nhận ra tay phải cô nắm cái gót giày thì đã quá trễ. Từ khi cô thi tốt nghiệp đến giờ, chưa bao giờ cô ra mồ hôi như thế này.
- Thưa ông, rất sung sướng được gặp ông. Thật là một vinh dự. Ông muốn gặp tôi à? Trời, ở đây nóng quá. Xin phép ông được cởi áo khoác có được không ạ?
Cô nói lan man, hình như không dừng được. Tuy nhiên lời nhận xét về nhiệt độ làm cho ông Carter chú ý. Ơn chúa, lời đồn quả không sai. Carter có bộ ổn nhiệt riêng, ông thích để nhiệt độ trong phòng dưới độ nước đông. Nhiệt độ giống như ở Alaska. Avery ngạc nhiên không thấy hơi thở của mình thở ra. Thì ra cô nín thở.
Hãy bình tĩnh, cô tự nhủ. Hít vào thật sâu đi.
Carter gật đầu với vẻ thiện cảm. Ông không chú ý đến cái gót giày rơi trên chồng hồ sơ trên bàn.
Tôi nghĩ là trong phòng nóng, nhưng người phụ tá của tôi nói là ở đây lạnh quá. Để tôi vặn ổn áp xuống thêm một nấc nữa.
Cô không đợi ông Carter cho phép mới ngồi. Lúc ông quay lưng, cô liền lấy cái gót giày trên chồng hồ sơ đề tên cô và tên những người khác trong phòng của cô – Rồi ngồi xuống ghế lại. Chiếc bít tất bây giờ nằm một đóng quanh đầu gối. Cô cởi nhanh áo khoác, rồi vắt ở trên đùi chân.
Lát sau hai cánh tay và hai vai cô nổi gai ốc.
Hãy ráng lên cô nghĩ. Rồi sẽ ổn thôi. Khi ông ta ngồi vào sau bàn, cô sẽ từ từ tuọt chiế bít tất xuống và tháo ra. Chắc Carter sẽ không để ý đâu.
Đây là kế hoạch vĩ đại, nếu Carter tạo điêu kiện, chắc cô sẽ làm được thôi, nhưng ông ta không về ghế ngồi. Ông đi qua phía cô, rồi ngửa người ngồi lên mép bàn. Cô không thấp như Margo, nhưng cô phải ngửa đầu ra sau để nhìn vào mắt ông. Mắt ông có vẻ long lanh, cô thấy thật kỳ lạ, cô tự hỏi phải chăng ông thích thú vì sắp sa thải nhân viên. Lạy Chúa, có lẽ lời đồn đúgn mất.
- Tôi nhận thấy cô đi khập khiễng. Tại sao cô bị thương ở đầu gối thế? – Ông hỏi. Ông cúi xuống để lấy lên cái kẹp giấy bị rơi xuống nền nhà.
- Bị tai nạn, - cô đáp, lấy cái kẹp để trên đùi. Nhìn ánh mắt ngạc nhiên của ông, cô có thể nói câu trả lừi của cô không làm cho ông hài lòng.
- Một bà già… rất già, lái chiếc xe thật lớn, không thấy tôi khi tôi đi đến lấy xe tôi trong bãi đậu xe. Tôi phải nhảy đi tránh đường, nếu không bà ấy đã tông vào tôi rồi. Vì thế tôi va phải đầu một chiếc Mercedes, khiến gót giày long ra và đầu gối bị bầm. – Rồi, không để cho ông ta có thì giờ bà đến tai nạn rủi ro, cô nói tiếp. – Thực ra thì gót giày của tôi chỉ bị lỏng mà thôi. Nó bị văng ra khi cửa thang máy đógn ngay trên đầu tôi.- Ông nhìn cô đăm đăm như thể cô là con mụ điên đang nói lảm nhảm. – Thưa ông, thật là một buổi sáng không may.
- Nếu tôi là cô, chắc tôi phải chuẩn bị tinh thần, - ông Carter nói, giọng bỗng nghiêm nghị. – Tình hình chắc sẽ xấu hơn.
