Buổi chiều ngày 9-10-1934, Chu Ân Lai đến thăm Trần Nghị tại một quân y viện của hồng quân Trung hoa, và báo cho Trần Nghị một tin không vui. Ủy Ban Trung Ương đã quyết định trong vài ngày nữa, lực lượng chính quy của hồng quân sẽ rút lui khỏi căn cứ sô viết tại Giang Tây, cố gắng phá vòng vây của quân Quốc dân đảng, rồi tiến về phía tây lập một căn cứ mới. Hồng quân đang lâm vào thế quẫn bách, không thể chống lại được quân Quốc dân đảng, và bắt buộc phải lui binh để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn, trước Chiến Dịch Tiêu Diệt Quân Cướp Ðỏ của Tưởng Giới Thạch.
Trần Nghị lúc đó đang bị thương nặng. Trong một trận giao chiến với quân Quốc dân đảng một tháng trước đó, Trần Nghị bị trúng một viên đạn vào mông, xương hông bị vỡ, và vết thương nhất định không chịu lành. Các điều kiện của quân y viện quá nghèo nàn, không có máy chiếu điện nên các y sĩ không biết tình trạng xương hông của Trần Nghị ra sao. Trần Nghị là một tướng trẻ có tài, gốc người Tứ Xuyên. Tuy mới 33 tuổi mà Trần Nghị đã tạo được nhiều thành tích chiến đấu lẫy lừng, và được coi là một viên tướng thông minh nhất của hồng quân Trung hoa. Sau này Trần Nghị được phong chức thống chế, và một thời gian giữ chức ngoại trưởng của Trung cộng.
Chu Ân Lai còn cho Trần Nghị biết thêm rằng, tình trạng sức khoẻ của Trần Nghị không cho phép Trần Nghị di chuyển theo đại quân. Trần Nghị được giao phó trọng trách ở lại, áp dụng chiến thuật du kích, khuấy phá hậu phương của địch. Trần Nghị đã từng chiến đấu tại Tỉnh Cương Sơn với Mao Trạch Ðông và Chu Ðức từ năm 1929. Họ Trần rất am tường địa hình địa vật của chiến khu này. Trần Nghị và Mao cùng với Chu Ðức thành công mở rộng khu vực sô viết lên đến 33 quận tại Giang Tây, tới sát biên giới Phúc Kiến. Dân chúng sống dưới quyền kiểm soát của cộng sản lên đến ba triệu người.
Trần Nghị là một người thực tế. Viên tướng cộng sản này biết rất rõ trong một năm gần đây, hồng quân đã chịu những tổn thất rất nặng nề. Trong đợt bao vây lần thứ năm của Quốc dân đảng, hồng quân thua hết trận này đến trận khác, và đã hy sinh 60 ngàn quân chính quy. Bây giờ hồng quân phải chấp nhận chiến bại, và phải đương đầu với một cuộc rút lui vô cùng nguy hiểm. Hồng quân không thể rút ra biển hoặc về đồng bằng được, vì những khu vực ấy hiện nằm dưới sự kiểm soát của Tưởng Giới Thạch. Hồng quân bắt buộc phải đi vào chỗ nguy hiểm nhất, đi vào chỗ chết để tìm sự sống. Sinh lộ duy nhất của hồng quân là tiến vào các khu vực núi non hiểm trở, lấy thiên nhiên che chở chống lại chiến dịch tiêu diệt của quân Quốc dân đảng.
Quân số dưới quyền Trần Nghị chỉ còn vào khoảng 30 ngàn người, trong đó có trên 10 ngàn bị thương nặng như Trần Nghị. Quân số này sẽ phải ở lại với Trần Nghị, lẩn vào rừng núi và áp dụng chiến thuật du kích tiêu hao chiến, chống lại một kẻ thù đông gấp bội và được trang bị đầy đủ. Quân số thực sự có thể chiến đấu được của Trần Nghị chỉ có vào khoảng 16 ngàn người, trong đó chỉ có bảy ngàn được huấn luyện như quân chính quy, số còn lại chỉ là dân quân du kích, phần lớn chưa hề được dùng súng, chỉ được cung cấp dao và lựu đạn. Một lực lượng như thế phải đương đầu với 200 ngàn quân của Tưởng Giới Thạch, được cơ giới hóa, trang bị đầy đủ quân nhu và lương thực. Trần Nghị không dám hỏi Chu Ân Lai xem lực lượng ở lại của mình sẽ được tiếp tế đầy đủ vũ khí đạn dược không. Trần Nghị cũng biết dù có đòi hỏi thì Ủy Ban Trung Ương cũng không thể làm gì được. Ngay quân chính quy còn phải chịu thiếu thốn quân trang và vũ khí thì quân du kích làm sao có đủ được.