Hai vai cô chùng xuống. Carter đi đến ngồi vào ghế sau bàn làm việc. Cô thừa cơ hội này luồn hai tay xuống dưới áo khoác và váy, kéo bít tất xuống dưới hai chân. Công việc thật khó khăn nhưng có thể làm được, cô ngồi bình thản trên ghế, kéo cặp bít tất ra, công việc này chẳng khác gì một kỳ công. Trong khi ông mở tập hồ sơ của cô ra để đọc những lời ghi chú mà ông hay ai đó đã ghi chú về cô, thì cô nắm chiếc bít tất, vo thành một cục. Cô mang giày vào vừa lúc ông ngước mắt nhìn cô lại.
- Tôi đã nhận được cú điện thoại của Mike Adrews, - ông ta nói. Giọng nghiêm nghị của người có quyền sinh sát trong tay.
Cô cảm thấy ruột gan rối bời như mớ bòng bong.
- Thế à, thưa ông?
- Tôi tin là cô biết ông ta?
- Phải, thưa ông. Không rõ lắm,- cô vội nói tiếp.- Tôi tìm thấy số điện thoại của ông ấy, gọi cho ông trước khi rời khỏi văn phòng.
- Và trong cuốc điện thoại đó, cô đã thuyết phục được ông ta triển khai một đội SWAT đến Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất ở…- Ông ta nhìn xuống, tìm địa chỉ ở trong hồ sơ.
Cô nói nhanh địa chỉ và nói thêm.
- Chi nhánh gần tuyến đường sắt tiểu bang.
Ông ngửa người ra sau, vòng hai tay và nói:
- Cô hãy nói cho tôi biết cô biết gì về ba vụ trộm này?
Cô hít vào một hơi dài, cố thư giãn. Bây giờ cô đã ở vào tình thế được bình an, kiềm chế được mình.Vì cô đã đánh tất cả những bản báo cáo của nhân viên mật vụ vào máy tính và đã xem những cuộn băng từ của ngân hàng, nên cô biết rất rõ chi tiết và nhớ rất nhiều.
- Những tên cướp xưng là Chính Khách, - cô nói. – Có ba tên trong nhóm.
- Nói tiếp đi, ông giục.
- Có ba vụ cướp trong ba tháng vừa qua. Những tên đàn ông, tất cả đều mặc áo trắng, xông vào ngân hàng thứ nhất, Ngân hàng và Quỹ Ũy thác Quốc gia thứ nhất trên đường phố Thứ Mười Hai, vào ngày 15 tháng ba, đúng ba phút sau khi ngân hàng mở cửa làm việc. – Những người đàn ông dùng súng để chế ngự nhân viên và một khách hàng, nhưng chúng không bắn. Tên đàn ông chỉ huy đã kề con dao bên cổ người bảo vệ. Khi hai tên kia chạy ra cửa thì tên chỉ huy đâm người bảo vệ, thả con dao rồi tẩu thoát. Người bảo vệ không làm gì để chọc tức tên cướp hết. Không có lý do gì để giết ông ta hết.
- Đúng, không có lý do gì hết.
- Vụ cướp thứ hai xảy ra vào ngày 13 tháng tư tại Ngân hàng Mỹ quốc ở Maryland. Người quản lý ngân hàng, một phụ nữ, đã bị giết chết trong vụ cướp này. Tên chỉ huy đi ra cửa một cách tự nhiên. Bỗng hắn quay lui bắn thẳng vào bà ta. Một lần nữa, hình như không có lý do gì, vì các nhân viên đều nghe theo lời chúng.
- Còn vụ thứ ba.
- Vụ này xảy ra vào ngày 15 tha tháng năm tại Ngân hàng và Quỹ Ũy thác Goldman ở Maryland, - cô đáp. – Như ông đã biết, bạo động gia tăng. Hai người bị giết chết, và một người bị thương rất nặng xuýt chết nhưng đã bình phục một cách rất kỳ lạ.
- Tốt, cô đã nắm tình hình rất chính xác, - ông nói – Bây giờ cô cho tôi biết chuyện này. Cái gì làm cho cô tin rằng chi nhánh nhỏ của Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất ở Virginia sẽ là mục tiêu tiếp theo?
Ánh mắt của Carter rất gay gắt. Cô nhìn xuống đùi, cố suy nghĩ rồi nhìn lên lại. Cô biết cô đã đến hồi kết thúc ra sao, nhưng trình bày cho thủ trưởng của các chiến dịch nội hạt sẽ rất khó khăn.
- Tôi nghĩ chắc ông biết tôi tin chuyện này vì tôi thấy được các sự kiện xảy ra. Sự kiện đã có sẵn… hầu hết đã có nói trong hồ sơ.
- Không ai thấy điều này trong hồ sơ, - ông ta đáp. – Chúng tấn công ba ngân hàng khác nhau với ba vụ cướp, nhưng cô thuyết phục Andreuws tin rằng chúng sẽ tấn công chi nhánh khác nữa của Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất.
- Phải thưa ông, tôi đã làm thế.
- Điên… đáng chú ý là làm sao cô nói cho ông ta nghe lời cô?
- Không phải nghe lời tôi, - cô đáp, hy vọng Andrews không nói cho Carter nghe từng lời cô đã nói.
- Cô đã dùng tên tôi.
Cô giật thót người.
- Phải, thưa ông, tôi đã làm thế.
- Cô đã nói với Andrews chính tôi ra lệnh. Có phải thế không, Delaney?
Đã đén lúc rồi đây, cô nghĩ. Cái giọng của người có quyền sinh sát trong tay.
- Vâng, thưa ông.
- Chúng ta trở lại thực tế vừa rồi, nhé? Đây là điểm tôi muốn biết. Bọn “Chính Khách” đã tấn công vào các ngày 15 tháng ba, 13 tháng tư rồi 15 tháng năm. Chúng tôi không biết tại sao chúng tấn công vào những ngày đặc biệt ấy, nhưng cô biết, phải không? Chính cô đã nói thế với Andrews. – Ông ta nhắc cho cô nhớ. – Nhưng cô không giải thích rõ ràng.
- Không có thì giờ để giải thích.
- Bây giờ có thì giờ rồi. Căn cứ vào đâu mà cô kết luận như thế?
- Nhờ Shakepeare, thưa ông, - cô đáp.
- Shakepeare à?
- Vâng, thưa ông. Tất cả các vụ trộm đều theo một khuôn mẫu, hầu như giống một thủ tục trong công việc gì đây. Tôi đã lấy một bản in về các chi tiết của ngân hàng thứ nhất trong tuần lễ trước khi xảy ra vụ trộm. Tôi cũng làm như thế với hai ngân hàng kia. Tôi nghĩ là có gì đấy hiện ra cho thấy có mối liên hệ giữa các vụ cướp này.
Cô dừng nói để lắc đầu.
- Tôi đã có hàng đống các bản in khắp văn phòng, và tôi thấy có điều hơi kỳ cục. May thay, tôi có các đĩa ghi âm của các ngân hàng, cho nên tôi có thể kiểm tra chéo trên máy tính.
Carter thoa cằm, làm cho cô rối trí. Cô thấy vẻ nôn nóng hiện ra nơi mắt ông ta.
- Thưa ông, xin ông chịu khó cho một chút. Ngân hàng thứ nhất bị cướp ngày 15 tháng ba. Cái ngày này có làm cho ông suy nghĩ gì không?
Không để cho ông kịp trả lời, cô hỏi tiếp:
- Ngày kỷ niệm danh nhân trong tháng ba phải không? Ngày kỷ niệm Julius Caesar phải không?
Ông ta gật đầu.
- Đêm hôm qua, ý ấy chắc đã nảy ra trong óc tôi trong khi tôi đọc các bản tin, và tôi nhận thấy có người đàn ông tên là Nate Cassius đã rút tiền trên thẻ ATM. Tôi vẫn chưa kết hợp được các sự kiện này, - cô xác nhận. – Nhưng tôi nhận ra rằng tên đầu nậu của nhóm chính khách này đã để lại đầu mối, không biết tôi có đúng không, nhưng tôi rất hy vọng mình nghĩ đúng. Có lẽ hắn chơi trò che mắt chúng ta. Có lẽ hắn đợi để xem chúng ta có chú ý đến việc này không.
Bây giờ thì cô đã làm cho ông ta hoàn toàn chú ý. Ông ta bảo:
- Nói tiếp đi.