Chu Ân Lai cũng biết Trần Nghị không hào hứng lắm với mệnh lệnh và nhiệm vụ mới được giao phó. Tuy nhiên Chu Ân Lai cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của Trần Nghị. Trước hết quân du kích của Trần Nghị có nhiệm vụ cầm chân quân Quốc dân đảng để cuộc rút lui của hồng quân có thể thực hiện thành công. Trong số các tướng của Trung cộng thì không ai sánh bằng Trần Nghị trong nhiệm vụ ở lại. Không một khe núi, một nhánh sông nào trong vùng mà Trần Nghị không biết rõ. Trần Nghị cũng có uy tín lớn đối với dân chúng trong khu vực. Trần Nghị ở lại sẽ nâng cao tinh thần chiến đấu của quân và dân.
Trần Nghị không phải là người duy nhất Chu Ân Lai thông báo quyết định rút lui. Trước đó Chu Ân Lai đã cho mời Mao Trạch Ðông từ Vu Ðô tới trụ sở của Ủy Ban Trung Ương tại Thụy Kim và báo cho Mao biết quyết định trên. Mao lúc đó vừa đúng 40 tuổi và đang ở trong tình trạng thất thế. Gần một năm rồi, Mao bị bệnh sốt rét hành hạ, và không được tham gia vào các cuộc họp quan trọng của đảng. Mao hầu như sống trong tình trạng bị giam lỏng tại gia. Ủy Ban Trung Ương gồm có ba người: Lý Ðức, tư lệnh hồng quân, Bác Cổ, tổng bí thư đảng, và Chu Ân Lai, chủ tịch Ủy Ban Quân Sự và phụ trách các vấn đề hành chánh. Lệnh rút lui này là của Lý Ðức và được Bác Cổ mau lẹ chấp thuận. Lý Ðức và Bác Cổ là người của Nga sô và liên kết với nhau. Chu Ân Lai chỉ là tiếng nói thiểu số. Phe thân Nga đang lấn át tất cả những đảng viên không được huấn luyện tại Nga sô, như trường hợp Mao Trạch Ðông.
Nhóm thân Nga chủ trương trục xuất Mao ra khỏi đảng, và không muốn Mao tham dự cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Hai năm trước Mao bị loại ra khỏi các chức vụ quân sự và chính trị, và chỉ được giữ một chức vụ tượng trưng, là chủ tịch đảng tại quận Vu Ðô, một thị trấn có khoảng 10 ngàn dân. Nhiệm vụ của Mao lúc ấy là chủ tọa các cuộc họp của ủy ban địa phương tại Vu Ðô. Mao cư ngụ trong một căn nhà tại phía bắc Vu Ðô, cùng với Hạ Tử Trân, người vợ thứ hai, 24 tuổi, và đang có thai đứa con thứ tư. Mao bị cô lập, không được liên lạc với các giới chức cao cấp về quân sự và chính trị.
Hai tháng trước cuộc bao vây tiệu diệt lần thứ năm của Quốc dân đảng, Mao đã đề nghị tung những lực lượng chủ yếu của hồng quân đánh sâu vào khu vực Giang Tô - Triết Giang - An Huy - Giang Tây, với Triết Giang là trung tâm và quét sạch một vùng rộng lớn giữa Hàng Châu, Tô Châu, Nam Kinh, Ngũ Hồ, Nam Xương và Phúc Châu, biến thế phòng ngự chiến lược của hồng quân thành thế tấn công chiến lược, uy hiếp những trung tâm trọng yếu của Quốc dân đảng, và tìm những trận đánh tại những vùng rộng lớn, không có những lô cốt bao vây như tại Giang Tây. Mao cho rằng bằng cách như vậy, hồng quân có thể buộc quân Quốc dân đảng lúc đó đang tiến vào phía nam Giang Tây và phía tây Phúc Kiến, phải quay về bảo vệ những trung tâm trọng yếu. Mao tin rằng hồng quân có thể phá vỡ được cuộc bao vây tấn công lần thứ năm của Quốc quân vào khu sô viết Giang Tây. Lần khác Mao đề nghị tiến quân đánh Hán Khẩu và tiến thẳng tới Nam Kinh. Nhưng tại Bộ Chính Trị chẳng ai nghe lời của Mao. Lý Ðức còn đề nghị đưa Mao sang điều trị bệnh sốt rét tại Nga sô, một hình thức loại trừ. Nhưng Nga sô thấy còn cần đến uy tín của Mao đối với dân chúng, nên bác bỏ đề nghị của Lý Ðức. Mao cũng kịch liệt chống đối việc phải sang chữa bệnh tại Nga sô, vì Mao biết một khi ra khỏi Trung hoa thì Mao sẽ không có cơ hội trở về, và mất hẳn quyền chính trị. Bệnh sốt rét đã hủy hoại sức khỏe và thân thể của Mao rất nhiều, nhưng lúc nào Mao cũng cố giữ vững tinh thần cho minh mẫn, và cảnh giác trước những âm mưu hãm hại của kẻ thù là những lãnh tụ cộng sản thân Nga sô, đang nắm giữ những chức vụ quan trọng trong đảng và chính quyền. Chính vì thế khi Chu Ân Lai thông báo lệnh rút lui thì Mao chỉ im lặng chấp nhận. Lúc nào Mao cũng đề phòng Bác Cổ kết tội rồi thủ tiêu.