- Như tôi đã nói hồi nãy, ngày chúng ăn cướp làm tôi đâm nghi cho đến lúc tôi tìm ra. Tôi xem lịch La Mã thì thấy rằng khi người La Mã tính các ngày trong các tháng, họ thường ghi ngày kỷ niệm các danh nhân. Chúng ta đã biết trong vở kịch Julius Caesar của Shakepeare, ngày kỷ niệm trong tháng ba đúng vào ngày 15. Nhưng không phải tháng nào cũng thế. Có tháng rơi vào ngày 13. Cho nên, tôi mới chú ý thấy cái ngày rút tiền trên thẻ ATM đúng vào tuần lễ trước khi xảy ra vụ cướp thứ hai và thứ ba, ông biết tôi tìm ra cái gì không?
- Có phải Nate Cassius đã rút tiền ở các ngân hàng ấy?
- Không, thưa ông, - cô trả lời. – Nhưng một kẻ có tên Wiliam Brutus rút ở một ngân hàng, và Mario Casca rút ở ngân hàng khác… và các lần rút tiền đều diễn ra hai ngày trước khi xảy ra các vụ cướp. Tôi nghĩ là chúng nghiên cứu cách sắp xếp của các ngân hàng.
- Nói tiếp đi, - ông ta nói, người chồm tới trước.
- Tôi không tổng hợp được tình hình cho đến giờ phút cuối. Tôi phải lôi hết các biên bản giao dịch củ tất cả các ngân hàng nằm trong khu vực ba bang, từ ngân hàng thứ 11 trở lên.
- Vì hai vụ rút tiền lần sau được thực hiện đúng vào hai ngày trước khi xảy ra các vụ trộm.
- Phải. – Cô đáp – Tôi thức gần suốt cả đêm để kiểm tra chéo các dữ liệu, tôi coi trong máy tính thuộc ngân hàng thứ 11, và trời ơi, tôi thấy được vấn đề. Ông John Ligarius đã rút tiền ở chi nhánh nhỏ của Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất vào lúc 3 giờ 45 phút sáng. Tất cả những cái tên này – Cassius, Brutus, Casca, Ligarius – là của những người âm mưu chống lại Caesar. Tôi không có thì giờ kiểm tra những người cá các thẻ này, nhưng tôi tìm ra những thẻ này đều xuất phát từ các ngân hàng ở Airlington. Ligarius rút tiền ở Ngân hàng Quốc gia thứ nhất. Cho nên, Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất sẽ là mục tiêu tiếp theo cho chúng cướp.
Tôi thấy thì giờ quá cấp bách, mà thượng cấp của tôi, ông Douglas, không thích hợp. Ông ấy đã đi để đáp chuyến bay lâu 4 giờ. Tôi phải dùng sáng kiến – cô nhấn mạnh – Tôi thà mang lỗi, chịu mất việc còn hơn giữ im lặng những điều tôi khám phá ra mà tôi cho là đúng. Thưa ông, những suy nghĩ và quyết định của tôi, tôi đã đánh đầy đủ trong bản tường trình của tôi, khi ông đọc, chắc ông sẽ thấy rằng tôi chịu hoàn tòan trách nhiệm về hành động của tôi. Các đồng đội của tôi không có liên quan gì đến quyết định gọi cho Andrews hết. Nhưng theo ý kiến của tôi, - cô vội nói tiếp, - tôi, cũng như những người khác trong phòng làm việc của tôi, có bằng thạc sĩ, và tất cả chúng tôi đều làm việc rất nghiêm túc. Chúng tôi không phải chỉ là nhân viên đánh máy chuyển lời nhận xét của nhân viên mật vụ vào cơ sở dữ liệu mà thôi. Chúng tôi còn phân tích thông tin chúng tôi nhận được.
- Lập trìng máy tính cũng làm thế.
- Phải, nhưng máy tính không có tâm hồn hay là bản năng. Chúng tôi có. Và thưa ông, vì bây giờ chúng ta đang bàn về công việc, nên tôi xin thưa rằng công chức đã được tăng lương, nhưng lương chúng tôi thì không.
Ông Carter chớp mắt.
- Cô yêu cầu tôi tăng lương phải không?