Ngoài Mao Trạch Ðông và Trần Nghị, Chu Ân Lai còn thông báo quyết định quân sự tối mật này cho 5 tư lệnh các quân đoàn, trong đó có Lâm Bưu và Bành Ðức Hoài. Lâm Bưu tìm cách lén đến nơi cư ngụ của Mao Trạch Ðông, và hỏi ý kiến Mao về cuộc rút lui. Mao dè dặt khuyên Lâm Bưu: "Tướng quân nên tuân lệnh trên và phải đi tới nơi đã được chỉ định." Mao biết địa điểm phải tới, nhưng đây là một mật lệnh quân sự, Mao không dám nhắc đến địa danh đó, dù với Lâm Bưu, một người có vẻ trung thành với Mao. Mao thận trọng tránh không tiết lộ bí mật quân sự để Bác Cổ không có lý do hãm hại mình. Một số người thân tín của Mao Trạch Ðông phải ở lại, như vợ chồng em ruột của Mao như Mao Trạch Ðàm có vợ là em ruột Hạ Tử Trân, và một số bạn thân của Mao. Hình như tất cả những người Mao đề nghị cho đi theo đều bị Lý Ðức và Bác Cổ từ chối. Tuy cuộc rút lui vào nơi hoang dã đã nguy hiểm, nhưng số phận những người ở lại khi quân Quốc dân đảng tiến tới còn nguy hiểm gấp bội, cơ hội sống sót trong trường hợp này không bằng một phần mười. Chính Mao Trạch Ðàm, em của Mao, và thân phụ của Hạ Tử Trân đã là những người đầu tiên bị quốc quân hành quyết, khi khu vực sô viết Giang Tây lọt vào tay quốc quân.
Theo chương trình của Ủy Ban Trung Ương thì hồng quân sẽ tập trung và tấn công quốc quân tại mặt trận phía tây, rồi từ đó tiến về một căn cứ mới do tướng Hạ Long đã thiết lập được tại vùng tây bắc, nằm giữa biên giới hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc. Quân số còn lại của hồng quân sẽ rút lui có khoảng 86 ngàn, trực thuộc năm quân đoàn. Ngoài năm quân đoàn này ra còn có thêm 30 phụ nữ và hai lộ quân gồm chín ngàn người, thuộc Ủy Ban Quân Sự và Lộ quân Trung ương. Ðệ nhất quân đoàn do Bành Ðức Hoài chỉ huy có nhiệm vụ đi tiên phong, mở đường máu cho đại quân đi sau. Ðệ nhất quân đoàn của Bành Ðức Hoài thành công trong nhiệm vụ giao phó, nhưng đã phải chịu những tổn thất vô cùng nặng nề.
*
Buổi chiều ngày 10-10-1934, một đám đông bắt đầu tụ tập trước trụ sở Ủy Ban Trung Ương tại Thụy Kim để chuẩn bị lên đường. Hôm đó là một ngày rất đẹp trời và ấm áp. Những người tập hợp tại đây không phải là quân nhân; có khoảng một trăm đàn ông và vài chục phụ nữ. Tất cả được xung vào đoàn "dưỡng nhân" - những người yếu đuối hoặc già cả, bệnh tật hoặc bị thương, và đàn bà. Mỗi người mang theo một cái mền, một bao lương thực, mười cân gạo đủ dùng cho mười ngày, một túi quần áo và các đồ vật dụng hàng ngày. Mỗi người còn nhét vào thắt lưng một chiếc ly sành, trong đựng một bàn chải đánh răng và một chiếc khăn tay nhét đầy cái ly. Một số người được cưỡi ngựa, như Mao Trạch Ðông, Sử Thế Ly vị sư phụ 57 tuổi từng dậy Mao tại trường Sư Phạm Trường Sa trước kia, Ðổng Tất Vũ một đảng viên cộng sản đầu tiên 48 tuổi, Hạ Tử Trân vợ của Mao đang mang bầu sắp tới ngày sinh, và một số phụ nữ.