Avery nhăn mặt. Có lẽ cô nói quá nhiều, nhưng ít ra nếu cô mất việc, thì Lou, Mel và Margo cũng có lợi. Bỗng cô cảm thấy tức giận vì cô và các đồng sự đã bị đánh giá quá thấp. Cô vòng tay, nhìn thẳng vào mắt Carter.
- Khi tôi viết tờ tường trình báo cáo cho ông, tôi cảm thấy tôi đã hành động rất đúng. Tôi không có cách nào khác ngoài việc phải thông báo cho Andrews biết, và nếu tôi không dùng tên ông thì chắc ông ấy cũng không nhúc nhích. Tôi biết tôi đã dùng quá quyền hạn, nhưng vì không có thời gian nữa nên tôi phải…
- Họ đã tóm được chúng rồi, Avery à.
Cô dừng lại đột ngột rồi hỏi:
- xin lỗi, ông nói sao?
- Tôi nói Andrews và nhân viên của ông ấy đã tóm được chúng rồi.
Cô không hiểu tại sao cô quá sửng sốt khi nghe tin này, nhưng cô sửng sốt thật. Cô hỏi:
- Tóm được tất cả bọn chúng à?
Ông gật đầu.
- Andrews và các nhân viên đợi, đúng 10 giờ 3 phút, ba thằng ấy ùa vào ngân hàng.
- Có tên nào bị thương không?
- Không.
Cô thở dài.
- Thật nhờ trời!
Carter gật đầu.
- Chúng mặc đồ trắng, cô có hiểu ý nghĩa chúng chọn màu trắng không?
- Hiểu chứ. Các Thượng nghị sĩ La Mã mặc áo dài trắng.
- Hiện giờ ba thằng ấy đang được thẩm vấn, nhưng cô chắc đã biết chúng muốn chơi trò gì rồi.
- Có lẽ chúng xem mình là những kẻ vô chính phủ muốn lật đổ chính quyền. Chúng sẽ nói với ông họ muốn giết Caesar, và có lẽ họ còn tung hô mình là thánh tử đạo vì mục đích này, nhưng ông biết sao không. Khi ông đã bác bỏ hết những chuyện bậy bạ vô nghĩa do chúng đưa ra, thì tật nào tính ấy thôi. Tham lam là động cơ chính. Chúng làm ra vẻ vì lý tưởng. Thế thôi.
Cô cười, cảm thấy hài lòng, bỗng nhiên một ý nghĩ nảy ra trong óc cô.
- Thưa ông, hồi nãy ông có nói buổi sáng của tôi sẽ xấu hơn, - cô nhắc ông ta. – Ông muốn nói cái gì thế?
- Sẽ có cuộc họp báo trong… - Ông dừng lại để xem đồng hồ. – 10 phút nữa, và cô là nhân vật chính cho mọi người chú ý. Tôi biết cô ghét cảnh phải trình diễn trước ống kính. Tôi cũng không thích họp báo, nhưng chúng ta phải làm gì đáng làm.
Avery cảm thấy hốt hoảng.
- Mike Andrews và tổ công tác của ông ấy phải dự họp báo mới đúng. Họ đã bắt được các nghi can. Tôi chỉ làm công việc của tôi thôi.
- Có phải cô khiêm tốn hay là…
Cô nghiêng người tới trước, cắt ngang lời ông Carter.
- Thưa ông, tôi muốn được giấu mặt.
Carter ngạc nhiên rồi mỉm cười, mắt long lanh trở lại.
- Cô ghét cay ghét đắng họp báo thế à?
- Phải, thưa ông. – Cô khen ông ta đã có thái độ cởi mở, nhưng vẫn không hết ái ngại trong lòng. – Tôi xin phép hỏi ông một câu được không?
- Được
- Tại sao hồ sơ của tôi nằm trên bàn ông? Tôi đã theo đúng thủ tục… rất nghiêm túc, - cô nói.- Và nếu ông không có ý định sa thải tôi.
- Tôi muốn làm quen với bộ phận của cô, - ông ta đáp vừa lấy tập hồ sơ lên.
- Tôi xin phép hỏi ông tại sao được không?
- Cô đang có thượng cấp mới.
- Cô cảm thấy khó tin. Cô và những người khác làm việc rất hòa hợp với Douglas, chuyện thay đổi khó mà có.
- Vậy ông Douglas về hưu à? Ông ấy có nói đến chuyện ổng về hưu lâu rồi, khi tôi mới đến đây.
- Phải, - Carter đáp
Avery cứ hỏi tiếp:
- Tôi xin phép hỏi ông ai là thủ trưởng mới của tôi?
Ông Carter ngước mắt lên khỏi cái kẹp hồ sơ trên tay.
- Tôi, - Carter đáp. Ông để cho cô hết bàng hoàng mới nói tiếp. – Bốn người trong nhóm cô sẽ chuyển sang bộ phận của tôi.
Cô tươi tỉnh lên.
- Chúng tôi sẽ có chỗ làm trong văn phòng mới à?
Câu trả lời của Carter khiến cho sự phấn khích của cô có phần yểu xìu:
- Không, các anh chị vẫn ngồi nguyên tại chỗ, nhưng từ sáng thứ hai, các anh chị phải báo cáo trực tiếp cho tôi.
Cô cố làm ra vẻ sung sướng.
- Vậu mỗi khi chúng tôi cần nói gì với ông, chúng tôi chạy lên chạy xuống bốn tầng lầu à? – Cô biết cô đã nói với giọng nhõng nhẽo nhưng quá trễ rồi, không lấy lui lại được.
- Chúng ta có thang máy đấy, và hầu hết nhân viên của chúng ta đều có thể dùng thang máy mà không bị va đầu vào giữa khung cửa.
Lời châm biếm không làm cho cô bối rối.
- Phải, thưa ông. Tôi xin phép hỏi ông chúng tôi có được tăng lương không.
- Cô sẽ được xét để tăng lương bây giờ đây
- Ồ. – Cô ước chi ông ta nói ra việc này ngay từ đầu… Tôi phải làm sao?
- Đây là phần phỏng vấn để xét tăng lương, và trong cuộc phỏng vấn, tôi hỏi, cô trả lời. Làm như thế là cách tốt nhất.
Ông lật hồ sơ bắt đầu đọc. Ông bắt đầu đọc phần lý lịch cá nhân do cô viết khi nộp hồ sơ xin việc, rồi xem kỹ phần tiểu sử.
- Cô sống vớ bà ngoại, Lola Delaney, cho đến năm lên mười một tuổi.
- Đúng thế.
Cô nhìn ông lật các trang giấy, rõ ràng để kiểm tra các sự cố và ngày tháng. Cô muốn hỏi ông ta tại sao ông cần biết rõ về quá khứ của cô như thế, nhưng cô nghĩ nếu làm thế, cô có vẻ tỏ ra quá lo sợ về quá khứ và có lẽ còn tỏ ra chống đối ông ta nữa, nên cô chắ hai tay vào nhau và ngồi yên. Carter là thượng cấp mới của cô, cô muốn phải khởi đầu làm việc với ông cho thật đàng hoàng.
- Lola Delaney bị giết chết vào đêm…
- Mười bốn tháng hai, - cô nói rất bình thản. – Vào ngày lễ Valentine.
Ông ta nhìn cô.
- Cô đã thấy việc ấy xảy ra?
- Phải.
Ông đọc lại những lời ghi chú lần nữa:
- Người giết bà ngoại cô là Dale Skarret, hắn bị truy nã. Đã có lệnh bắt hắn kết hợp thêm tội cướp tiệm kim hoàn, người chủ tiệm bị giết chết, số đá quý chưa cắt đẽo có trị giá lên đến hơn bốn triệu. Số kim cương chưa tìm thấy, còn Skarret chưa chính thức ra tòa.
Avery gật đầu.
- Bằng chứng buộc tội hắn không rõ ràng, người ta không thể kết án hắn. – Đúng thế, - Carter đáp. – Jilly Delaney cũng bị truy nã để thẩm vấn vì có liên quan đến vụ cướp.
- Phải.
- Chị ta không có mặt tại nhà vào cái đêm bà ngọai cô bị giết?
- Phải, nhưng tôi tin bà ấy đã phái Skarret đến bắt cóc tôi.
- Nhưng cô không đi?
Bụng cô lại quặn thắt.
- Phải, tôi không đi.