Cái đám đông lếch thếch ấy sau đó được phân thành từng đội nhỏ, và đặt dưới quyền chỉ huy của Ðặng Phát, chỉ huy trưởng ngành an ninh của đảng. Những người thuộc đoàn "dưỡng nhân" này được đi trước. Riêng Mao Trạch Ðông chưa đi ngay, vì Mao còn phải làm một vài công việc cần thiết, và việc khó khăn nhất là đọc một bài diễn văn trước các cán bộ tại Vu Ðô và dân chúng ở lại. Mao muốn chỉ dẫn cho những người ở lại một vài ý niệm về những gì sẽ xảy tới, và phải đối phó thế nào khi hồng quân đã rút hết và quốc quân tới nơi. Tuy sức khỏe suy nhược, Mao đã cố hết sức nói một cách đầy tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng, mặc dầu những khó khăn to lớn mà hồng quân hiện đang phải đối phó. Các lãnh tụ Trung cộng đều có biệt tài tuyên truyền. Chính Mao cũng không chắc sống sót được trong cuộc chạy trốn, nhưng Mao vẫn hùng hồn nói đến chiến thắng cuối cùng, và kêu gọi dân chúng tiếp tục hy sinh chiến đấu!
Trong khi đó hồng quân ra sức tuyển mộ những thanh niên tình nguyện, bổ xung thêm quân số. Tất cả hồng quân được lệnh chuẩn bị cho một cuộc hành quân quan trọng nhằm phá vỡ vòng vây của địch quân. Mỗi người phải mang theo lương thực đủ dùng cho mười ngày. Mọi người tưởng sắp sửa tham gia một trận đánh mới, nên họ rất đỗi ngạc nhiên khi được lệnh phải đem theo quần áo ấm mùa đông, mặc dù thời tiết tháng mười chưa lạnh lắm.
Ngày 12-10, tất cả các cán bộ mọi cấp rút lui từ Thụy Kim về Vu Ðô. Họ đi ban đêm để tránh sự nghi ngờ của quốc quân. Hàng ngàn phu khuân vác đem theo tất cả những gì có thể đem theo được, kể cả những dụng cụ rất nặng nề, như máy in, những tủ đựng hồ sơ, những chiếc rương lớn chứa đầy vàng bạc thuốc men, các cỗ súng nặng, các bộ phận phát thanh và điện thoại. Ngày 16-10 là ngày hồng quân chính thức rút lui. Từng đoàn quân từ nhiều nơi khác nhau tiến ngang qua Vu Ðô, vượt qua con sông Vu Giang để tới An quận về phía nam.
Mãi chiều tối ngày 18-10, Mao Trạch Ðông và đoàn tùy tùng khoảng hai mươi người, gồm cả thư ký và vệ sĩ, mới bắt đầu lên đường, gia nhập vào Lộ Quân Trung Ương. Mao mang theo một túi đựng đầy sách, một chiếc dù gẫy cán, hai cái mền, và một áo choàng đã rách. Tất cả di chuyển một cách âm thầm kín đáo, hy vọng các oanh tạc cơ của quốc quân không khám phá ra họ. Kể từ Lý Ðức và Bác Cổ trở xuống, không ai biết chắc hồng quân sẽ thành công đi đến đâu. Nhiều người nghĩ rằng cuộc rút lui vào nơi hoang dã, bỏ lại các căn cứ đã được tổ chức thành công từ nhiều năm qua là một hành động tự sát. Vì mang theo quá nhiều đồ nặng nề, nên có những phu khuân vác mỗi ngày chỉ tiến được vài dậm.
Một tiểu đoàn công binh bắc năm cây cầu nổi qua con sông Vu Giang. Nước sông chảy về phía đông nam ra biển cả, trong khi hồng quân đi ngược chiều của dòng sông, đi về phía tây bắc, tới những ngọn núi cao chìm vào mây. Phần lớn hồng quân là những nông dân, những người vốn nặng lòng quyến luyến quê hương làng mạc và gia đình cùng lối xóm. Lần ra đi này, mọi nguời linh cảm ít có hy vọng trở lại làng cũ và gặp lại cha mẹ, vợ con. Tới bờ sông, nhiều người quay lại nhìn con đường cũ, rồi im lặng nhìn nhau và cùng hoang mang cảm thấy một nỗi buồn xót xa.
Về mùa này nước sông rất thấp, nhiều chỗ quân sĩ có thể lội qua được. Mao và đoàn tùy tùng đi dọc theo bờ sông. Mặt sông phẳng lặng và bóng loáng dưới ánh trăng. Mọi người qua con sông nhỏ một cách dễ dàng. Sự im lặng, ánh trăng và tiếng nước vỗ nhẹ vào các cây cầu nổi đã gây cảm hứng và nâng cao tinh thần mọi người. Bỗng một vài người bắt đầu cất tiếng hát. Tiếng hát của họ có vui tươi hùng hồn, nhưng không khỏi cảm khái bùi ngùi. Họ biết họ đang tiến vào một con đường vô định, với một mục tiêu còn rất xa vời.