- Không ai biết chuyện gì xảy ra cho đến sáng hôm sau, và khi cảnh sát đến thì Skarret đã cao chạy xa bay, còn cô thì ở trong tình trạng nguy kịch.
- Hắn tưởng tôi đã chết, - cô nói xen vào.
- Cô được chở máy bay đến bệnh viện nhi đồng ở Jacksonville. Một tháng sau, khi cô lành các vết thương – thật là kỳ công khi thương tích quá trầm trọng như thế mà đã chữa khỏi – dì Carolyn đưa cô về nhà bà ta ở Bel Air, Caliornia. – Ông ta dựa người ra ghế. – Skarret lại đến tìm cô ở đấy, phải không?
Avery cảm thấy người căn thẳng tột độ. Cô đáp:
- Phải. Tôi là nhân chứng duy nhất kết liễu đời hắn. May cho tôi là tôi có thiên thần hộ mệnh. Cơ quan FBI bảo vệ tôi mà tôi không biết. Skarret đến trường vào giờ tan học.
- Hắn không mang vũ khí, và sau đó hắn nói với chính quyền rằng hắn chỉ muốn nói chuỵện với cô. Skarret đã bị bắt, bị đưa ra tòa vì tội sát nhân, - ông nói. – Hắn đã bị kết tội và hiện đang thi hành bản án tại Florida. Cách đây hai năm, hắn xin làm tờ cam kết để được thả ra, nhưng đã bị tòa từ chối. Tòa sẽ mở phiên xử nội trong năm nay.
- Phải, thưa ông, - cô nói. – Tôi thường xuyên liên lạc với văn phòng công tố viên, tôi sẽ được gởi giấy thông báo cho biết ngày mở phiên tòa.
- Chắc cô cần đến dự
- Tôi không muốn vắng mặt ở đấy, thưa ông.
- Phiên tòa mới sẽ xử về chuyện gì? – Carter hỏi. Ông ta gõ khớp ngón tay lên tập giấy rồi nói. – Tôi rất lấy làm lạ là luật sư của hắn cho rằng hắn có lý do xin được phóng thích.
- Tôi sợ hắn có lý do thật, - cô đáp. – Có đơn nộp cho tòa tố cáo ông công tố viên đã cất giữ thông tin quan trọng. Bà ngoại tôi bị đau tim, và khi bác sĩ chữa trị cho bà đọc báo thấy bà chết, đã đến cho biết như thế. Tin ấy không được gaio cho luật sư của Skarret.
- Nhưng cô thật chưa nghe có một phiên tòa mới ư?
- Chưa, thưa ông, tôi chưa nghe.
- Bây giờ ta trở lại chuyện của cô, - Carter nói.
Avery im lặng một hồi mới nói lại:
- Thưa ông, tôi xin phép được hỏi, tại sao ông quá quan tâm đến quá khứ của tôi như thế?
- Cô đang được xét tăng lương, - ông ta nhắc nhở cô.- Hai tuần sau khi Skarret bị kết án, Jilly Delaney bị chết trong một tai nạn xe hơi.
- Phải.
Avery đã quên nhiều về thời thơ ấu, nhưng cô nhớ rấy rõ cuộc điện thoại hôm ấy. Cô vừa mới chúc mừng lễ sinh nhật của Carrie xong, lễ mừng trễ vì vào đúng ngày sinh nhật của dì thì Avery còn đang ở bệnh viện,và đang giúp người quản gia don món rau lên bàn trước khi họ ngồ vào bàn để ăn. Avery để món khoai nghiền bên cạnh dĩa của dượng Tony khi Carrie trả lời điện thoại. Người giám đốc nhà mai táng gọi đến báo cho cô biết Jilly bị chết trong tai nạn xe hơi, và đã được hỏa thiêu. Ông ta hỏi Carrie muốn làm gì với tro hỏa thiêu, và tài sản cá nhân, gồm có cái bằng lái xe đã cháy sém. Avery đang đứng trước cửa sổ nhìn ra những con chim ruồi bay liếng thoắng ngoài trời, cô nghe Carrie nói với ông ta hãy ném những thứ ấy vào thùng rác nào gần nhất. Cô nhớ rất rõ giây phút ấy.
Carter bỗng thay đổi đề tài để lôi cô trở lại vấn đề đang bàn thảo.
- Cô làm việc trong lúc còn học ở đại học Santa Clara, tốt nghiệp hạng ưu môn chính là tâm lý học và môn bổ túc là khoa học chính trị và môn phụ khác nữa là lịch sử. Rồi cô đến Stanford để học lấy bằng thạc sĩ về hình pháp. – Nói xong, ông ta gấp tập hồ sơ lại. – Trong phần nguyện vọng cá nhân, cô nói cô đã muốn làm nhân viên FBI khi cô mới 12 tuổi. Tại sao?
Cô biết ông ta đã đọc câu trả lời rồi. Câu trả lời có trong phần nguyện vọng cá nhân, cô đã viết vào đơn xin vào Cục Điều Tra Liên Bang.
- Một nhân viên FBI có tên John Cross đã cứu sống tôi. Nếu ông ta không canh chừng tôi… Nếu Skarret bắt tôi đi khỏi trường, cuộc đời tôi chắc đã bế mạc rồi.
Carter gật đầu.
- Và cô tin cô có thể làm điều gì khác lạ cho Cục Điều Tra Liên Bang.
- Phải.
- Thế tại sao cô không làm cảnh sát địa phương?
- Chỉ làm công việc giấy tờ trong văn phòng, - cô đáp. – Cuối cùng rồi được làm công việc như hiện nay. Tôi được làm thêm sáu tháng nữa rồi chuyển đi chổ khác.
Người phụ tá của Carter cắt ngang câu chuyện.
- Ông Carter, họ đang đợi ông.
Avery lại cảm thấy hốt hoảng.
- Thưa ông, nên để Mike Andrews tham dự cuộc họp báo này. Ông ấy và tổ công tác của ông ta đã có công lớn trong vụ này, rất đáng khen.
- Không ai trong chúng ta thích làm việc này hết, - ông đáp lại. – Nhưng đây là một vụ rất nổi bật, và nói thật với cô, và hầu hết mọi người ai cũng muốn nhận đôi lời khen ngợi.
- Các đồng đội của tôi và tôi chỉ muốn được tăng lương… và phòng làm việc có cửa sổ, thưa ông. Ông có biết phòng làm việc của chúng tôi nằm sau phòng máy không?
- Khó mà có được một căn phòng thoáng đãng, - ông ta đáp. – Và cô có ý nghĩ chúng ta bàn chuyện này khi nào thế?
Avery khựng người.
- Thưa ông, trong việc xét tăng lương.
Ông ta cắt ngang lời cô.
- Cô đã nói với tôi cô tự ý gọi Andrews một mình kia mà.
- Phải, đúng thế, nhưng những người khác… rất cần thiết. Đúng thế, thưa ông, họ đã giúp tôi rất nhiều trong việc tìm kiếm tên của bọn cướp trong hồ sơ.
Mắt Carter nheo nheo.
- Cô có biết rằng tội nói dối sẽ không được tăng lương không?
- Thưa ông, Mel, Lou, Margo và tôi là một tổ. Họ đã giúp đỡ tôi. Cũng như tôi, họ sẽ không tin… Máy nội đàm của Carter kêu ù ù. Ông ta bực tức nhấn mạnh cái nút trả lời và nói:
- Tôi sẽ đến bây giờ.
Ông ta lấy áo vét tông, mặc lên người, cau mày nhìn cô một lát.
- Hãy thư giãn đi, Delaney, - ông nói. – Cô được thoát nạn. Tôi sẽ miễn cho cô tham dự cuộc họp báo.
Cô nhẹ cả người.
- Cám ơn ông.
Khi Carter đi ra khỏi bàn, cô đứng dậy, chiếc bít tất vo lại một nắm trong tay, giấu dưới chiếc áo khoác vắt trên cánh tay. Ông ta dừng lại ở cửa, quay lui, cặp lông mày vẫn còn cau lại.
- Delaney, đừng bao giờ sử dụng tên tôi khi chưa có phép của tôi.
- Vâng, thưa ông.
- Còn chuyện này nữa, - ông nói.
- Chuyện gì thưa ông?
- Chúc làm việc thật tốt.